Tấn công tiền tệ liệu có xảy ra với VNĐ? (tác giả Giáng Lê)

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi futureprecedor, 02/06/2008.

8523 người đang online, trong đó có 768 thành viên. 17:08 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 8627 lượt đọc và 102 bài trả lời
  1. futureprecedor

    futureprecedor Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2006
    Đã được thích:
    467
    Tấn công tiền tệ liệu có xảy ra với VNĐ? (tác giả Giáng Lê)

    Tấn công tiền tệ liệu có xảy ra với VNĐ?
    Posted By Minh Biện On June 1, 2008 @ 8:50 pm In Chưa phân loại | 2 Comments
    Gửi các bạn đọc Minh Biện: Sau khi bài viết ?oBeyond the tipping point? của Morgan Stanley được phổ biến, vấn đề khủng hoảng tiền tệ và một cuộc tấn công vào đồng Việt nam trở thành một đề tài ?onóng? và ?onhạy cảm?. Tác giả loạt bài về NHNN Việt nam xin tạm ngưng phần tiếp theo về lạm phát và chính sách tiền tệ để giành thời gian bày tỏ một vài quan điểm của mình về khả năng đồng Việt nam sẽ bị giới đầu cơ thế giới tấn công. Phần tiếp theo về NHNN sẽ được giới thiệu trong thời gian tới.
    Năm 2008, lần đầu tiên từ khi Việt nam tiến hành cải cách, nền kinh tế phải đối mặt với một nguy cơ khủng hoảng rất lớn. Các chỉ số kinh tế trong nước liên tục xấu đi và dường như chính phủ Việt nam chưa đủ kinh nghiệm để đương đầu với tình hình này. Bản thân nền kinh tế, mặc dù có tốc độ phát triển rất cao trong hơn 5 năm gần đây, vẫn mang nặng dấu ấn của một nền kinh tế kế hoạch hóa và vẫn thiếu sự uyển chuyển cần thiết của một nền kinh tế thị trường để có thể tự điều chỉnh mình khi môi trường thay đổi. Một trong những điểm yếu quan trọng của nền kinh tế Việt nam là cơ chế tỷ giá hối đoán.
    Với cơ chế tỷ giá danh nghĩa (nominal exchange rate) gần như cố định với đồng dollar Mỹ (USD), tỷ giá thực của đồng Việt nam (VNĐ) sẽ có biến động rất lớn nếu tình hình lạm phát tương đối giữa Việt nam và Mỹ thay đổi. Khi tỷ giá thực của VNĐ tăng lên, khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt nam sẽ giảm xuống nhanh chóng và cán cân thương mại (current account) sẽ xấu đi. Khi thâm hụt thương mại quá lớn các dòng vốn nước ngoài chảy vào không đủ để bù đắp khoản thiếu hụt ngoại tệ, ngân hàng trung ương sẽ phải đối mặt với hai lựa chọn: (i) bán ngoại tệ từ dự trữ quốc gia ra thị trường để duy trì tỷ giá hoặc (ii) phá giá đồng nội tệ.
    Thường các nước chọn phương án (i) trước cho đến khi dự trữ ngoại tệ cạn kiệt thì phải thực hiện phương án (ii). Tuy nhiên nếu chỉ vì current account bị thâm hụt quá lớn mà phải phá giá thì tình hình không quá tổi tệ. Thứ nhất, hoạt động xuất nhập khẩu thường khá cố định (persistent) nên các ngân hàng trung ương có thể dự báo được tình hình từ rất sớm để đưa ra cách thức đối phó. Thứ hai, ngay cả khi nội tệ bị phá giá ảnh hưởng trực tiếp và tức thời vào nền kinh tế cũng không lớn quá. Thậm chí, nếu việc phá giá là hợp lý và đúng thời điểm, nó còn giúp phân bổ lại nguồn lực xã hội hợp lý hơn và sẽ có tác động tích cực về lâu dài cho nền kinh tế. Vấn đề phá giá nội tệ chỉ trở nên tồi tệ khi nó đi cùng với một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán (balance of payments crisis), đôi khi còn được gọi là khủng hoảng tiền tệ (currency crisis). Không may là đa số các trường hợp ngân hàng trung ương phải phá giá nội tệ gần đây, nhất là ở các nước đang phát triển, đều đi kèm với khủng hoảng cán cân thanh toán.
