liệu có sụp đổ dây chuyền của kinh tế việt nam.

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi girl9x_hp, 14/05/2012.

4291 người đang online, trong đó có 342 thành viên. 15:22 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 514 lượt đọc và 4 bài trả lời
  1. girl9x_hp

    girl9x_hp Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Đã được thích:
    0
    Tài chính - ngân hàng
    [​IMG] [​IMG] [​IMG] Kiểu đọc sách Thứ 2, 14/05/2012, 00:19

    TS Lê Xuân Nghĩa: Các ngân hàng đang “giả vờ” cứu doanh nghiệp




    [​IMG]
    Kinh tế khó khăn, doanh nghiệp càng khó tiếp cận với vốn vay ngân hàng: hàng loạt các “barrier”, các chuẩn tín dụng mới đã được ngân hàng đưa ra.
    Lãi suất đã giảm nhưng doanh nghiệp vẫn kêu rằng không thể tiếp cận được với vốn ngân hàng; về phía ngân hàng mặc dù nguồn vốn dư thừa nhưng lại không dám cho vay… Đem “nút thắt” này đến trao đổi với Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa, chúng tôi nhận được câu trả lời: Trong trường hợp này Chính phủ là người duy nhất có thể tháo được nút thắt này, thông qua việc mua lại toàn bộ nợ xấu (thông qua công ty mua bán nợ, hoặc qua các ngân hàng TMCP có vốn Nhà nước chi phối) để làm sạch bản cân đối của các NHTM, đồng thời cũng làm sạch (tương đối sạch) bản cân đối tài sản của doanh nghiệp…
    Ngân hàng sẽ là người “chết” cuối cùng
    Việc NHNN ban hành Thông tư 14 quy định về trần lãi suất cho vay (15%), với phạm vi khá rộng mà theo tính toán có thể có đến 99% số lượng doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tiếp cận với nguồn vốn lãi suất thấp này. Nhưng ông Nghĩa chỉ ra hai vấn đề:
    Thứ nhất, các ngân hàng không hạ chuẩn tín dụng. Quy định của các ngân hàng chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp đang có nợ xấu và tình hình tài chính không lành mạnh thì sẽ không được vay. Với tiêu chuẩn này đã “gạt” mất cơ hội tiếp cận vốn của khoảng 97% số lượng các doanh nghiệp.
    Thứ hai, ngân hàng quy định nếu cho vay mới phải nêu phương án kinh doanh, hiệu quả hoạt động và phương án trả nợ. Một khảo sát chi tiết ở 16 doanh nghiệp (đang tiếp cận vốn tín dụng với lãi suất trung bình) thì tất cả đều không đạt được tiêu chuẩn quy định này của các ngân hàng.
    Ông Nghĩa kết luận, vấn đề doanh nghiệp không tiếp cận được vốn hiện nay không nằm ở vấn đề lãi suất mà nằm ở việc xử lý nợ xấu.
    Hiện nay, NHNN mới có một công văn duy nhất có nội dung cho phép doanh nghiệp gia hạn nợ, xem xét giảm lãi suất nhưng trên thực tế thì quy định này dường như vô nghĩa đối với các doanh nghiệp. Bởi doanh nghiệp một khi không thể trả được nợ thì việc gia hạn là điều hiển nhiên, nhất là khi khoản gia hạn này vẫn được tính lãi (thậm chí là lãi suất cao).
