Bài phân tích hay bên diễn đàn Kinh tế , mời các bác tham khảo

Discussion in 'Thị trường chứng khoán' started by khoainuoc, Jun 20, 2008.

11099 người đang online, trong đó có 1106 thành viên. 14:15 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 0 người đang xem box này(Thành viên: 0, Khách: 0)
thread_has_x_view_and_y_reply
  1. khoainuoc

    khoainuoc Thành viên quen thuộc

    Joined:
    Nov 14, 2006
    Likes Received:
    0
    Bài phân tích hay bên diễn đàn Kinh tế , mời các bác tham khảo

    Khủng hoảng thanh khoản và những giải pháp ngắn hạn

    Trong hai tháng qua, các ngân hàng thương mại của Việt Nam lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản chưa từng có. Chính sách thắt chặt tín dụng để giảm lạm phát thì lại thổi bùng lạm phát trong ngắn hạn. Bài viết này chỉ tập trung vào vấn đề thanh khoản ở ngắn hạn, cố gắng trả lời những câu hỏi sau: Khủng hoảng thanh khoản là gì? Tại sao nó diễn ra đúng vào lúc tăng trưởng đang ở mức kỉ lục và hậu quả của nó? Tình trạng thiếu thanh khoản xảy ra với những ngân hàng nào và tại sao? Đến khi nào khủng hoảng thanh khoản mới chấm dứt? Liệu Ngân hàng Nhà nước có thể đạt được mục tiêu rút tiền về để giảm lạm phát hay không, và nên làm gì trong ngắn hạn?

    PHẦN 1: KHỦNG HOẢNG THANH KHOẢN VÀ HẬU QUẢ

    Khủng hoảng thanh khoản là gì

    Khủng hoảng thanh khoản của hệ thống ngân hàng xảy ra khi vì một lý do nào đó, các ngân hàng thương mại không còn tiền mặt để cho vay và trả nợ đến hạn, mà không vay được trên thị trường liên ngân hàng.

    Khủng hoảng thanh khoản thường là hệ quả đi kèm của một khủng hoảng nợ xảy ra trước đó, nhưng đôi khi là hậu quả của việc thắt chặt tiền tệ quá đột ngột. Chẳng hạn, từ 9/8/2007, trong không đầy một tháng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã phải bơm khoảng 200 tỉ USD vào hệ thống ngân hàng để tránh khủng hoảng thanh khoản, hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ vay mua nhà dưới chuẩn trước đó. Ngược lại, ở Việt Nam, trước khi có tình trạng khủng hoảng thanh khoản hiện nay, chưa hề có dấu hiệu khủng hoảng nợ trong hệ thống ngân hàng, mặc dù rủi ro tiềm ẩn là có. Khủng hoảng thanh khoản nếu không đi kèm với khủng hoảng nợ thì dễ chữa trị. Chỉ cần Ngân hàng Nhà nước bơm thêm tiền vào hệ thống liên ngân hàng đúng lúc và đúng liều lượng, giữ lãi suất liên ngân hàng ở mức ổn định.

    Thắt chặt tiền tệ là đúng và không tránh khỏi

    Chính sách tín dụng nới lỏng của NHNN (từ năm 2003 đến 2007, cung tiền tăng 25% mỗi năm trong khi giữ lãi suất và tỉ lệ dự trữ bắt buộc không đổi) đã khiến lạm phát liên tục ở mức cao, và nhảy vọt đến trên 12% vào cuối 2007. Tổng dư nợ giữa 2007 là gần 1000 nghìn tỉ đồng, tăng hơn ba lần so với 2003 và bằng khoảng 90% GDP 2007!

    Với lãi suất thực âm (giá vốn quá rẻ), các nhà đầu tư phóng tay vay tiền đầu tư vào bất động sản (và ở quy mô nhỏ hơn, vào chứng khoán) bất chấp rủi ro tín dụng khi lãi suất tăng và khả năng suy thoái của thị trường này.