    Theo phân loại của giới học giả và IMF, khủng hoảng cán cân thanh toán ở các nước đang phát triển có hai loại: khủng hoảng thế hệ I và khủng hoảng thế hệ II (hiện nay đã có mô hình lý thuyết về khủng hoảng thế hệ III). Khủng hoảng thế hệ I, điển hình như cuộc khủng hoảng ở các nước Mỹ Latin trong thập kỷ 80, có nguyên nhân từ nợ nước ngoài quá lớn (cần phân biệt nợ nước ngoài ?" foreign debt ?" với đầu tư nước ngoài FDI) do chính phủ để ngân sách thâm hụt trong một thời gian quá dài (twin deficits). Khi đồng nội tệ có nguy cơ bị phá giá, các chủ nợ không tiếp tục cho vay nữa và/hoặc sẽ đồng loạt rút tiền gây ra sự tháo chạy của đồng vốn nước ngoài (capital flight). Điều này sẽ ảnh hưởng tức thời tới các hoạt động kinh tế và hệ thống ngân hàng gây ra khủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng loại II, điển hình như Thailand 1997, vừa có nguyên nhân do tiền đầu tư ?onóng? từ nước ngoài chảy vào ổ ạt giúp cho current account có thể thâm hụt nghiêm trọng, vừa do những cuộc tấn công vào đồng nội tệ (currency attack) có chủ ý của giới đầu cơ tiền tệ (currency speculators) quốc tế mà chủ yếu là các global macro hedge fund. Hậu quả cũng là capital flight và nền kinh tế bị suy sụp.
    Trong tình hình hiện nay của Việt nam, liệu một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán (khủng hoảng tiền tệ) có thể xảy ra hay không? Và liệu currency attack có phải là ngòi nổ của cuộc khủng hoảng này hay không? Bài phân tích ?oBeyond the tipping point? của Stewart Newnham (Morgan Stanley ?" 28/05/2008) khẳng định một cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Việt nam là điều không tránh khỏi và chỉ còn là vấn đề thời gian. Quan điểm này cũng được một số nhà phân tích người Việt ủng hộ. Người viết bài này tuy cũng cho rằng khả năng khủng hoảng tiền tệ của Viêt nam là khá cao, vẫn hi vọng chính phủ Việt nam sẽ có những biện pháp khéo léo và hợp lý để ngăn chặn nó. Tuy vậy, với tình hình cán cân thanh toán của Việt nam ngày một xấu đi, liệu một currency attack của giới hedge fund có thể xảy ra với VNĐ trong hoàn cảnh hiện tại để khơi mào cho một cuộc khủng hoảng ở Việt nam hay không?
    Cơ chế của một cuộc tấn công tiền tệ
    Về cơ bản, một cuộc tấn công tiền tệ diễn ra như sau. Giới hedge fund, sau khi phân tích tình hình kinh tế vĩ mô của một nước, dự đoán rằng không sớm thì muộn nước này sẽ phải phá giá đồng nội tệ. Để có thể trục lợi từ việc phá giá đồng nội tệ, hedge funds sẽ tiến hành ký những hợp đồng mua USD (bán nội tệ) có thời hạn (forward contract) với các NHTM trong nước. Chênh lệch giữa giá USD vào thời điểm hiện tại (spot rate) so với giá qui định trong forward contract (forward rate) bằng đúng với chênh lệch lãi suất giữa đồng nội tệ và USD vào thời điểm forward contract được ký. Đây là nguyên lý Covered Interest Rate Parity (chưa biết dịch ra tiếng Việt là gì) mà bất cứ giáo trình tài chính cơ bản nào cũng giải thích cặn kẽ.
