....Chứng khoán: Được hay Mất, Thành hay Bại nên lưu ý điều này....

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi xlight, 07/01/2012.

8300 người đang online, trong đó có 1114 thành viên. 11:40 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 4 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 4)
Chủ đề này đã có 21172 lượt đọc và 296 bài trả lời
  1. xlight Thành viên gắn bó với f319.com

    http://diendan.lyso.vn/viewtopic.php?f=43&t=22577

    Theo quan điểm của đạo Phật thì luật nhân quả xuyên suốt quá khứ vị lai. Con người sinh ra đời là kết tinh của nghiệp quá khứ, tức là những gì đã tạo tác trong các kiếp trước.

    Có câu:
    Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị
    Dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị.

    Tức là:
    Muốn biết đời trước gieo nhân gì, hãy xem sự hưởng thọ đời này sẽ rõ
    Muốn biết đời sau thế nào, hãy xem hành động ứng xử hiện tại sẽ rõ.
    Như vậy mỗi người chúng ta đều có nghiệp thiện và nghiệp ác trong quá khứ, nghiệp lực sẽ chi phối vào cuộc sống hiện tại và tạo nên một số phận. Vấn đề ở đây là chúng ta trải qua sự tái sinh cách ấm không còn nhớ được các kiếp trước của mình, tất nhiên chẳng biết được nghiệp thiện ác của mình ra sao. Chỉ có các vị tu hành đắc Túc mạng thông mới thấy được nhũng điều ấy. May mắn nhờ có các nhà lý số bằng nhiều cách khác nhau như xem lá số Tử vi, Tứ trụ Tử Bình, Quẻ Dịch, xem tướng mạo...chúng ta có thể biết một phần nào số mạng, cũng là nghiệp của mình.
    Sự xem số mạng không chỉ để thỏa mãn sự tò mò hiếu kỳ, chúng tôi cho rằng xem để làm cơ sở cho mỗi người có giải pháp cần thiết cải thiện cuộc sống, tăng phúc giảm họa. Khi biết mình có ưu thế nào, có điểm yếu nào thì giống như đi biển có tấm bản đồ, không sợ bị lạc. Mỗi người sẽ có cuộc sống tự chủ yên vui, không trách trời trách đất trách người, sống có trách nhiệm với hành vi của mình hơn, thương mến nhau hơn.
    Theo Kinh nhân quả của đạo Phật, người hiện nay nghèo khó khổ cực vất vả là do đời trước hà tiện không giúp người khó khăn, cản trở công việc người ta, ngầm hại người chiếm đoạt tài sản, trộm cắp...Muốn hóa giải nghiệp xấu thì làm việc từ thiện, giúp đỡ tài vật cho người cơ nhỡ, bố thí cho kẻ nghèo hèn, cúng chùa giúp các vị đệ tử Phật tu hành giải thoát và các vị ấy lại đem giáo pháp đến với mọi người...
    Người hay đau ốm, tật nguyền, mắc bệnh nan y... là do tiền kiếp sát sinh hại mạng, giết nhiều mạng sống, làm nghề đồ tể hoặc thợ săn, ngư phủ, hoặc lạm sát trong các cuộc chiến tranh... Muốn hóa giải nghiệp xấu thì tránh sát sinh, phóng sinh thật nhiều, giúp đỡ những người đau ốm thuốc men, thông cảm giúp đỡ người khổ sở tật nguyền, bằng mọi biện pháp phản đối ngăn ngừa chiến tranh...
    Người hôn nhân trắc trở, cô đơn là do tiền kiếp ngoại tình, chia rẽ vợ chồng người ta, cản trở hôn nhân, đố kỵ ganh tỵ gièm pha làm gia đính người ta xào xáo bất hòa...Muốn hóa giải thì cần giữ thái độ đàng hoàng nghiêm túc trong quan hệ, hoan hỉ giúp những đôi Uyên Ương được hạnh phúc, giúp những cặp vợ chồng bất hòa đoàn tụ, luôn tìm cách hòa giải mâu thuẫn gia đình người ta...
    Người công danh trắc trở, làm gì cũng khó khăn... là do tiền kiếp cản trở đè nén người tài, lạm dụng quyền lực, hoặc đối xử quá khắc nghiệt với cấp dưới, hoặc cố ý cản trở phá hoại sự học hành tiến thân của người ta...muốn hóa giải thì cần giúp cho những học sinh học giỏi có điều kiện học tập thi thố tài năng, vui vẻ hoan hỉ với thành công của người khác, tạo mọi điều kiện giúp họ thành công hơn trên đường đời...
    Người hiếm con cái là do tiền kiếp chia rẽ mẹ con người ta, hoặc giết hại con của người hoặc của các con vật làm cho cha mẹ họ đau khổ...muốn hóa giải thì nên phóng sinh thật nhiều, tránh sát sinh, giúp đỡ chăm sóc trẻ em, làm mọi cách để cha con mẹ con người ta được đoàn kết thân ái...

