cùng suy ngẫm về chính sách tiền tê một cái nhìn khách quan với chứng khoán vn

Discussion in 'Thị trường chứng khoán' started by sieulo, Oct 24, 2010.

9700 người đang online, trong đó có 239 thành viên. 23:52 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 0 người đang xem box này(Thành viên: 0, Khách: 0)
thread_has_x_view_and_y_reply
  1. sieulo

    sieulo Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    Apr 13, 2010
    Likes Received:
    29
    Chúng ta thực sự chẳng còn cách nào hơn là phải tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, thế nên cái hệ lụy của nó chính là phải giảm giá đồng nội tệ hơn (kép) sự giảm giá của đồng đô la Mỹ.

    Mâu thuẫn nội tại trong chính sách kinh tế là tăng trưởng luôn đồng hành cùng lạm phát, thế nên không hy sinh tăng trưởng cũng có nghĩa là biết chắc không kềm chế được lạm phát nhưng người điều hành chính chính cứ vẫn nói như khẳng định "nhiệt huyết" của mình dù họ biết điều gì đang xảy ra.

    Hơn ai hết, thị trường và giá vàng rất am tường về điều này, nó xem thường mọi hoạch định chính sách vì nó biết rõ sức mạnh bắt nguồn từ đâu và điều gì sẽ xảy ra như thuộc lòng bản cửu chương vậy. Mong muốn đồng tiền giảm giá không có nghĩa là làm cho nó đi xuống.

    Chiến thuật cắt giảm lãi suất cổ điển đã bị đẩy tới gần cực điểm, chỉ từ 0,1 đến 0,25% đối với nhưng nước giàu có còn VN chúng ta thế nào?

    Dường như khó tạo ra sự khác biệt về lợi suất giữa các nước phát triển khi mà đâu đâu lãi suất cũng dưới 1%. Trong các nước giàu, cũng theo đuổi chính sách can thiệp tỷ giá. Nhưng chiến thuật này chỉ có hiệu quả nhất khi các ngân hàng trung ương cùng phối hợp, và liệu có nước nào giúp nước khác phá giá đồng tiền? Do đó chỉ còn lại một lựa chọn là nới lỏng định lượng (quantitive easing - QE), hay nói cách khác là tạo thêm tiền để mua tài sản (điều quan trọng là in & mua nhanh trước khi bị phát hiện).

    Phương pháp này thường được giới thiệu là chiến thuật kích thích nền kinh tế nội địa bằng cách giảm chi phí tài chính và bơm thêm tiền vào hệ thống ngân hàng. Nhưng nếu như mọi điều kiện khác không đổi, việc in thêm tiền ở một quốc gia sẽ làm cho giá của đồng tiền nước đó giảm so với các đồng tiền khác.

    Trong vòng 2 năm qua, nhiều nước phát triển đã cố gắng thử các dạng của QE. (Ngân hàng trung ương châu Âu đã thực hiện phương pháp này ít hơn các đối thủ của họ, điều này lý giải cho sức mạnh tương đối của đồng euro hiện giờ). Viễn cảnh của việc tiếp tục nới lỏng định lượng (QE) giúp giải thích tại sao vàng, cổ phiếu và trái phiếu chính phủ đều tăng giá cùng lúc.(Áp lực nặng nhất là FED in đô thêm).

    Vàng được mua vào với lý do dễ hiểu là các ngân hàng trung ương dường như sẽ cam kết tiếp tục in thêm nhiều tiền hơn nữa: giới đầu tư sợ rằng điều này cuối cùng sẽ dẫn tới lạm phát. Các thị trường chứng khoán tăng giá bởi QE cuối cùng sẽ giúp phục hồi nền kinh tế và ngăn chặn nguy cơ suy thoái kép.

    Trong khi đó, lợi suất của trái phiếu chính phủ lại giảm bởi các ngân hàng trung ương có vẻ dành hầu hết tiền phát hành thêm để mua vào chứng khoán nợ nước mình. (in tiền làm giảm giá trị chung trong tài sản của người cầm tiền nhưng mua được tài sản thật). Giới đầu tư xem đó như là việc các ngân hàng trung ương đặt mức sàn cho giá trái phiếu. Vì vậy QE như một liều thần dược, làm tăng giá mọi loại tài sản. Điều đó có thể giúp giải thích tại sao vàng và trái phiếu chính phủ đều tăng mạnh trong quý 3, một sự kết hợp bất ngờ, khi mà vàng, cổ phiếu và trái phiếu chính phủ đồng loạt tăng giá.