    Việc ký hợp đồng forward như thế tương đương với việc bán khống (short sell) đồng nội tệ làm tăng thêm áp lực phá giá đồng nội tệ. Mặc dù forward contract chỉ yêu cầu trao đổi tiền tệ trong tương lai, nhưng một khi lượng forward short sell đồng nội tệ quá lớn (one-sided market), các NHTM sẽ buộc phải phòng ngừa rủi ro (hedge) các nghĩa vụ bán USD trong tương lai (forward liability) của mình bằng cách bán đồng nội tệ và mua vào USD trên thị trường spot. Ngoài việc gây áp lực phá giá lên đồng nội tệ, các hedge funds sử hợp đồng forward như là công cụ để khuếch đại (leverage) sức mạnh tài chính của mình, nghĩa là chỉ với vài chục triệu USD tiền vốn, họ có thể làm cầu USD tăng lên vài trăm triệu, thậm chỉ vài tỷ USD trên thị trường. Thông thường leverage của các hedge fund từ 10 đến 100 lần vốn của họ tùy vào từng thị trường. Nếu áp lực phá giá chưa đủ lớn, các hedge funds lại tiếp tục mua USD forward đẩy cầu USD trên thị trường spot cao lên nữa cho đến khi ngân hàng trung ương buộc phải phá giá. Lúc đó các hedge funds chỉ việc thanh lý (close) các hợp đồng forward còn hiệu lực và kiếm được một khoản lợi nhuận bằng chênh lệch spot rate sau khi đã bị phá giá với forward rate đã ký được trước đây.
    Điểm mấu chốt để cơ chế attack này có thể thành công là các forward contract mà các hedge fund ký được phải có thời hạn dài hơn khoảng thời gian mà ngân hàng trung ương có thể cầm cự được trước khi phá giá. Nếu các forward contract này hết hạn trước đó, hedge funds sẽ buộc phải thực thi việc mua USD với tỷ giá chưa bị phá và ký tiếp forward contract khác (rollover). Tuy nhiên điều này rất khó khăn vì các hedge funds với leverage rất lớn sẽ phải thực hiện việc trao đổi ngoại tệ có giá trị (face value) có thể lớn hơn nhiều lần vốn của họ. Nếu hedge fund vay nội tệ từ các NHTM bản địa để thực hiện nghĩa vụ này, với lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suât nhận được từ khoản USD thu được, nên họ sẽ phải chịu một khoản lỗ lớn do chênh lệch lãi suất cho đến khi cuộc tấn công thành công. Còn nếu hedge funds đi vay USD từ bên ngoài rồi đổi ra nội tệ thì lượng USD đó sẽ làm tăng thêm cung ngoại tệ và làm giảm áp lực lên đồng nội tệ, giảm đi sức mạnh của cuộc tấn công.
    Trong cuộc khủng hoảng Thailand 1997, ngân hàng trung ương Thailand (Bank of Thailand ?" BoT) đã nâng lãi suất lên rất cao khi một số forward contract đáo hạn nhằm hạn chế khả năng các hedge funds vay đồng baht để có thể rollover các forward contract. Tuy nhiên BoT đã mất cảnh giác trong ba tháng đầu năm 1997 để các hedge funds tich trữ được một lượng lớn forward contract (xấp xỉ 15 tỷ USD) có thời hạn rất dài (12 tháng). Một điều đáng tiếc nữa là chính BoT đã tham gia trực tiếp vào thị trường forward để cố gắng ngăn chặn sức ép lên đồng baht. Bởi vậy, khi lãi suất đã được đẩy lên rất cao để chống lại rollover, nền kinh tế Thailand đã không chịu nổi chi phí vốn cao trong thời gian dài như vậy nên đã bắt đầu có dấu hiệu suy sụp vào đầu tháng 7/1997. Đến lúc đó, BoT không còn lựa chọn nào khác ngoài phương án phá giá đồng baht bằng cách tuyên bố thả nổi tỷ giá để cứu nền kinh tế.
    Liệu VNĐ có bị tấn công?
    Quay về tình hình Việt nam vào thời điểm hiện tại, liệu các điều kiện cho một cuộc tấn công tiền tệ vào VNĐ đã hội đủ ở Việt nam hay chưa. Điều kiện cần đầu tiên là sự hiện diện đủ lớn của giới macro hedge funds có ý định tấn công VNĐ. Sẽ rất khó xác định được điều này vì các hedge fund không bao giờ để lộ kế hoạch kinh doanh của mình. Tuy nhiên với những thông tin mà tác giả bài viết này có được thì một số macro hedge funds lớn chưa quan tâm đến Việt nam trong thời gian gần đây. Để tiến hành đầu cơ vào một thị trường, giới hedge funds bao giờ cũng phải quan tâm đến mức độ thanh khoản (liquidity) của thị trường đó. Hiện tại liquidity của VNĐ giữa các currency dealers lớn vẫn chưa có dấu hiệu gia tăng. Số liệu về non-deliverable forward (NDF ?" forward bên ngoài hệ thống NHTM Việt nam, không yêu cầu hoán đổi thực sự ngoại tệ khi đáo hạn) cho thấy thị trường này vẫn rất illiquid trong hơn một năm qua (chỉ có khoảng 1-2 contract được mua bán trong ngày và bid/ask spread khá cao). Bởi vậy, khả năng các hedge funds đã bắt đầu lên kế hoạch tấn công VNĐ không cao.