    Các ngân hàng hưởng lợi lớn từ cơn lốc đầu tư này, nên tốc độ cho vay tăng rất nhanh.
    Ngân hàng càng năng động thì tăng trưởng tín dụng càng cao (70% trong khối ngân hàng cổ phần, và 20% trong khối ngân hàng quốc doanh trong năm 2007). Các ngân hàng, dù biết rủi ro trong các dự án vay trong giai đoạn bùng nổ, nhưng cũng hưởng lợi từ đó, nên họ không đủ động cơ để hạn chế rủi ro thất bại của dự án vay, đẩy rủi ro về phía người gửi tiền. Các ngân hàng cũng không tính đến rủi ro lãi suất, nên dùng vốn đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn.

    Sự thiếu vắng hoàn toàn các công ty độc lập đánh giá rủi ro đã làm cho hệ thống ngân hàng không có con mắt canh chừng phạt điểm khi các ngân hàng chấp nhận quá nhiều rủi ro, đồng thời khiến doanh nghiệp và người dân mơ hồ về rủi ro của việc tăng trưởng tín dụng ồ ạt.

    Trong tình trạng thiếu kiểm soát của thị trường như thế, thì người ghìm cương cuối cùng chính là Ngân hàng Nhà nước. Nhưng NHNN, vốn không độc lập với các chính trị gia-những người luôn muốn tăng trưởng- đã không thể làm gì nhiều: Bằng cách kìm giữ lãi suất danh nghĩa không nhúc nhích trong vòng mấy năm liền, dường như NHNN đã từ bỏ vũ khí chính của mình trong cuộc chiến chống lạm phát. Không những thế, với tốc độ tăng cung tiền tăng hàng năm 25-35%, gấp nhiều lần tốc độ tăng trưởng kinh tế, NHNN đã chủ động tiếp tay cho lạm phát, một thứ thuế đánh vào người gửi tiết kiệm để tài trợ cho giới đầu tư thông qua vốn giá rẻ, nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Đời sống của những người ăn lương (công chức và công nhân) gặp nhiều khó khăn, và đình công là hệ quả tất yếu của lạm phát.

    Thắt chặt tiền tệ - Cơ hội của Ngân hàng Nhà nước

    Trước sức ép của lạm phát và lo ngại rủi ro quá lớn từ các khoản cho vay bất động sản và cổ phiếu, từ giữa năm 2007, NHNN dường như đã bớt phải chịu sức ép tăng trưởng. Sau nhiều năm, NHNN lại có cơ hội có được quyền lực thực sự mà đáng lẽ nó phải được hưởng.

    Trên thực tế, NHNN đã có những động thái mạnh mẽ nhằm rút tiền ra khỏi lưu thông: tháng 6/2007, NHNN đã điều chỉnh tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi đối với cả nội tệ. Tuy vậy, lạm phát không giảm mà còn tăng vọt, lên tới 14%/năm trong tháng 1/2008, có lẽ là hậu quả của việc tăng cung tiền mua USD trong năm 2007.

    Cuối tháng 1/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo điều chỉnh các lãi suất cơ bản, tái cấp vốn và chiết khấu; Ngày 13/2, NHNN thông báo sẽ phát hành 20,3 nghìn tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc đối với 41 NHTM. Đây có lẽ là quyết định gây ra cú sốc cho thanh khoản của hệ thống ngân hàng, vốn đã khá khó khăn từ cuối 2007. Có lẽ do đã cho vay đến hết hạn mức, các ngân hàng thương mại bắt đầu cuộc chạy nước rút để kiếm đủ tiền mặt trả cho tín phiếu, VNIBOR lại tăng vọt.

    Khủng hoảng thanh khoản do thắt chặt quá nhanh và tác dụng ngược

    Vào tháng 2/008, khi ngân hàng áp đặt bán 20 nghìn tỉ đồng tín phiếu thì các ngân hàng chỉ có mấy tuần để thu khối lượng tiền rất lớn này, trong khi lượng tiền mặt đang có trong hệ thống ngân hàng không còn nhiều. (Trước đó, các ngân hàng đã phải huy động thêm 10 nghìn tỉ đồng để bổ sung vào dự trữ bắt buộc, vừa tăng thêm 1%). Hệ quả tức thời của việc này là các ngân hàng, do không huy động kịp vốn nên phải vay nóng trên thị trường liên ngân hàng để tránh mất thanh khoản, đẩy lãi suất VNIBOR lên rất cao. Việc NHNN hất chi phí rút tiền về phía các ngân hàng thương mại đã và đang gây thiệt hại cho các ngân hàng, vừa phải vay lãi suất cao để mua tín phiếu lãi suất thấp, vừa không đủ tiền để cho vay theo kế hoạch.