    Mặc dù, Chính phủ cho phép sau khi trích lập dự phòng rủi ro các NHTM có thể để ngoại bảng khoản nợ đó, nhưng hầu hết các NHTM đều để khoản dự phòng dư thừa đó cho năm sau. Có bao nhiêu ngân hàng hạch toán các khoản nợ đó ra ngoại bảng khi đã được trích lập dự phòng rủi ro? – Ông Nghĩa đặt câu hỏi.
    Đứng trên quan điểm các NHTM cũng là các doanh nghiệp thì trước hết họ cũng phải vì lợi ích của bản thân mình. Chính vì thế mới có chuyện kinh tế càng khó khăn, doanh nghiệp càng khó tiếp cận với vốn vay ngân hàng; hàng loạt các “barrier”, các chuẩn tín dụng mới đã được ngân hàng đưa ra.
    “Cùng một mảnh đất trước kia định giá 1 tỷ đồng bây giờ chỉ còn 500 triệu đồng; cũng mảnh đất đó trước kia có thể vay đến 75% nhưng nay sẽ chỉ còn được vay 30% của số 500 triệu đó” – Ông Nghĩa lấy ví dụ thực tế từ một trường hợp mà ông đã gặp.
    Từ đó có thể thấy rằng, các ngân hàng đang tái cơ cấu theo hướng kinh tế khó khăn, rủi ro tăng lên nhưng sẽ không ảnh hưởng một tý nào đến lợi ích của họ. Ông Nghĩa nói: “Nếu phải chết, ngân hàng sẽ là người chết cuối cùng”.
    Chỉ có Chính phủ mới cứu được doanh nghiệp
    Trước thực trạng trên, ông Nghĩa thẳng thắn: Việc kêu gọi các ngân hàng TMCP giảm lãi suất hay một số NHTM đưa ra gói tín dụng với lãi suất này, lãi suất kia thực chất chỉ là “giả vờ cứu doanh nghiệp”.
    Về giải pháp, ông Nghĩa cho rằng, trong trường hợp này Chính phủ phải bỏ tiền ra, có thể thông qua việc phát hành trái phiếu hoặc lấy tín phiếu ngắn hạn tại các ngân hàng NHTW sau đó hoán đổi thành các kỳ trung và dài hạn.
    Vẫn biết rằng, để giải được bài toán này thì câu hỏi về nguồn vốn và nỗi lo lạm phát sẽ quay trở lại luôn là thường trực. Tuy nhiên, việc này cần phải được tiến hành ngay vì càng tiến hành chậm thì giá phải trả trong tương lai càng đắt.
    Trả lời câu hỏi, liệu giải pháp thông qua đầu tư công để kích cầu nền kinh tế có khả quan không? Ông Nghĩa nhấn mạnh, cần phải phân biệt rõ ràng vì đầu tư tư nhân không phụ thuộc vào ngân sách nhà nước mà phụ thuộc trực tiếp từ “hầu bao” của các ngân hàng.
    Trường hợp những năm 1988 của Nhật Bản đang giống với Việt Nam hiện nay, vốn ngoài ngân hàng suy kiệt và ngân hàng đóng băng tín dụng. Chính phủ Nhật Bản lúc đó đã không cứu ngân hàng, không cứu doanh nghiệp mà chọn giải pháp tăng đầu tư công, với hy vọng rằng thông qua đầu tư công để phục hồi nền kinh tế.
    Ngân hàng và doanh nghiệp rơi vào tình thế “không bên nào tin bên nào”, bên thì thừa vốn không dám cho vay, bên thì thiếu vốn để duy trì sản xuất. Đất nước Nhật Bản đã phải trả giá bằng 14 năm liên tiếp sản xuất đình đốn, nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ.
  2. Tia_chop65