    Tại sao các nhà đầu tư trái phiếu lại không phản ứng thận trọng hơn với quá trình in tiền như thế này? Lạm phát và giảm phát đều là những hậu quả hợp lý của một cuộc khủng hoảng nợ nên các nhà đầu tư đang trải rộng danh mục của họ, mua vàng nhằm đề phòng lạm phát và mua trái phiếu để đề phòng giảm phát. Một yếu tố khác là sự khác biệt về thời gian xảy ra. Lạm phát có thể là kết quả cuối cùng của QE trong vài năm nữa, nhưng trong ngắn hạn hơn thì rủi ro xảy ra có lẽ là giảm phát.

    Sau khi vàng và chứng khoán tăng kéo theo trái phiếu chính phủ lần này chắc chắn rằng trái phiếu chính phủ sẽ phải giảm giá sớm nhất. Một số người VN nghĩ rằng cổ phiếu sẽ tăng giá vào thời kỳ lạm phát nhờ vào mối liên hệ với nền kinh tế tăng trưởng...

    Khi mà vàng tăng giá hơn 20% trong vòng 5 năm thì lợi suất trung bình cùng thời kỳ từ các cổ phiếu có vốn hóa cao của Mỹ chỉ ở mức 2.1%. Và khi vàng giảm giá hơn 20% thì mức lợi suất trung bình trên lại là 99%.

    (Đây là một phạm trù tư duy kinh điển cho người vận hành tài sản trong vàng, chứng khoán và ngoại tệ). Nhận xét : Vàng sẽ giảm chút ít nếu không tăng lạm phát và chứng khoán VN có thể hồi phục vào cuối năm.
  2. kinhdoweb

    kinhdoweb Thành viên rất tích cực

    Joined:
    Jul 1, 2010
    Likes Received:
    0
  3. nguyenminhduc08

    nguyenminhduc08 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Joined:
    Sep 5, 2010
    Likes Received:
    0
    muốn các NH giảm lãi suất việc đầu tiên là NHNN phải giảm lãi suất cơ bản trước đã.
  4. baitran

    baitran Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    Jul 18, 2010
    Likes Received:
    5,295
    [r2)]
  5. sieulo

    sieulo Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    Apr 13, 2010
    Likes Received:
    29
    Có rất nhiều điều đáng bàn khi nhìn lại bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2010 và dự báo cho năm 2011. Tuy nhiên, dựa vào sự mất cân đối trầm trọng của cán cân ngoại thương cứ dai dẳng trong mấy năm qua thì có thể nói rằng tiền đồng Việt Nam đang bị định giá quá cao, nhất là so với đồng nhân dân tệ (NDT), chính là điểm yếu của kinh tế Việt Nam. Chính đồng tiền đang bị định giá quá cao làm cho hàng hóa của Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với hàng hóa Trung Quốc cho dù ngay trên sân nhà.

    Nhiều người có thể cho rằng phần lớn các nguyên vật liệu phải nhập khẩu từ Trung Quốc là do Việt Nam chưa có các ngành công nghiệp phụ trợ trong khi Trung Quốc đang có nhiều lợi thế với các ngành như vậy. Điều này có thể chấp nhận đối với một số ngành mà Trung Quốc có lợi thế như phôi thép, một số loại điện máy... Nhưng làm sao có thể biện minh cho việc nhiều loại hàng hóa thông thường như tăm tre hay miếng rửa bát của Trung Quốc đang tràn ngập trên thị trường Việt Nam nếu dựa vào lập luận nêu trên. Chính việc phải đi nhập khẩu từng cây tăm đã làm cho nhập siêu từ Trung Quốc chiếm đến 90% nhập siêu của cả nước.

    Yếu tố giải thích khả dĩ nhất chính là tỷ giá đồng tiền. Có nhiều ước lượng khác nhau về mức độ định giá thấp hơn giá trị thực của đồng NDT và mức độ tiền đồng cao giá so với đồng USD. Nếu dựa vào số liệu từ bài viết của TS. Võ Đại Lược và TS. Lê Xuân Nghĩa trình bày tại hội thảo “Ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng: Kinh tế Việt Nam năm 2010, triển vọng năm 2011” sẽ thấy đồng NDT đang được định giá thấp hơn so với đồng USD 30% trong khi tiền đồng đang bị định giá cao hơn 15% so với đồng USD.