    Không những thế, biện pháp nhằm giảm lạm phát trong trung hạn này lại đẻ ra lạm phát dữ dội trong ngắn hạn (chỉ trong 2 tháng đầu năm, lạm phát đã lên tới 6%). Muốn giữ cho hệ thống ngân hàng không lâm vào tình trạng mất thanh khoản, NHNN lại phải bơm tiền ra liên tục, ngược hẳn với ý định thu tiền về ban đầu. Chỉ trong 1 tuần vừa rồi, NHNN đã phải bơm 33 nghìn tỉ đồng vay ngắn hạn vào hệ thống liên ngân hàng, gấp 1,5 lần số lượng tiền định rút về qua tín phiếu bắt buộc.

    Chừng nào mà các ngân hàng chưa thu đủ 20 nghìn tỉ đồng từ người dân để mua tín phiếu NHNN, thì tình trạng thiếu thanh khoản vẫn còn. Mỗi khi lượng tiền cho vay ngắn hạn của NHNN đáo hạn thì thiếu thanh khoản sẽ lại diễn ra, và NHNN vẫn phải bơm tiền đều đặn vài ngày hay một tuần một lần như vừa qua để các ngân hàng thương mại ?ocầm hơi?. Điều này cũng tương tự như làm cho con nghiện bị sốc quá nặng vì cắt thuốc quá nhanh, rồi lại tiêm thuốc phiện để cho anh ta khỏi chết.

    Mặt khác, việc bơm tiền dồn dập vừa qua đang khiến cho NHNN dần ?ohết đạn?, tác động xấu đến tính khả tín của cam kết chống lạm phát của NHNN trong năm nay: Chỉ trong 2 tháng đầu năm, NHNN đã sử dụng hết gần một nửa hạn mức tiền đồng được phép đưa ra lưu thông cho năm 2008. Điều này lại dẫn đến kì vọng của người dân về lạm phát trong năm 2008 không giảm như mong muốn, và đến lượt nó, lại làm cho nhiệm vụ của NHNN thêm khó khăn.

    Cuối cùng, nguy cơ vỡ nợ kĩ thuật của một vài ngân hàng tuy chưa lớn, nhưng sẽ tăng nhanh nếu tình trạng khủng hoảng thanh khoản kéo dài. Một khi lòng tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng giảm sút quá lớn, họ sẽ đổ xô đến ngân hàng để tranh nhau rút tiền gửi, làm sụp đổ toàn hệ thống.
  2. khoainuoc

    khoainuoc Thành viên quen thuộc

    Joined:
    Nov 14, 2006
    Likes Received:
    0
    PHẦN 2: NHỮNG GIẢI PHÁP NGẮN HẠN CHO KHỦNG HOẢNG THANH KHOẢN
    Thắt chặt nhưng bên trọng bên khinh?

    Có lẽ không quá khó khăn để nhìn thấy trước rằng thắt chặt tiền tệ chắc chắn ảnh hưởng nặng nề tới khối ngân hàng cổ phần, vốn có tốc độ tăng trưởng tín dụng tới 70% trong năm vừa rồi (trong khi khối ngân hàng quốc doanh chỉ ở mức 20%). Diễn biến vừa qua cho thấy trừ vài ngoại lệ, các ngân hàng cổ phần rơi vào khủng hoảng thanh khoản nặng (thậm chí không đủ cả dự trữ bắt buộc).

    Nhưng NHNN đã chỉ tham khảo 5 ngân hàng quốc doanh mà không tham khảo khối cổ phần trước khi quyết định phát hành tín phiếu bắt buộc. Tất nhiên, các ngân hàng này sẽ đồng ý (như đã xảy ra) vì hai lí do. Một là, để thu hẹp lạm phát, rút tiền ra khỏi lưu thông là không thể tránh khỏi, và họ chỉ có thể chọn giải pháp nào ít đau đớn nhất cho mình. Do tăng trưởng tín dụng thấp hơn khối cổ phần, họ sẽ không gặp quá nhiều khó khăn như các ngân hàng thương mại về thanh khoản (trong khi tăng lãi suất sẽ ảnh hưởng đến tất cả các ngân hàng như nhau). Hai là, một khi hệ thống rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản như vừa qua, và VNIBOR lên kỉ lục thì đó cũng là mối lợi khổng lồ cho các ngân hàng đang dư dả về thanh khoản đem bán lại trên thị trường liên ngân hàng. Nếu đã biết người ta có lợi vì một chính sách nào đó, thì việc hỏi ý kiến người đó liệu có còn ý nghĩa nữa không?