    Tia_chop65 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    20/05/2011
    Đã được thích:
    265
  3. girl9x_hp

    girl9x_hp Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Đã được thích:
    0
    TS. Lê Xuân Nghĩa: “Gia hạn nợ chỉ kéo dài thời gian sống mòn của doanh nghiệp”
    TS.Lê Xuân Nghĩa.
    TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên hội đồng tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ quốc gia vừa có cuộc trao đổi với phóng viên Dân trí xung quanh các vấn đề tăng trưởng tín dụng và biện pháp khắc phục.

    Tại sao lãi suất giảm nhưng tín dụng không tăng hoặc tăng rất chậm so với kỳ vọng của thị trường, thưa ông?

    Nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng sụt giảm tăng trưởng một phần do tác động từ bên ngoài nhưng chủ yếu vẫn từ những rủi ro chính sách. Đặc biệt là các chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó chủ yếu là chính sách tiền tệ và tài khóa, lúc thì nới lỏng quá mức, lúc lại quá thắt chặt.

    Cụ thể, tăng trưởng khối lượng tiền tệ (M2) năm 2011 lớn hơn 10% và tăng trưởng tín dụng 12%, so với 2 chỉ tiêu này của năm 2011 hơn 30% là sự tắt chặt quá mức. Điều này đã đẩy toàn bộ nền kinh tế rơi vào tình trạng suy kiệt nguồn vốn, thị trường bất động sản (BĐS), chứng khoán và toàn bộ thị trường hàng hóa bị đình đốn nghiêm trọng.

    Trong bố cảnh đó, các ngân hàng thương mại (NHTM) buộc phải thực thi chính sách phòng vệ bằng cách đóng băng tín dụng, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Thậm chí nhiều NHTM còn tăng chuẩn tín dụng như giảm thấp giá trị tài sản đảm bảo, giảm tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo và giảm hạn mức tín dụng, tăng lãi suất cho vay… Điều này dẫn đến hàng loạt DNNVV bị cắt vốn lưu động và phá sản hoặc hoạt động cầm chừng dựa vào vốn của thị trường chợ đen.

    Vì vậy, khu vực DNNVV phần lớn không đảm bảo đầy đủ kiều kiện vay vốn ngân hàng, do đó dù lãi suất cho vay đã giảm như thời gian gần đây thì luồng tín dụng mới vẫn đóng băng, tín dụng tăng rất thấp so với kế hoạch 17% trong năm nay.

    Có một thực tế là nhiều ngân hàng đang thừa vốn nhưng không thể cho vay ra. Ông lý giải vấn đề này thế nào?

    Do kinh tế bị đình đốn, lòng tin giữa các ngân hàng với nhau, ngân hàng với doanh nghiệp suy giảm mạnh. Vì vậy, trên thị trường liên ngân hàng, tình trạng đóng băng tín dụng cũng khá phổ biến. Các ngân hàng lớn không dám cho các ngân hàng nhỏ vay nếu không có tài sản đảm bảo (tài sản đảm bảo chủ yếu là vàng nhưng Ngân hàng Nhà nước đang cấm dùng vàng làm tài sản đảm bảo nên doanh số và lãi suất liên ngân hàng giảm hẳn).

    Trên thị trường tín dụng tình trạng cũng tương tự. Chỉ rất ít DN có tình trạng tài chính tốt đủ điều kiện vay vốn ngân hàng nhưng vì đầu ra khó khăn, tồn kho lớn, cộng với lãi suất cho vay cao nên các DN loại này thường chỉ vay ngắn hạn (vay nhanh trả nhanh mà 1 tổng giám đốc NHTM nói một cách ví von là “tình trạng tín dụng một chạm”). Còn lại đại bộ phận DNNVV không đáp ứng được chuẩn tín dụng đã được nâng khá cao ở hầu hết các ngân hàng.

    Ngoài ra, một số ngân hàng, kể cả ngân hàng lớn vẫn còn dấu hiệu khó khăn thanh khoản. Bằng chứng là mặc dù lãi suất liên ngân hàng rất thấp (qua đêm 2,5%, 1 - 6 tháng 8%/năm) nhưng không đủ điều kiện để vay, trong khi họ vẫn lách luật huy động vốn với lãi suất 16 - 17% cho các khoản tiền gửi 1 tỷ trở lên.

    Vậy theo ông, làm thế nào để khắc phục tình trạng trên?

    Đóng băng tín dụng là một hiện tượng tài chính nguy hiểm. Nó có thể làm cho nền kinh tế đình đốn dài hạn như ở Nhật Bản. Vì vậy, các ngân hàng trung ương hiện nay đang tìm mọi cách giải quyết vấn đề này. Trên thực tế, các quốc gia như Mỹ, nhiều quốc gia Châu Âu đang áp dụng chính sách tiền tệ để giải quyết vấn đề này.