    Hai kịch bản tỷ giá được trình bày trong bảng 1.

    [​IMG]

    Cần phải khẳng định rằng đồng tiền được định giá thấp luôn có tác dụng tích cực cho xuất khẩu dù tỷ trọng nguyên liệu đầu vào chủ yếu là nhập khẩu. Đây chính là lý do tại sao cả Nhật Bản và Trung Quốc bằng mọi giá giữ đồng tiền của mình ở một mức có lợi cho hoạt động xuất khẩu. Hiện nay tỷ giá USD/VND là 19.500, tỷ giá USD/NDT là 6,93 và tỷ giá NDT/VND là 2.815. Giả sử chi phí sản xuất một hộp tăm tại Trung Quốc (bao gồm cả lãi định mức và chi phí vận chuyển) là 1 NDT.

    Để có được mức lời định mức nêu trên, giá bán một hộp tăm Trung Quốc ở thị trường Việt Nam chỉ cần ở mức 2.815 đồng. Nếu chi phí sản xuất một hộp tăm ở Việt Nam là 4.000 đồng thì chắc chắn tăm Việt Nam không thể cạnh tranh được với tăm Trung Quốc vì nếu bán ở Việt Nam thì giá phải là 4.000 đồng và bán ở Trung Quốc phải là 1,42 NDT.

    Điều gì sẽ xảy ra nếu tỷ giá các đồng tiền được định đúng giá trị của nó? Lúc này, tỷ giá USD/VND sẽ là 22.425, tỷ giá USD/NDT sẽ là 4,85 và tỷ giá NDT/VND sẽ là 4.625. Do chi phí một hộp tăm ở Trung Quốc vẫn là 1 NDT nên để có được mức lời định mức, giá bán một hộp tăm Trung Quốc ở Việt Nam phải lên đến 4.625 đồng. Khi đó tăm Việt Nam không những không bị thất thế trên thị trường trong nước như hiện nay mà còn có thể xuất khẩu sang Trung Quốc vì chỉ cần bán được 4.000 đồng trên thị trường Việt Nam hay 0,87 NDT là đã đạt được lợi nhuận định mức.

    Phân tích trên cho thấy, việc đồng tiền Việt Nam đang bị định giá cao hơn trên 60% so với đồng NDT giống như hàng hóa sản xuất ở Việt Nam bị đánh thuế hơn 60% so với hàng hóa sản xuất từ Trung Quốc. Hành động hợp lý của các doanh nghiệp không chỉ nhập khẩu các nguyên vật liệu phụ trợ mà còn nhập khẩu cả tăm tre, sản phần gần như không có sự khác biệt về công nghệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, thậm chí nếu không tính đến yếu tố tỷ giá bị bóp méo thì chi phí sản xuất ở Việt Nam còn thấp hơn.

    Với tỷ giá như hiện nay hàng hóa của Việt Nam gần như không thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc. Điều này có nghĩa là các loại nguyên vật liệu phụ trợ gần như không có cửa để phát triển. Giải pháp có tính mấu chốt là cần phải đưa đồng tiền trong nước về đúng giá trị của nó so với đồng NDT càng sớm càng tốt. Đây là chìa khóa nhằm làm tăng sức cạnh tranh của các loại hàng hóa trong nước và cơ cấu lại nền kinh tế. Một trong những vấn đề làm nhiều người lo ngại là việc giảm giá đồng nội tệ sẽ gia tăng nợ.

    Tuy nhiên, đứng trên quan điểm quốc gia thì đây là một quan niệm sai lầm. Vì giảm giá đồng tiền không chỉ không làm tăng nợ mà còn giúp cho khả năng trả nợ của Việt Nam được cải thiện. Với khoản nợ nước ngoài khoảng 30 tỉ USD, tương đương với 600.000 tỉ đồng hiện nay, nếu giả dụ, tỷ giá tăng lên 30.000 đồng/USD thì tổng nợ quy ra tiền đồng sẽ là 900.000 tỉ đồng, tăng 50%. Đây là con số mà nhiều người nhìn vào và lo ngại.