    Điều kiện thứ hai là cơ chế quản lý ngoại hối của Việt nam, hay mức độ mở của tài khoản vốn (capital account), đã đủ để các hedge funds bên ngoài mua được forward contract với VNĐ hay chưa. Câu trả lời gần như là chưa. Nếu một hedge fund ở bên ngoài muốn ký forward contract với một NHTM trong nước (hay kể cả NHTM ở một nước nào đó có mua bán VNĐ) thì để đồng USD có thể rời khỏi Việt nam, về nguyên tắc nó cũng phải được phép của NHNN. Tuy nhiên hiên tại qui định quản lý ngoại hối của Việt nam chỉ cho phép dòng vốn có xuất sứ từ hoạt động nhập khẩu, tiêu dùng cá nhân, và chuyển tiền lợi tức được phép rời Việt nam tự do (theo nghĩa luật định). Tuy các NHTM và các doanh nghiệp vẫn có cách lách luật để chuyển ngoại tệ ra ngoài, nhưng đó không thể là kênh chính để các hedge funds dựa vào cho mục đích tấn công VNĐ.
    Điều kiện thứ ba là liệu giới hedge funds có thể tấn công ngay từ trong nước, hoặc một cuộc tấn công có xuất xứ từ người Việt liệu có khả năng xảy ra hay không. Điều này phụ thuộc vào khả năng mua được forward từ các NHTM Việt nam. Cho đến thời điểm này, các sản phẩm dẫn suất (derivatives) trong đó có forward vẫn còn khá mới mẻ trong hệ thống tài chính của Việt nam. Mặc dù đã có một số NHTM bán forward cho các doanh nghiệp nhưng điều này chủ yếu cho mục đích quản lý rủi ro (hedging), nghĩa là phải liên quan đến một hoạt động kinh tế có thật (như nhập khẩu). Hiện tại, mặc dù có sự khan hiếm ngoại tệ, vẫn chưa có một đột biến nào lớn trên thị trường ngoại tệ giữa các NHTM, tức là chưa có dấu hiệu của một đợt phát hành forward contract lớn. Ngoài ra, với sự quản lý chặt chẽ của NHNN đối với các NHTM, ít nhất là với 5 NHTM quốc doanh, khả năng các doanh nghiệp hoặc các quĩ đầu tư trong nước dồn dập mua forward contract để đầu cơ mà không bị phát hiện là rất nhỏ.
    Điểm cuối cùng là mức độ chênh lệch lãi suất giữa VNĐ và USD. Hiện tại lãi suất cho vay của VNĐ xấp xỉ 18%/năm, trong khi lãi suất huy động USD trong nước khoảng 7%/năm, còn thấp hơn nữa nếu gửi ở nước ngoài. Do vậy, forward rate và spot rate hiên tại sẽ chênh lệch nhau khoảng 11%. Điều đó có nghĩa là nếu một hedge fund ký được forward contract vào thời điểm này thì họ chỉ có thể có lời nếu VNĐ bị phá giá quá 11% trước khi forward contract đáo hạn. Tất nhiên khả năng này có thể xảy ra, nhưng rõ ràng khoảng cách 11% sẽ làm giảm đáng kể động cơ đầu cơ của các hedge funds.
    Tóm lại, với tình hình hiện tại sẽ khó có thể xảy ra một cuộc tấn công tiền tệ nhằm vào VNĐ từ các hedge funds quốc tế. Khả năng tấn công từ trong nước cũng rất nhỏ. Vậy nếu một cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra với nền kinh tế Việt nam, nó sẽ mang nhiều tính chất của một cuộc khủng hoảng thế hệ I, nghĩa là xuất phát từ sự rút vốn hàng loạt của các nhà đầu tư nước ngoài, trưc tiếp và gián tiếp.
    Giang Le
    02/06/2008
  2. damcamau