    Cuộc sống còn rất nhiều vấn đề nữa, khó mà kể ra được. Sửa đổi số mạng rất khó, không phải một sớm một chiều mà xoay chuyển được nghiệp xấu. Nhất là những người đã đứng tuổi. Cần phải hết sức kiên nhẫn bền chí mới có kết quả. Những người dù không có nhiều nghiệp xấu cũng rất cần làm những việc tích phúc để được hưởng phúc lâu bền.

    Đức Phật dạy muốn chuyển nghiệp một cách nhanh chóng mạnh mẽ thì nên học đạo tu hành, tụng kinh trì chú, sám hối nghiệp chướng, lánh dữ làm lành, làm theo những lời Phật dạy trong kinh điển, không tạo thêm nghiệp mới, giải quyết nghiệp cũ. Trong thực tế, những người tu hành lâu năm do nghiệp đã thay đổi, không còn khống chế được cuộc đời họ nữa nên không thể xem được vận số của họ qua lá số hoặc những phương pháp khác. Đây cũng chính là cứu cánh của chúng ta cho đời này và đời sau.

    ------------------------
    ------------------------

    Bản thân tôi xin tự thú nhận từ khi bước chân vào nghề chứng khoán đã ko dưới vài chục lần hô sai cả về trend cũng như mã CK. Đúng thì ko nói, nhưng khi sai, điều này đã gây nên những hậu quả xấu tới những ai nghe theo mình. Đấy là chưa tính đến hàng chục lần hô không thật lòng, khi nhìn lại quả thực thấy hổ thẹn vô cùng.

    Topic này được lập ra là để tự răn mình nhằm tránh lặp phải những sai lầm trong quá khứ, cũng như hi vọng qua đây giúp ích phần nào cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này.

    Kính chúc cả nhà bước sang năm mới 2012 dù khó khăn đến mấy cũng vẫn biết cách vượt qua để giành chiến thắng....[r32)][};-[r2)]
  2. xlight

    xlight Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    04/04/2007
    Đã được thích:
    3.232
    VÀI SUY NGHĨ VỀ SỐ MỆNH TRONG PHẬT GIÁO
    HT. Thích Trí Quảng
    Số mệnh của con người hay con người có số mệnh hay không ; đó là vấn đề được đề cập và tranh luận khá nhiều trong triết học cũng như trong lãnh vực tôn giáo từ nghìn xưa cho đến ngày nay .

    Theo như cách hiểu thông thường , số mệnh là cái gì có sẵn do thế lực vô hình hay do Thượng đế áp đặt mà con người phải cúi đầu gánh chịu , không thể hiểu được và cũng không thể thay đổi định mệnh ấy .

    Đối với vấn đề định mệnh hay số mệnh của con người , lý giải của Phật giáo không giống như cách nghĩ nói trên ; vì nếu định mệnh không thể thay đổi thì chắc chắn chúng ta không thể nào tu hành , cải thiện cuộc sống của chúng ta thăng hoa cho đến đỉnh cao là bậc toàn giác như Đức Phật .

    Trên thực tế , những điều không may xảy đến cho con người ngoài ý muốn của họ , hoặc điều tốt đẹp mà người được hưởng cũng không do họ tính toán được , thì theo Phật giáo , định mệnh ấy vẫn thật có . Nhưng cái định mệnh , số mệnh ấy không nằm trong bàn tay quyết định của vị thần linh nào khác , mà nó tuỳ thuộc ở hành động và ý tưởng của chính người ấy, thường được gọi là nghiệp . Có lẽ khẳng định rằng số mệnh là hình bóng của nghiệp , số mệnh tốt hay xấu tuỳ theo nghiệp tốt hay xấu . Chính vì vậy, đạo Phật thường khuyên chúng ta tu để chuyển nghiệp , tức thay đổi số mệnh .

    Thật vậy, nếu hiểu số mệnh là cái tốt hoặc xấu vĩnh viễn dành cho một người thì không ai có khả năng thay đổi . Nhưng lý giải theo căn bản chuyển nghiệp , chúng ta có thể thay đổi được số mệnh của chính mình . Nếu nghiệp nhẹ , chúng ta có thể thay đổi số mệnh ấy ngay trong đời này . Trường hợp túc nghiệp của chúng ta quá nặng, tất yếu phải đời sau hay nhiều đời sau nữa mới đổi được . ví dụ phải mang những dị tật bẩm sinh trong hiện đời , dù có cố gắng mấy , hình tướng bất toàn ấy cũng không thể thay đổi hoàn toàn , trở thành bình thường trong hiện đời .