    Thực chất của tình trạng đóng băng tín dụng là hiện tượng nợ xấu tăng cao, đặc biệt là nợ xấu BĐS, đẩy ngân hàng vào tình trạng đối diện với khủng hoảng thanh khoản. Để không làm tăng nguy cơ này (nợ xấu), các ngân hàng không còn cách nào khác là hạn chế cho vay vào khu vực rủi ro.

    Vì vậy, ngoài việc giảm lãi suất cho vay để khuyến khích khu vực tư nhân thì biện pháp then chốt là phải giải quyết phần lớn nợ xấu, đặc biệt là nhóm 4, 5.

    Ngân hàng trung ương Mỹ, Châu Âu đã buộc tiền phải phát hành tiền để mua lại nợ xấu (tài sản độc hại) ở các NHTM; qua đó làm sách bảng cân đối tài sản của ngân hàng và DN, giúp cho DN trở lại vị thế đạt chuẩn tín dụng mà ngân hàng yêu cầu để có thể tiếp tục vay mới, phục vụ cho đầu tư và phục hồi sản xuất kinh doanh.

    Vì vậy, biện pháp then chốt nhất có ý nghĩa sống còn để khắc phục đình đốn hầu hết các DN hiện nay là giải quyết hết nợ xấu cũ, trở lại chuẩn tín dụng bạn đầu, song hàng với việc giảm lãi suất theo lạm phát. Tóm lại, không giải quyết được nợ xấu thì các biện pháp khác không phát huy tác dụng.

    Các biện pháp tái cơ cấu nợ đã được công bố còn rất sơ khai, ví dụ như biện pháp giãn nợ, gia hạn nợ của Ngân hàng Nhà nước chỉ là kéo dài thời gian sống mòn của doanh nghiệp.

    Còn các biện pháp khác như xóa nợ, khoanh nợ thì ngân hàng chết vì không có tiền, dự trữ và trích lập dự phòng thấp, trong khi lợi nhuận hàng năm đã được chia có các cổ đông và tái đầu tư hết rồi. Vì vậy, Chính phủ cần phải rót tiền vào để mua lại khoản nợ xấu. Bởi nếu chỉ dựa vào tự tái cơ cấu của ngân hàng thì các DN càng khốn đốn hơn.
  4. girl9x_hp

    girl9x_hp Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Đã được thích:
    0
    09:27
    Lãi suất phải giảm nhanh mới cứu được doanh nghiệp
    Thực tế, nếu sức khỏe của DN yếu đi, ngân hàng cũng không có lợi, nợ xấu gia tăng khiến hoạt động ngân hàng càng khó khăn.
    Trả lời phóng viên Báo Đầu tư, TS. Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời là thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, điều mà các doanh nghiệp (DN) cần hơn lúc này là giảm thêm lãi suất cho vay.

    Ông đánh giá thế nào về gói giải pháp 29.000 tỷ đồng mà Chính phủ vừa công bố để cứu DN? Động thái này có giúp DN vượt qua khó khăn?

    Đây là một trong những giải pháp hỗ trợ DN. Tuy nhiên, trong 29.000 tỷ đồng mà gói hỗ trợ Chính phủ vừa đưa ra chủ yếu chỉ là giãn thuế. Bên cạnh đó, việc giảm 30% thuế thu nhập DN trong gói hỗ trợ trên thực chất cũng chỉ hướng vào các DN lớn, làm ăn có lãi. Còn không ít DN nhỏ và vừa đang ở tình trạng “chết lâm sàng” sẽ khó được hưởng chính sách này. Vì thế, gói hỗ trợ trên đưa ra cũng phần nào hỗ trợ cho DN, song điều DN cần hơn lúc này chính là giảm tiếp lãi suất cho vay. Có như vậy, các DN mới có cơ hội tiếp cận vốn để khôi phục hoạt động cũng như mở rộng sản xuất...