    Các ngân hàng cổ phần, có vốn nhỏ hơn nhiều so với năm ngân hàng quốc doanh lớn, lại tiếp tục chịu thiệt thòi khi NHNN bán tiền trên thị trường liên ngân hàng theo hình thức đấu khối lượng. Việc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thông và BIDV trúng thầu toàn bộ 15 nghìn tỉ đồng ngày 20/2 là điều tất yếu. Và không thể trách hai ngân hàng này sẽ đưa số thanh khoản này bán lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao ngất ngưởng, bởi vì chính các ngân hàng cổ phần không được NHNN cho uống nước lại đang khát thanh khoản và tranh nhau mua.

    Sự phân biệt quốc doanh/cổ phần, nếu có, sẽ là một sai lầm vì mấy lí do. Một là, khi có bất kì ngân hàng nào mất thanh khoản, thì ảnh hưởng sẽ nhanh chóng lan đến cả hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Hai là, ngân hàng cổ phần, do thiếu vốn và sinh sau, đang rất năng động trong việc mở rộng thị trường tín dụng, tận dụng vốn và tạo ra sức cạnh tranh cho thị trường. Nếu khối này này bị suy yếu thì động năng trên thị trường vốn ảnh hưởng rất nhiều.

    Các giải pháp để giảm thanh khoản

    Một là, về trung hạn, cách làm có triển vọng nhất là tăng nhanh lãi suất danh nghĩa để hút tiền từ lưu thông. Mọi biện pháp (kể cả mệnh lệnh hành chính như dự trữ bắt buộc hay tín phiếu bắt buộc) cuối cùng đều phải chuyển tín hiệu qua kênh dẫn lãi suất mới tác động được đến thị trường. Do duy trì lãi suất danh nghĩa quá thấp, tổng tiền mặt ngoài ngân hàng chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng phương tiện thanh toán trong nhiều năm qua. Trong tháng 6/2007, tổng tiền mặt ngoài ngân hàng là 170 nghìn tỉ, trong khi tiền mặt trong ngân hàng chỉ là 10 nghìn tỉ đồng.

    Các ngân hàng vẫn còn nhiều ?ođất? để tăng lãi suất huy động. Khi tăng lãi suất danh nghĩa, thậm chí lên tới 20%/năm, thì chi phí của việc giữ tiền mặt tăng vọt và người dân gửi bớt tiền mặt, cung cấp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng.

    Vấn đề cơ bản để tính toán chính xác lãi suất cân bằng phụ thuộc vào vào độ co giãn của cầu tiền mặt với lãi suất (tăng một phần trăm lãi suất thì sẽ thu được thêm bao nhiêu tiền gửi ngân hàng). Nhưng dường như chưa có một nghiên cứu chính xác về độ co giãn cầu tiền mặt ở Việt Nam (và xin lưu ý là ngay cả ở Mỹ, con số này cũng thay đổi theo thời gian và biến động của nền kinh tế). Do không nắm rõ con số này, các ngân hàng và cả NHNN sẽ phải trải qua quá trình ?odò đá qua sông?, tăng dần lãi suất huy động để thăm dò thị trường. Trong quá trình này, tình trạng thiếu thanh khoản vẫn tiếp tục, nhưng sẽ được giải toả dần dần.

    Hai là, ngay lúc này cần áp dụng cơ chế đấu giá vốn trên thị trường liên ngân hàng, thay vì đấu thầu theo khối lượng. Như thế mới có thể phân phối thanh khoản đến đúng người cần nhất, mà chi phí không bị đội lên một lần nữa do qua tay một trung gian thắng thầu khác. Nếu VNIBOR tăng cao thì hãy để nó là giá trị thực của thanh khoản vào thời điểm đó. Cần đối xử bình đẳng với các ngân hàng.