    Đức Phật dạy rằng nhìn số mệnh của chúng ta trong đời này sẽ suy ra được nghiệp nhân đời trước của mình . Nếu nghiệp nhân đời trước hay tiền nghiệp tội lỗi đã tạo , kết quả dẫn đến hiện nghiệp không tốt , chẳng hạn như đời này phải gánh chịu số phận đói khát , nhục nhã của người dân một nước bị nô lệ , lạc hậu hoặc phải sanh vào gia đình thật nghèo khổ , không đủ cơm ăn áo mặc sống lang thang …

    Ý thức được khả năng chuyển nghiệp theo lời Phật dạy, chúng ta có thể từng bước cải thiện cuộc sống thành tốt đẹp . Từ nghèo khó, nhưng biết đầu tư kiến thức, công sức vào công việc , cũng có thể đạt được cuộc sống sung túc , từ ốm yếu bệnh hoạn biết điều chỉnh thể xác và tinh thần thành khỏe mạnh , từ không giỏi , nhưng siêng năng học hành cũng có thể đỗ đạt , tăng trưởng hiểu biết , đạt được vị trí cao trong xã hội , hoặc biết sửa đổi tánh tham lam hung dữ , lười biếng thành siêng năng, hiền dịu , ngay thẳng thì chắc chắn sẽ được người khác tin cậy , quý mến , hợp tác và gầy dựng được cuộc sống giàu sang .

    Như vậy , với tiền nghiệp hay số mệnh đã có , nhưng biết thay đổi nếp suy nghĩ, lời nói, việc làm của chính chúng ta trong đời này , chúng ta sẽ thay đổi được số mệnh trở thành tốt đẹp trong tương lai gần là hiện đời hoặc xa hơn là đời sau , thậm chí có những nghiệp ác phải nhiều kiếp mới cải thiện được hoàn toàn . Ý này được Đức Phật dạy rằng muốn biết được tương lai đời sau như thế nào thì hãy xem việc làm hiện tại của chúng ta .

    Trong việc chuyển hoá nghiệp của tự thân mỗi người muốn được tốt đẹp , dễ dàng , có thể nói sự trợ duyên của thầy hiền bạn tốt đóng một vai trò quan trọng đáng kể .

    Đọc lịch sử Phật giáo, chúng ta thấy có những người có phước duyên được gặp Phật hay Thánh tăng khai ngộ , họ liền đắc quả dễ dàng . Thiết nghĩ trên bước đường tu hành , chúng ta đều nhận chân được công ơn tế độ của minh sư và sự trợ lực của thiện hữu tri thức lớn lao như thế nào . Nhờ nương theo thầy hiền bạn tốt , tâm chúng ta trong sáng , có được nhận thức đúng để từng bước chúng ta sửa đổi tư duy và việc làm thăng hoa trên con đường thánh thiện . Trái lại , gặp ác duyên là thầy tà bạn ác xúi dại , dẫn chúng ta đi vào con đường tội lỗi , thì số phận chúng ta càng tệ hại thêm nữa .

    Theo Phật giáo trong sáu nẻo luân hồi có hai thế giới vật chất mà chúng ta thấy được là thế giới của loài người và súc sanh . Bốn thế giới tinh thần , chúng ta không thể thấy gồm hai thế giới cực ác là địa ngục và ngạ quỷ , và hai thế giới thiện là chư thiên và chư thần (A tu la) .

    Khi tâm hồn lắng yên hay bằng trực giác, chúng ta có thể cảm nhận được lực tác động vô hình của bốn loại hình thế giới : chư thiên , chư thần , địa ngục và ngạ qủy vào sinh hoạt của hai thế giới hữu hình là loài ngươiø và súc sanh .

    Thực tế cho thấy những người tự tử được cứu sống , thường nói rằng họ cảm nhận sự thúc đẩy vô hình một cách mãnh liệt , xúi giục họ tự động chui vô gầm xe hay nhảy xuống sông . Họ đã lao vào cái chết một cách vô ý thức và tuân theo áp lực vô hình , không cưỡng lại được . Có thể hiểu đó là thế lực ác của hai thế giới vô hình đã tác động họ . Hoặc trong đời , ít nhất một lần chúng ta đã từng thoát chết trong đường tơ kẽ tóc cũng có cảm giác như được chư thiên , chư thần che chở . Vì vậy , trong thời kinh hằng ngày , chúng ta cũng tụng bài mời thỉnh Trời , A tu la , Dược xoa đến nghe kinh và kết làm quyến thuộc với chúng ta để cùng nhau xây dựng một xã hội , tốt đẹp, an vui , hài hoà .

    Trong mối tương quan tương duyên mật thiết của các loài trong sáu nẻo luân hồi theo Phật dạy , tất yếu các loài chịu sự chi phối của nhau theo vòng quay của nhân duyên mà có nhiều sự việc không thể thấy bằng mắt thường , nhưng không phải là không có . Chỉ có tuệ giác vô thượng của Đức Phật mới thấu suốt ngọn ngành của nhân duyên , nhân quả và tuỳ theo đó ứng xử mới đạt kết quả đúng đắn , lợi lạc cho tự thân và mọi loài trong pháp giới một cách trọn vẹn .

    Tóm lại , chúng ta nối gót theo Phật , ý thức sâu sắc về sự chuyển đổi cách nghĩ , cách sống theo chiều hướng thánh thiện , tất yếu sẽ mang lại an vui lợi lạc cho chính chúng ta và người thân hay đoàn thể , xã hội trong hiện đời và trong tương lai .