    Tuy nhiên, trên thực tế khoản nợ của Việt Nam vẫn là 30 tỉ USD và Việt Nam phải kiếm đủ ngoại tệ để trả số nợ này chứ việc quy ra 600.000 hay 900.000 tỉ đồng không có ý nghĩa gì cả. Đứng dưới góc độ này thì giảm giá đồng tiền sẽ giúp cải thiện khả năng trả nợ của Việt Nam vì xuất khẩu sẽ có lợi và nhập khẩu sẽ bất lợi làm có cán cân ngoại thương được cải thiện.

    Hơn thế, đối với doanh nghiệp như Vinashin, nếu lấy đóng tàu làm nòng cốt thì giảm giá tiền đồng cũng sẽ có lợi. Giả sử nợ bằng ngoại tệ của Vinashin là 2 tỉ USD, tương đương với 40.000 tỉ đồng. Nếu tỷ giá tăng lên 30.000 đồng/USD, tổng nợ tính ra sẽ là 60.000 tỉ đồng, tăng 50%. Đây là một con số tạo ra cảm giác vô cùng khủng khiếp, nhưng trên thực tế Vinashin phải kiếm đủ 2 tỉ USD để trả nợ chứ không phải là 40.000 hay 60.000 tỉ đồng.

    Nếu hoạt động đóng tàu là nòng cốt thì doanh thu chính là từ USD, do vậy khi đồng tiền trong nước giảm giá thì ngành đóng tàu sẽ có lợi. Vấn đề của Vinashin chỉ có thể nghiêm trọng hơn khi giảm giá đồng tiền nếu tiền vay ngoại tệ được đổ vào những hoạt động phi ngoại thương như bất động sản hay chứng khoán chẳng hạn. Cần phải khẳng định rằng đồng tiền được định giá thấp luôn có tác dụng tích cực cho xuất khẩu dù tỷ trọng nguyên liệu đầu vào chủ yếu là nhập khẩu. Đây chính là lý do tại sao cả Nhật Bản và Trung Quốc bằng mọi giá giữ đồng tiền của mình ở một mức có lợi cho hoạt động xuất khẩu.

    Tóm lại, chừng nào vấn đề tỷ giá chưa được giải quyết thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh, phát triển công nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn chỉ là ước muốn. Chỉ có điều chỉnh tỷ giá mới có thể giúp cân bằng ngoại thương.

    Nếu Việt Nam không chủ động thì khi dữ trữ ngoại hối còn ở mức quá thấp và vì một lý do nào đó mà dòng vốn đảo chiều thì việc phá giá bắt buộc và bị động sẽ gây ra những tổn hại rất lớn cho nền kinh tế. Hơn thế, song song với việc điều chỉnh tỷ giá đồng tiền, việc cắt giảm chi tiêu công, nhất là những khoản đầu tư kém hiệu quả là một trong những yêu cầu bắt buộc vì mất cân đối bên ngoài rất khó giải quyết khi mà mất cân đối bên trong trầm trọng vẫn diễn ra.
  6. songmuathu

    songmuathu Thành viên mới

    Joined:
    Jun 18, 2010
    Likes Received:
    0
    HTML:
     muốn các NH giảm lãi suất việc đầu tiên là NHNN phải giảm lãi suất cơ bản trước đã. 
    Xin lỗi bác tý, câu này của bác nghe xa rời thực tế quá!!!!. Giờ này là giờ nào mà bác còn bàn đến lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản giờ không còn ý nghĩa như trước nữa. Trước sau gì VN cũng phải tiến tới tự do hoá lãi suất và tự do hoá các giao dịch ngoại tệ. Giờ lãi suất thoả thuận mới là quan trọng bác ạ. Sau Thông tư 01/2009 mở phát súng đầu tiên cho lãi suất thoả thuận đối với cho vay cá nhân, và sau đó là thông tư 07 năm 2010 cho phép thoả thuận lãi suất vay VND, lãi suất cơ bản không còn nhiều ý nghĩa nữa

    [r23)][r23)][r23)][r23)][r23)]
  7. takeshi679

    takeshi679 Thành viên gắn bó với f319.com Not Official

    Joined:
    Sep 1, 2010
    Likes Received:
    3,484
    =D>=D>=D>=D>

    "Cần phải khẳng định rằng đồng tiền được định giá thấp luôn có tác dụng tích cực cho xuất khẩu dù tỷ trọng nguyên liệu đầu vào chủ yếu là nhập khẩu"