    Ba là, trong ngắn hạn, việc rút tiền ra phải được chia ra nhiều bước nhỏ (mỗi lần vài nghìn tỉ đồng) và với lãi suất cao hơn. Rút 20 nghìn tỉ đồng khỏi lưu thông là cần thiết sau nhiều năm tăng trưởng tín dụng quá nhanh (cơ sở tiền tệ tăng lên hơn gấp đôi sau 4 năm), và còn chưa đủ (chưa bằng mức tăng cơ sở tiền tệ từ tháng 3 đến tháng 6/2007). Thanh khoản có thể vẫn bị thiếu cục bộ ở các ngân hàng, nhưng không trên diện rộng như hiện nay. Như thế, NHNN sẽ không phải tung quá nhiều tiền vào thị trường cùng lúc, mặc dù vẫn phải bơm đều đặn.

    Bốn là, tính toán kĩ lộ trình thắt chặt tiền tệ, để không phải thay đổi lộ trình, gây mất lòng tin cho người dân về khả năng kiểm soát lạm phát của NHNN (việc đánh tiếng của một vị Phó Thống đốc NHNN ngày 20/2 về hoãn tín độ bán tín phiếu bắt buộc là ví dụ). Giữ kỉ luật tài chính, không tạo niềm tin xấu cho các ngân hàng thương mại về sự nhượng bộ của NHNN mỗi khi các ngân hàng gặp khó khăn.

    Năm là, đưa ra cam kết về lạm phát mục tiêu một cách thực tế, và những biện pháp có thể tin cậy về lãi suất nhằm đạt mục đích đó, để định hướng lạm phát kì vọng. Để rút tiền VNĐ về thì tăng lãi suất danh nghĩa (tức là tăng chi phí giữ VNĐ) là đủ. Nhưng lãi suất danh nghĩa dù cao mà lạm phát cũng cao thì đô-la hoá nền kinh tế là không thể tránh khỏi. Muốn chống đô-la hoá thì lãi suất thực kì vọng của VNĐ phải lớn hơn của đô-la. Nhưng lãi suất thực kì vọng nào là đủ cao thì phụ thuộc vào lạm phát kì vọng, cái đến lượt nó lại phụ thuộc vào kì vọng về năng lực và ý định của NHNN của các chủ thể kinh tế.

    Kết luận:

    Thắt chặt tiền tệ là hướng đi đúng đắn sau một thời gian dài tăng trưởng tín dụng quá nhanh. Khủng hoảng thanh khoản chỉ là một hiện tượng nhất thời, nhưng sẽ không chấm dứt cho đến khi các ngân hàng thương mại tăng lãi suất đủ để thu tiền về. Nói chung, ảnh hưởng của đợt rút tiền đầu tiên lên tín dụng sẽ không quá lớn. Do khuôn khổ có hạn, bài viết này không bàn đến những hậu quả lớn hơn của chính sách thắt chặt tiền tệ, như ảnh hưởng của nó lên thị trường bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng, tỉ giá, đô-la hoá nền kinh tế v.v.
  3. axela

    axela Thành viên rất tích cực

    Joined:
    Feb 18, 2006
    Likes Received:
    0
    Bác cho cái link và tên tác giả, không em lại tưởng bác là tác giả vì thấy tên của bác ngay dưới. Còn nếu bác là tác giả thật thì bác nói luôn để bà con vote cho bác.
  4. khoainuoc

    khoainuoc Thành viên quen thuộc

    Joined:
    Nov 14, 2006
    Likes Received:
    0
    Hông phải tớ nhé
  5. 6eorge5oros

    6eorge5oros Thành viên rất tích cực

    Joined:
    May 31, 2008
    Likes Received:
    0
    Cái này có phải của a Lê Giang ko bác?
  6. MotVonBonLoi

    MotVonBonLoi Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Joined:
    Jan 13, 2008
    Likes Received:
    0

    NGUYỄN AN NGUYÊN (Rice University, USA)
  7. TheBanker

    TheBanker Thành viên tích cực

    Joined:
    Dec 26, 2006
    Likes Received:
    3
    Của bác Lê Giang bên minhbien ấy hả?

    Các bác sang bên ấy check thử xem.

    Rgds,



  8. BeerGirl

    BeerGirl Thành viên tích cực

    Joined:
    Dec 22, 2004
    Likes Received:
    11
    Đã đến cái trường RICE này, đẹp vãi. Thảo nào bọn Mẽo có nhiều thằng giỏi.

Share This Page