    Trên bước đường tu , ngoài việc nỗ lực tự tịnh hoá thân tâm , làm việc thiện, chúng ta cũng cầu thầy hiền bạn tốt trợ lực , chỉ dạy cho ta tiến thân theo hiền thánh . Bên cạnh sự hỗ trợ của minh sư và thiện hữu trong sinh hoạt thực tế , đối với thế lực vô hình , chúng ta hướng tâm cầu nguyện chư Phật , Bồ tát , hiền thánh , chư thiên , chư thần đồng thời gia bị cho chúng ta sáng suốt , thanh tịnh , tăng trưởng lòng từ đối với muôn loài ; vì đó là những điều kiện cần thiết để thăng hoa trên lộ trình giác ngộ , giải thoát .

    Kết hợp được hai phần tự lực và tha lực trong nếp sống tu hành , chúng ta sẽ thành tựu được công đức lành , có được thân tướng trang nghiêm , làm được việc lợi ích cho người , được người quý mến . Đó là hình ảnh cao quý của hàng đệ tử Phật trong hiện đời và muôn kiếp về sau .

    Source: Nguyệt san Giác Ngộ số 48
    thuong48tdTOANDAITUONG thích bài này.
  3. xlight

    xlight Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    04/04/2007
    Đã được thích:
    3.232
    Luật Nhân Quả
    Viết bởi Tuệ Dũng