    Câu hỏi:
    Nếu khẳng định vậy, tại sao không định giá 1USD = 1 tỉ đồng(hoặc hơn) vn luôn?
    (đứng trên quan điểm nợ quốc gia ko qui đổi sang tiền đồng như phân tích trên)
  8. sieulo

    sieulo Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    Apr 13, 2010
    Likes Received:
    29
    Chống rửa tiền: Khoảng hở về nhận thức
    22/10/2010 17:49:23
    [​IMG]
    Quy định về chống rửa tiền trong lĩnh vực chứng khoán khó khả thi (Ảnh minh họa: Corbis)
    (ĐTCK-online) Thông tư số 148/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền đối với lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và trò chơi giải trí có thưởng được ban hành khá bất ngờ và đang được các thành viên thị trường tiếp nhận với nhiều cách hiểu khác nhau.
    Chỉ còn chưa đầy 1 tháng nữa, Thông tư này sẽ chính thức có hiệu lực (21/11/2010), kèm theo đó là rất nhiều nghĩa vụ báo cáo về giao dịch lớn, giao dịch nghi vấn đối với các CTCK. Khoảng hở về nhận thức và cách thực thi văn bản về chống rửa tiền này đang cần được cơ quan quản lý quan tâm "vá lại" mới có thể khiến văn bản ban hành đi vào thực tế. ĐTCK xin giới thiệu một số cách nhìn về thông tư này.

    Ông Nguyễn Kim Long
    Giám đốc Luật và kiểm soát nội bộ, SSI
    Về nội dung Thông tư 148, trừ quy định về giao dịch giá trị lớn là 200 triệu đồng tiền mặt, còn lại rất nhiều quy định mang tính định tính như "bất thường", "không có lý do hợp lý", "xếp loại có nguy cơ rửa tiền cao"… cần phải có hướng dẫn mới làm được, bởi cứ để CTCK tự hiểu sẽ xảy ra tình trạng mỗi nơi làm một phách.
    Đối với quy định áp dụng các biện pháp xử lý tạm thời như đơn phương tạm dừng giao dịch của khách hàng, những quy định về căn cứ như là "có lý do để tin rằng, giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội"… sẽ rất khó cho CTCK thực thi, vì nếu không quy định rõ, CTCK ít có khả năng dám dừng giao dịch của khách hàng. Việc dừng giao dịch sẽ vi phạm hợp đồng cung cấp dịch vụ, giả sử sau đó, cảm nhận của CTCK về khả năng rửa tiền của nhà đầu tư là sai thì CTCK sẽ phải chịu trách nhiệm rất lớn với khách hàng.
    Về đội ngũ nhân sự, phòng chống rửa tiền là quy định mới, không chỉ mới đối với CTCK, mà là mới cả với cơ quan quản lý TTCK, nên nhân sự trực tiếp thực hiện không có kỹ năng và ít nhất cho đến nay là chưa được đào tạo. Khi Thông tư có hiệu lực thì vẫn buộc phải làm, nhưng hiệu quả thì chưa tính được. Cơ quan chức năng cần tổ chức đào tạo thì việc triển khai thực hiện mới thông suốt.
    Về vĩ mô, việc hạn chế giao dịch bằng tiền mặt sẽ giúp kiểm soát nguồn tiền "bẩn" hay "sạch" dễ dàng hơn rất nhiều so với thực tế hiện nay, khi mà tỷ lệ giao dịch bằng tiền mặt còn rất lớn trong nền kinh tế. Cơ quan chức năng cần có lộ trình hạn chế giao dịch tiền mặt để hỗ trợ cho việc phòng, chống rửa tiền.
    Tóm lại, Thông tư 148 đang rất cần cơ quan có thẩm quyền tổ chức đào tạo, hướng dẫn các đối tượng liên quan. Ngoài ra, cũng cần có những hướng dẫn mang tính định lượng để các công ty thành viên dễ thực hiện.