    damcamau Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/05/2008
    Đã được thích:
    0
    đánh dấu phát
  3. tarzan_hp

    tarzan_hp Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    28/04/2006
    Đã được thích:
    3.497
    với cơ chế quản lý ngoại hối của chuối, thắt ống dẫn tinh bằng nhìu cách thì các hedge fund chẳng có cơ hội đầu cơ phá giá VND ... liquid đếch có thì vào dễ nhưng ra khó .. bài học mất hàng chục tỉ $ của dân đầu cơ ck tây vào ck và trái phiếu VN 06-07 là vô cùng đau xót cho khoai tây roài ....

    mà thị trường tiền tệ NH ở VN đã có các sản phẩm phái sinh hay kỳ hạn VND đếch đâu mà đầu cơ có cửa để mua-bán tạo sóng hà hà ...

    hoan hô cơ chế ngọai hối củ chuối inliquidity của VN.... lúc khó khăn mới thấy cái hay của nó ha ha ...



    /
  4. futureprecedor

    futureprecedor Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2006
    Đã được thích:
    467
    Còn đây là câu trả lời cho nguy cơ số I


    JETRO: Việt Nam là địa điểm sản xuất tốt nhất ở châu Á

    Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) ngày 2/6 đã công bố đánh giá Việt Nam là địa điểm sản xuất tốt nhất ở châu Á theo định hướng kinh doanh trong vòng 5-10 năm tới.

    Đây là một trong những kết quả của điều tra hàng năm về môi trường kinh doanh theo đánh giá của các nhà đầu tư Nhật Bản được JETRO công bố tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - một hoạt động trước thềm Hội nghị giữa kỳ Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam.

    Cuộc điều tra được tiến hành năm 2007 với sự tham gia của trên 1.700 doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại 11 quốc gia và vùng lãnh thổ ở châu Á, trong đó có Việt Nam.

    Cũng theo kết quả điều tra này, các nhà sản xuất Nhật Bản tại Việt Nam rất tin tưởng vào triển vọng kinh doanh năm 2008 do kỳ vọng doanh thu xuất khẩu tăng. Các công ty phi sản xuất của Nhật Bản thì hy vọng doanh thu năm 2008 sẽ được cải thiện nhờ mở rộng thị trường ở Việt Nam.