    Mục đích cuối cùng của những người thực hành theo Phật giáo là đạt đến quả vị hoàn toàn giác ngộ và thấu suốt mọi sự vật của một đức Phật. Phương tiện chúng ta nương vào để tu tập là cái thân người này với một tâm hồn thanh tịnh.
    Hầu hết chúng ta sống một cuộc đời tương đối như những con người lành mạnh. Thật vậy, theo lời đức Phật dạy trong các kinh điển có được thân người hôm nay là một phước duyên thù thắng và vô cùng quý báu. Ðó là kết quả của vô lượng công đức trải qua nhiều kiếp tu hành của chúng ta. Mỗi cá nhân đã nỗ lực tinh tấn tu hành mới có được cái thân người này.
    Tại sao nó quý báu như vậy? Bởi lẻ thân người giúp chúng ta có nhiều thuận duyên tu tập phát triển đời sống đạo đức hầu mưu tìm hạnh phúc cho chúng ta và những người khác. Loài vật không có khả năng thực hành đạo đức như con người vì chúng đang sống trong cõi vô minh.
    Cho nên chúng ta nên biết quý trọng cái thân người nầy và cố gắng bằng mọi cách tinh tấn tu hành để mong được tái sinh làm thân người ở kiếp sau. Mặc dù chúng ta luôn mong ước đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, chúng ta nên biết rằng con đường tu hành để thành Phật là rất dài mà chúng ta muốn thành tựu cần phải trải qua các khoảng thời gian ngắn để chuẩn bị tu tập.
    Như chúng ta đã biết để bảo đảm được tái sanh làm người với đầy đủ khả năng có thể theo đuổi con đường tu tập, hành giả trước tiên phải áp dụng thực hành đạo đức. Ðiều này, theo giáo lý đức Phật, có nghĩa là con người cần tránh, không làm mười điều ác. Sự khổ gây ra do mỗi việc làm ác này, có nhiều mức độ khác nhau. Ðể đưa ra những lý do cho chính bản thân mình cần tránh các hành động bất thiện đó, chúng ta phải hiểu rỏ về luật Nhân Quả.
    “Nghiệp” hay “Karma” có nghĩa là “hành động” nhằm chỉ một việc làm chúng ta tham dự vào cũng như hậu quả của nó. Khi chúng ta nói hành vi sát hại thì chính tác động đó sẽ dẫn đến việc cướp đi mạng sống của một người. Kết quả tai hại hơn của hành động giết người này là gây đau khổ cho nạn nhân cũng như nhiều người thân yêu của họ.
    Nghiệp nhân của việc làm ác đó còn gây ảnh hưởng xấu đến kẻ sát nhân. Những quả báo này không chỉ giới hạn trong cuộc đời hiện tại mà thôi. Thực ra kết quả của một hành vi bất thiện sẽ phát triển theo thời gian, cho nên sự thiếu từ tâm nơi kẻ sát nhân tàn bạo hủy diệt mạng sống con người nói trên được khởi đầu từ cuộc đời quá khứ của hắn đã từng xem nhẹ mạng sống mọi người cũng như loài vật và côn trùng.
    Một tên sát nhân không chắc sẽ được tái sinh làm người ở kiếp sau. Những hoàn cảnh dẫn đến việc giết người sẽ quyết định quả báo khốc liệt mà kẻ sát nhân sẽ phải gánh chịu. Một tên giết người man rợ, vui sướng khi phạm tội ác, có lẽ sẽ được tái sinh trong một thế giới mà ta gọi là “Ðịa Ngục”. Một trường hợp kém tàn ác hơn – ví dụ giết người vì tự vệ – có thể sẽ được tái sinh nơi “địa ngục” chịu ít đau khổ hơn. Những hành động thiếu đạo đức với hậu quả không nghiêm trọng lắm có thể khiến cho một người bị tái sinh làm con vật, thiếu khả năng tu tập cải thiện tâm hồn.
    Khi một người được tái sinh làm người, các hậu quả của những hành vi bất thiện trong kiếp trước sẽ quyết định hoàn cảnh cuộc sống mới của người đó theo nhiều cách. Sát sinh nhiều trong đời trước thì kiếp này thọ mạng kẻ ấy sẽ ngắn ngủi hoặc thường hay bị ốm đau. Nó cũng hướng dẫn người đó có khuynh hướng giết chóc và chắc chắn họ sẽ chịu quả báo gặp nhiều khổ đau trong những kiếp tương lai.
    Tương tự, đời trước hay trộm cắp thì kiếp này bị nghèo khổ hoặc bị trộm cướp. Nó cũng hướng dẫn kẻ ấy tiếp tục có ý tưởng trộm cắp trong nhiều đời sau. Hành động tà dâm hay ngoại tình dẫn đến hậu quả vợ chồng trong kiếp sau sẽ không tin cậy lẫn nhau và gặp cảnh khổ vì cuộc sống không chung thủy hay bị phản bội. Ðây là những quả báo của ba việc làm ác gây ra từ nơi thân của chúng ta.
    Trong bốn hành động ác xuất phát từ khẩu nghiệp nơi miệng thì người hay nói dối dẫn đến kết quả là sống ở đời thường hay bị người ta nói xấu. Vọng ngữ cũng khiến kẻ đó có khuynh hướng tiếp tục nói dối ở kiếp sau, cũng như bị người ta lừa gạt hoặc mọi người sẽ không tin dù bạn nói sự thật.
    Hậu quả ở kiếp sau của người nói lời gây chia rẽ là cuộc sống cô độc và khuynh hướng tạo mối bất hòa với mọi người. Lời nói cộc cằn thô lỗ dẫn đến sự lăng mạ, ngược đãi người khác và khiến họ sanh tâm giận dữ. Người có tật ngồi lê đôi mách đưa tới hậu quả đời sau khi nói sẽ không có ai nghe và thường hay nói những câu chuyện nhảm nhí.
    Cuối cùng, quả báo của ba việc làm ác phát xuất từ ý nghiệp là gì? Sau đây là các tánh xấu bất thiện thông thường nhất của chúng ta. Lòng tham khiến chúng ta không bao giờ biết đủ và luôn luôn bất mãn. Ác tâm và sân giận mang lại cho chúng ta sự sợ hãi và dẫn chúng ta đến hành động làm hại những kẻ khác. Si mê là đặt niềm tin vào điều trái với sự thật, dẫn đến kết quả là chúng ta không thể hiểu biết, chấp nhận lẽ phải và ngoan cố bảo thủ, chấp chặt tà kiến.
    Trên đây là một vài ví dụ cho thấy kết quả của các hành động bất thiện. Cuộc sống hiện tại của chúng ta là kết quả của cái Nghiệp (Karma), việc làm quá khứ của chúng ta. Hoàn cảnh tương lai, các điều kiện mà trong đó chúng ta sẽ tái sinh vào, những cơ hội mà chúng ta sẽ có hay không thể có được để tạo dựng một cuộc đời hạnh phúc tốt đẹp hơn sẽ tùy thuộc vào những hành động và việc làm hiện nay của chúng ta.