    Ông Nguyễn Văn Mạnh
    Giám đốc Chi nhánh Hà Nội, CTCK Kim Eng
    Thông tư 148 đưa tổng mức giao dịch của NĐT cá nhân từ 200 triệu đồng/ngày và NĐT tổ chức là 500 triệu đồng/ngày trở lên vào diện phải giám sát là thấp, bởi trên thực tế, giá trị giao dịch đạt ngưỡng trên ngày càng phổ biến. Hơn nữa, yêu cầu CTCK phải lưu trữ các dữ liệu này sẽ khiến họ bị "thêm việc" đáng kể. Việc đặt ra nghi vấn để theo dõi, điều tra và đi đến kết luận một hành vi rửa tiền trong lĩnh vực chứng khoán trên thực tế là rất phức tạp. Trong khi đó, các quy định pháp lý về phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực chứng khoán còn chưa đồng bộ, nhất quán.

    Ông Phạm Ngọc Phú
    Chủ tịch HĐQT CTCK An Thành
    Muốn phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực chứng khoán hiệu quả, thì điều quan trọng nhất là các quy định pháp lý phải đảm bảo đồng bộ và chặt chẽ để truy được chủ thực sự của các giao dịch có nghi vấn rửa tiền. Thế nhưng, yêu cầu này chưa đạt được trên thực tế. Nhiều người có mức lương, thưởng không cao, tại sao anh ta mua được nhiều tài sản đắt tiền như: biệt thự, ô tô, thậm chí là gửi tiền ra nước ngoài... Hơn nữa, với đặc thù một nền kinh tế sử dụng quá nhiều tiền mặt như Việt Nam, thì càng khó phát hiện đâu là giao dịch có nguồn gốc tiền "sạch", đâu là tiền "bẩn".

    Ông Nguyễn Tân Thắng
    Giám đốc Nghiên cứu thị trường trái phiếu CTCK TP. HCM (HSC)
    Nếu áp dụng theo những quy định của Thông tư 148 sẽ gây ra nhiều phiền phức đối với NĐT, nhất là NĐT cá nhân, vì thật ra mốc 200 triệu đồng không lớn.
    Trong trung và dài hạn, quy định này có thể sẽ tốt cho nền kinh tế, vì mọi thứ hy vọng sẽ minh bạch hơn và TTCK cũng dần trở nên lành mạnh hơn. Đương nhiên, những đối tượng rửa tiền nếu muốn tiếp tục làm điều này thì sẽ có nhiều cách lách luật. Việc giám sát dòng tiền là cần thiết, nhưng nếu phần lớn được thực hiện bằng tay mà không có một hệ thống hỗ trợ tự động sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực, vì khi đó sẽ có nhiều yếu tố con người liên quan và sẽ tạo ra thêm nhiều phiền phức cho toàn bộ hệ thống.

    Giám đốc môi giới một CTCK lớn tại Hà Nội
    Quy định về chống rửa tiền trong lĩnh vực chứng khoán, theo tôi là khó khả thi. Tương tự như lĩnh vực ngân hàng trước đây cũng có quy định chống rửa tiền và cá nhân gửi tiền 200 triệu đồng/ngày trở lên phải báo cáo, lượng khách hàng thống kê sẽ rất nhiều. Thực tế, tình trạng rửa tiền qua TTCK với quy mô và đặc thù của thị trường Việt Nam, nếu có cũng rất ít. Tại CTCK chúng tôi, trong điều kiện thị trường giao dịch bình thường, khách hàng giao dịch 200 triệu đồng/ngày chiếm tỷ lệ rất lớn.
    Về lý thuyết, việc bổ sung một chức năng liệt kê những khách hàng có giao dịch như vậy với CTCK không khó, nhưng hạn mức quá thấp như vậy sẽ khiến CTCK phải lưu số liệu rất nhiều và khách cũng có cảm giác không thoải mái khi thường xuyên bị liệt vào dạng giao dịch đáng ngờ.
    Một quy định nữa là khách hàng ngừng giao dịch 1 năm, khi giao dịch lại thuộc diện phải báo cáo lý do. Điều này là hết sức vô lý, vì khi thị trường không thuận lợi, khi khách hàng bận bịu vì lý do nào đó họ có thể đứng ngoài thị trường, hay đơn cử các lãnh đạo DN cả năm hoặc vài năm mới giao dịch mua/bán cổ phiếu một lần, khi ấy ngoài công bố thông tin theo yêu cầu, họ lại phải báo cáo lý do giao dịch mà không biết báo cáo cho ai, thời gian bao lâu...

Share This Page