    Mức trần 15%/năm đối với lãi suất cho vay vừa được Ngân hàng Nhà nước áp dụng sẽ có tác động tích cực đối với DN trong bối cảnh khó khăn hiện nay, thưa ông ?

    Mức trần lãi suất cho vay 15%/năm sẽ phần nào tác động tích cực đối với DN trong việc sử dụng vốn vay. Thế nhưng, không phải DN nào cũng có thể tiếp cận được nguồn vốn giá rẻ này. Bởi thực tế, Ngân hàng Nhà nước chỉ đưa ra mức trần áp dụng đối với lãi suất cho vay đối với 4 nhóm ưu tiên (DN sản xuất xuất khẩu, DN nhỏ và vừa, nông nghiệp - nông thôn và phát triển công nghiệp phụ trợ), nhưng không có quy định cụ thể đối với bộ tiêu chí cho vay mà điều này thuộc về thẩm quyền của các ngân hàng. Do đó, để vay được vốn với lãi suất trên không phải dễ đối với DN nhỏ và vừa.

    Vậy theo ông, cần có giải pháp nào tốt hơn để giải quyết khó khăn cho DN?

    Bên cạnh các giải pháp vừa được đưa ra (giãn, miễn thuế…) cũng như giảm dần lãi suất, chính sách tín dụng cũng cần được mở rộng cho tất cả các đối tượng khách hàng đáp ứng đủ điều kiện. Đồng thời, trần lãi suất cho vay 15%/năm cần mở rộng hơn ở các lĩnh vực khác trong thời gian tới. Vì thực tế, nếu sức khỏe của DN yếu đi, ngân hàng cũng không có lợi, nợ xấu gia tăng khiến hoạt động ngân hàng càng khó khăn.

    Do đó, các ngân hàng phải từng bước điều chỉnh giảm dần lãi suất để hỗ trợ DN và cứu mình.

    Việc áp trần lãi suất 15%/năm là tốt, nhưng phải hạ tiếp nữa, bởi điều mà DN cần nhất hiện nay là lãi suất càng giảm nhanh, càng tốt, vì nó sẽ cứu sản xuất, đồng thời tạo ra vòng quay nhanh tiền trong lưu thông. Tôi cho rằng, với việc áp trần lãi suất cho vay 15%/năm, các ngân hàng có chênh lệch 3%/năm đủ để bù chi phí và có lãi, nên lãi suất phải giảm nhanh hơn so với hiện nay mới cứu được DN.

    Kỳ vọng giảm 1% trần lãi suất huy động ở mỗi quý như dự báo liệu có khả thi?

    Tôi cho rằng, kỳ vọng giảm được 1%/năm trần lãi suất huy động ở mỗi quý là rất khả thi. Thậm chí, trần lãi suất huy động tiết kiệm còn có thể giảm nhanh hơn mức này, do xu hướng lạm phát đang có chiều hướng giảm nhanh hơn mức kỳ vọng. 4 tháng đầu năm nay, lạm phát chỉ tăng 2,6%. Tính bình quân chỉ số giá tiêu dùng (CPI) mỗi tháng tăng hơn nửa phần trăm, chính là điều kiện để hạ nhanh hơn đối với trần lãi suất huy động, nhằm tạo điều kiện tốt để giảm lãi suất cho vay.

    Mặt khác, kỳ vọng kiểm soát lạm phát ở mức 9% vào cuối năm 2012 là hoàn toàn có thể thực hiện được. Vì thế, theo tôi, trần lãi suất huy động tiết kiệm phải về 10%/năm vào cuối năm hoặc có thể giảm thêm. Khi đó, lãi suất cho vay chỉ còn 13 - 14%/năm áp dụng phổ biến cho tất cả khách hàng mới được xem là phù hợp.

    không giảm nhanh thì ngân hàng cũng đi bằng nạng
  5. sieuquaylovely9999

    sieuquaylovely9999 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2007
    Đã được thích:
    1
    top này sắp bị khóa rồi

Chia sẻ trang này