    Mặc dù hoàn cảnh hiện tại của chúng ta được quyết định bởi những hành vi trong quá khứ, nhưng chúng ta vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hành động của chúng ta trong hiện tại. Chúng ta có khả năng và trách nhiệm để chọn lựa phương cách nhằm hướng dẫn mọi việc làm của chúng ta đi theo con đường đạo đức.
    Khi chúng ta cân nhắc một hành động nào đó xem xét có hợp với đạo lý hay không, chúng ta nên tìm hiểu động cơ thúc đẩy của hành vi ấy. Một người lấy quyết định không trộm cắp, nếu anh ta chỉ vì sợ bị bắt hay trừng phạt bởi luật pháp, vậy thì hành động không trộm cắp của anh ta không phải là một việc làm đạo đức bởi lẽ những ý tưởng đạo đức không tác động lên quyết định của anh ta.
    Một ví dụ khác, một người không dám trộm cắp vì sợ dư luận: “Nếu mình trộm cắp thì bạn bè hay hàng xóm sẽ nghĩ sao về mình? Chắc mọi người sẽ khinh bỉ và mình sẽ bị xã hội ruồng bỏ”. Mặc dù đó được xem như một quyết định tích cực nhưng nó vẫn không phải là một hành vi đạo đức.
    Bây giờ, một người cũng có quyết định là sẽ không trộm cắp vì anh ta suy nghĩ rằng: “Nếu ta trộm cắp tức là ta đã hành động chống lại luật của trời đất và trái với đạo làm người”. Hoặc là: “Trộm cắp là một việc làm ác, nó gây cho nhiều người khác bị tổn thất và đau khổ”. Với những động cơ suy nghĩ như vậy, quyết định của anh ta được xem như một hành vi đạo đức, hợp luân thường đạo lý. Theo giáo lý đức Phật, khi bạn suy nghĩ cân nhắc tránh không làm các hành động ác thì bạn sẽ khắc phục được những phiền não khổ đau. Sự kiềm chế đó của bạn được xem như một việc làm đạo đức.
    Nếu bạn hiểu rõ mọi khía cạnh chi tiết của luật nhân quả thì bạn được gọi là người có trí tuệ thông suốt mọi việc. Kiến thức thông thường của chúng ta không thể thấu triệt đầy đủ về luật nhân quả. Muốn sống đúng theo luật nhân quả mà đức Phật đã dạy, chúng ta cần tin tưởng vào giáo lý của Ngài. Khi Ngài dạy sát sinh dẫn đến chịu sự đoản mệnh, trộm cắp phải gặp cảnh nghèo túng, thực sự không có cách nào để chứng minh được những lời Ngài nói là đúng với thực tại. Tuy nhiên, những điều đó chúng ta cũng không nên tin tưởng một cách mù quáng. Trước tiên chúng ta cần phải có một niềm tin mạnh mẽ nơi đức Phật và giáo lý của Ngài. Chúng ta nên dùng lý trí, tìm hiểu thấu đáo trước khi tin những lời dạy của đức Thế Tôn.
    Bằng cách nghiên cứu những đề tài của Phật Pháp được thiết lập bởi những suy luận hợp lý – như những lời dạy của đức Phật về tánh không và vô thường của cuộc đời mà chúng ta sẽ khảo sát ở chương mười ba về “Trí Tuệ” – và nhận thấy rằng chúng thật sự là chính xác thì niềm tin của chúng ta nơi giáo lý về luật nhân quả – sẽ tự nhiên tăng lên.
    Khi chúng ta muốn tiếp nhận một lời khuyên, chúng ta đi tìm gặp một người nào đó xứng đáng đề hướng dẫn giúp đỡ chúng ta. Lời khuyên của họ càng rõ ràng hợp lý, chúng ta càng quý trọng tin tưởng vào lời chỉ dẫn ấy. Nhằm phát triển: “đức tin sáng suốt”, đối với những lời dạy của đức Phật chúng ta cũng nên có sự tin tưởng như vậy.
    Tôi tin rằng chúng ta cần phải có một ít kinh nghiệm và phấn khởi trong sự thực hành để có được một niềm tin sâu xa và thành khẩn trong lòng. Hình như có hai loại kinh nghiệm khác nhau. Với những người sùng đạo họ có những kinh nghiệm mà chúng ta không thể có được. Và có những kinh nghiệm thế tục mà chúng ta đạt được qua sự tu tập hằng ngày.
    Chúng ta có thể phát triển nhận thức, hiểu biết về sự ngắn ngủi, tạm bợ và vô thường của cuộc đời. Chúng ta có thể nhận thấy bản chất tàn phá của những cảm xúc khổ đau. Chúng ta có thể có được lòng từ bi quảng đại đối với mọi người hoặc nhiều kiên nhẫn hơn khi chúng ta đứng xếp hàng chờ đợi.
    Những kinh nghiệm thực tế như vậy mang lại cho chúng ta cảm giác của nguồn vui và sự mãn nguyện. Hơn nữa, niềm tin của chúng ta vào những lời giảng dạy mà chúng ta đã được nghe cũng tăng lên. Ðức tin của chúng ta vào bậc thầy của mình, người đã truyền cho chúng ta những kinh nghiệm này cũng được phát triển: Lòng tin vào học thuyết mà vị thầy của chúng ta đang theo đuổi sẽ được củng cố.
    Từ những kinh nghiệm xác thực đó, chúng ta có thể tiên đoán rằng việc thường xuyên tu tập của chúng ta sẽ giúp chúng ta thành đạt những kết quả phi thường như các Thánh Nhân đã thực hiện lưu danh ngàn đời trong quá khứ.
    Niềm tin sáng suốt như vậy có được do tinh thần tu tập của hành giả, sẽ giúp chúng ta củng cố lòng tin vào giáo lý Nhân Quả của đức Phật. Và điều này còn giúp chúng ta quyết tâm chừa bỏ không làm các việc ác mà chúng sẽ gây đau khổ cho chúng ta.
    Niềm tin đó cũng hỗ trợ chúng ta cố gắng tập trung thiền định, thấu triệt đề mục chúng ta nghiên cứu, và sau cùng nhận biết rằng chúng ta có được trí tuệ này cũng như hiểu rõ tuệ giác đó xuất phát từ đâu. Sự phản chiếu ấy được xem như một phần trong quá trình tu tập thiền định của chúng ta. Nó giúp chúng ta củng cố đức tin vào ngôi Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng và tinh tấn trong việc tu tập. Nó cũng giúp chúng ta có thêm nghị lực để tiếp tục dũng tiến trên đường đạo.

    Nguyên tác: Đức Đạt Lai Lạt Ma
    Chuyển ngữ: HT Thích Trí Chơn
    Trích từ sách: An Open Heart
    TOANDAITUONG thích bài này.
  4. 11Pm.11.1.11

    11Pm.11.1.11 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    11/01/2011
    Đã được thích:
    84
    biết sữa lỗi đó là điều tốt...

    chúc bác năm mới sức khỏe, hạnh phúc, thành công trong cuộc sống! [r2)]
  5. xlight

    xlight Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    04/04/2007
    Đã được thích:
    3.232
    Ác giả ác báo

    Giờ đây bà Loan mới thấm thía nỗi nhục nhã ê chề khi bị con dâu đối xử tàn nhẫn. Cuộc đời là thế, trước đây bà Loan không tin vào quả báo, không tin vào số kiếp nhưng rồi bà đã ngã ngũ ra, đã vỡ lẽ rằng, ở đời thật có luật nhân quả với kẻ ác.
    Bà tự nhận mình là kẻ ác, là đứa con dâu không ra gì chỉ cho đến giờ phút này. Vậy mà hơn 20 năm qua, bà chưa bao giờ biết đến hai từ “ân hận”. Bà cũng chưa bao giờ nghĩ qua việc, phải làm sao để sống cho tử tế hơn bởi bà chẳng quan tâm, chẳng bao giờ nghĩ rằng, có đứa con dâu nào bà lại không trị được.
    Ngày trước khi lấy chồng, bà là một người con gái dịu dàng, xinh đẹp. Nhưng về nhà chồng, của cải trước mắt khiến bà lu mờ, dở thói ăn chơi đua đòi cùng bạn bè. Mẹ chồng bà hết sức cưng chiều con dâu con trai, coi con dâu cũng như con đẻ trong nhà. Thế nhưng bao lời động viên, bao lời tham gia, trách phạt của mẹ chồng dù là nặng nhẹ và đều để ngoài tai và coi không ra gì. Không hiểu tự bao giờ, người con gái ngoan hiền trở thành ra như thế. Có lẽ thói giao du bạn bè với những người giàu sang, những người phụ nữ chỉ biết đến tiền, không coi người khác nhất là gia đình nhà chồng ra gì đã khiến bà Loan thành ra như thế.
    Rồi chồng bà bị trận bệnh nặng mà qua đời. Đám tang có nước mắt, có đau thương nhưng không phải là quá buồn khổ cho một người vợ vốn đã lâu không còn thiết tha người chồng chỉ biết cắm đầu vào công việc như chồng bà. Được hơn hai tháng sau khi chồng mất, bà Loan càng trơ trẽn, xúc phạm mẹ chồng, đối xử với mẹ không ra gì. Hàng xóm hết lời khuyên ngăn nhưng bà đều coi đó là lời không thật lòng, chỉ vì ghen tuông với của cải vất chất của chồng bà để lại mà họ soi mói, khó chịu như thế.
    Đến cơm nước cũng chẳng buồn nấu cho mẹ chồng ăn. Rồi bà chia hẳn cho mẹ chồng một gian nhỏ không bằng cái bếp của nhà bà cho mẹ chồng ở, ngày hầu hạ cơm nước cho bà đi làm nhưng lại không ăn chung cùng mẹ chồng. Có cái gì ngon thì bà ăn bằng sạch không thì cũng gọi bạn bè bù khú, đến đập phá bia rượu, bài bạc rồi lại tha hồ ăn nằm, ngủ nghỉ lại nhà cứ như nhà chứa. Mẹ chồng ấm ức nhưng vì tuổi cao sức yếu nên không thể làm gì được nữa. Vả lại hàng xóm họ biết đấy nhưng nói thì họ nghe, họ hiểu và thông cảm có ai giúp được gì đâu. Chỉ oán trách người con trai xấu số của bà đã ra đi sớm để lại cảnh côi cút cho bà với cô con dâu ngày càng cay nghiệt.
    Mẹ chồng bị con dâu đối xử không khác gì một người ở trong nhà thậm chí còn chẳng bằng người ở bởi bà làm việc hùng hục, cơm nước ngày 2 bữa cho con dâu nhưng làm gì có lương, làm gì có đồng ra đồng vào để tiêu pha. Bà chỉ cặm cụi cái rau, cái cỏ, cân cà, cân hành bán qua ngày những lúc con dâu đi làm rảnh rỗi để tiêu xài. Nhìn người đàn bà tội nghiệp ai cũng thương hại, lại mua cho bà nhiều hàng mong bà có tiền thuốc thang. Có lẽ chỉ còn nước giết mẹ chồng là bà Loan không dám làm chứ chuyện tàn nhẫn nhất, cho mẹ ăn cơm nguội thừa, cháo loãng sắp đổ đi, để mấy ngày bà Loan cũng có thể làm được.
    Rồi người mẹ chồng ấy cũng qua đời. Trước khi ra đi bà không đành lòng nhắm mắt, cứ nhìn chằm chằm vào cô con dâu bất hiếu mà hai hàng nước mắt tràn ra, không sao vuốt được. Bà Loan bắt đầu thấy sợ, ám ảnh trong tâm.
    Rồi con trai bà Loan lớn, đến ngày lấy vợ, bà cũng tìm kiếm và duyệt cho con một người vợ hiền lành, nhu mì và con và rất yêu. Tình yêu tưởng đẹp, gia đình tưởng sẽ hạnh phúc nhưng có lẽ những việc ác mà bà Loan đã làm, người ta, con trai bà và cả ông trời cũng đã không thể nào quên.
    Cô con dâu mới cũng tàn nhẫn với bà Loan như chính bà đã đối xử với mẹ chồng của mình
    Bà lại được thể hành hạ con dâu, coi con dâu như người ở trong nhà, bắt phục dịch mọi thứ. Vì yêu chồng nên cô con dâu ngậm đắng nuốt cay. Vậy mà vì dạy được con dâu nên lúc nào bà cũng tự hào lắm với hàng xóm láng giềng nhưng bà đâu có hiểu rằng, từ lâu người ta đã nhìn bà bằng con mắt khinh rẻ và coi thường.
    Căn bệnh hiểm nghèo đã khiến bà Loan không còn sức mà gắt gỏng, ép buộc cô con dâu vốn được coi là ngoan hiền trong xóm phải làm lụng vất vả quần quật rồi về đưa tiền cho bà. Khi bà ngã bệnh, cô đã thay đổi nhưng cả xóm láng chẳng ai buông một lời trách móc người con dâu vốn ngoan ngoãn hiếu thảo ấy. Chỉ vì họ biết lòng dạ độc ác của bà, cái cách đối xử tàn nhẫn mà bà đã dành cho chính mẹ chồng mình cách đây hơn 20 năm. Người ta chỉ lắc đầu, tặc lưỡi rằng “gieo nhân nào thì gặp quả ấy” mà thôi.
    Bà Loan chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, nằm trên giường bệnh mà chờ miếng cháo của đứa con trai bà luôn cưng chiều. Nhưng từ ngày biết mẹ mình độc ác với bà nội và đối xử tàn nhẫn với vợ, việc chăm sóc mẹ để đối với con trai bà mà nói cũng chỉ là phần trách nhiệm nặng nề còn lại. Dù không phải là bất hiếu, dù chẳng tàn nhẫn nhưng chính đứa con ruột cũng chẳng thể nào đồng tình với người mẹ độc ác của nó cách đây hơn 20 năm.
    Số phận lặp lại số phận, cuộc đời lặp lại cuộc đời, bà Loan rơi đúng vào tình cảnh như mẹ chồng bà cách đây hơn 20 năm mà hẳn bà vẫn còn nhớ như in từng cử chỉ, lời nói độc ác của bà dành cho mẹ. Cô con dâu của bà cũng làm y như thế, bà chỉ dám nghĩ, tại sao lại thế này, chả lẽ nó là cuộc đời lặp lại của bà, để bà nhìn thấy rằng, trước đây bà là người ra sao.
    Con trai bà không đến nỗi xa lánh mẹ nhưng nó cũng hiểu rằng, ngày xưa mẹ nó là người đàn bà ra sao. Nghĩ đến công dưỡng giáo, sinh thành mà nó còn có hiếu với mẹ. Nhưng giờ nó đi làm xa, chỉ vợ nó ở nhà, đối xử ra sao với người trên giường bệnh vợ nó đâu có báo cáo, đâu có nói thật. Chả lẽ, đời bà cũng chết dần, chết mòn như mẹ chồng bà?

    Có lẽ ở đời quả có quy luật nhân quả, kẻ ác ắt gặp quả báo, người hiền ắt gặp lành. Nếu quả như vậy, con người sẽ biết sống vì nhau hơn, đối xử nhân đạo với nhau hơn và chân thành hơn. Đó chẳng phải là điều quá tốt cho xã hội và cứu vãn những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người?

    Nguồn:http://www.eva.vn/eva-tam-chuyen/ac-gia-ac-bao-c66a55828.html
    thuong48tdTOANDAITUONG thích bài này.
  6. tocgiahanquoc

    tocgiahanquoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/10/2011
    Đã được thích:
    1
    Đạo phật ! Ư ư ư !!!
  7. lamborghiniviet

    lamborghiniviet Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    01/07/2010
    Đã được thích:
    2.743
    Ca F319 di tu (go to pagoda) het di....
  8. noyoungnoold

    noyoungnoold Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/06/2009
    Đã được thích:
    10
    Chúc mùng cụ Lai đã giác ngộ NHÂN SINH QUAN sống
    [r2)]

    Cá nhân mình thấy được và mất luôn song hành nên cố gắng lấy chữ trung hoà cho thanh thản.
  9. Stop_loss

    Stop_loss Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2010
    Đã được thích:
    1
  10. HangSengg

    HangSengg Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/05/2009
    Đã được thích:
    0
    Anh Q giác ngộ ra điều gì ah [:D] trước anh có biết anh Nguyễn Tuấn Kiệt k ? [:D]

Chia sẻ trang này