    Có tới 92,6% công ty sản xuất và 88% công ty phi sản xuất Nhật Bản trong diện điều tra cho biết có kế hoạch mở rộng hoạt động tại Việt Nam trong vòng 1-2 năm tới. Đây là tỷ lệ cao nhất trong số 11 quốc gia và vùng lãnh thổ được đưa ra trưng cầu ý kiến doanh nghiệp đợt này.

    Kết quả điều tra của JETRO cũng cho thấy, mặc dù có những kỳ vọng như vậy nhưng tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản hài lòng với địa điểm đầu tư tại Việt Nam đã giảm từ vị trí đứng đầu ASEAN với 75,4% năm 2006 xuống vị trí thứ 5 trong 6 nước ASEAN có nhà đầu tư Nhật Bản hoạt động với 41,7% .

    Nguyên nhân được cho là do Việt Nam thua kém các nước ASEAN khác về khả năng mua nguyên liệu phụ tùng trong nước và do cơ sở hạ tầng kém phát triển./.


    Nguồn tin TTXVN
  5. hoathuong_thich_du_thu

    hoathuong_thich_du_thu Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/07/2006
    Đã được thích:
    1
    Các bác đọc bài này chưa?

    Không có cuộc tấn công tiền tệ mang tính đầu cơ ở Việt Nam
    31/05/2008
    Một số chuyên gia mới đây bày tỏ lo ngại rằng, trong tình trạng rối ren về chính sách lãi suất và tỷ giá như hiện nay tại Việt Nam thì nguy cơ xảy ra một cuộc tấn công tiền tệ của những nhà đầu cơ nước ngoài là rất cao. Kết cục là một cuộc khủng hoảng tài chính với cuộc tháo chạy của các nhà đầu tư và đầu cơ nước ngoài khi VND bị phá giá không kiểm soát. Vậy khả năng đổ vỡ và khủng hoảng xảy ra theo kịch bản này là như thế nào?

    Cơ chế tấn công tiền tệ của các nhà đầu cơ nước ngoài thường là như sau: Ngân hàng trung ương tuyên bố (hoặc ngầm định) giữ tỷ giá cố định hoặc biên độ trong một biên độ giao động hẹp. Nếu các nhà đầu cơ tin/kỳ vọng rằng đồng nội tệ đang bị định giá cao hơn giá trị thực (tức là phải bị phá giá hơn nữa) so với USD, và nếu họ biết rõ về khả năng can thiệp vào tỷ giá của ngân hàng trung ương thông qua sử dụng quỹ dự trữ ngoại tệ của mình là có hạn, thì họ sẽ tấn công vào cơ chế neo giữ tỷ giá này bằng cách liên tục vay bằng nội tệ (VND) rồi mua USD tại nước sở tại (Việt Nam) theo tỷ giá trên thị trường ngoại hối chính thức. Vì cầu USD tăng lên nên ngân hàng trung ương phải bán USD ra để can thiệp nhằm bình ổn tỷ giá. Nhưng hành động can thiệp này có hạn, phụ thuộc vào mức độ dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương cũng như phụ thuộc vào mức độ tấn công dai dẳng của nhà đầu cơ. Trong tình huống xấu nhất, ngân hàng trung ương mặc dù đã dùng quá nhiều dự trữ ngoại hối của mình nhưng vẫn không thắng nổi ý chí tấn công liên tục của nhà đầu cơ nên buộc phải từ bỏ ý định can thiệp ổn định tỷ giá. Kết cục là đồng bản tệ bị phá giá tự do không kiểm soát, gây hoảng loạn trong giới đầu tư nước ngoài, làm nhu cầu chuyển đổi từ nội tệ sang ngoại tệ càng tăng mạnh, đến lượt nó lại làm cho nội tệ mất giá hơn nữa trong một vòng xoáy trôn ốc.
    Đến lúc này các nhà đầu cơ tiền tệ mới ung dung tung một phần USD mà họ mới vừa mua trước đây ở nước sở tại ra để mua nội tệ nhằm thanh toán các khoản vay bằng nội tệ từ hệ thống ngân hàng sở tại dùng để tấn công hệ thống tỷ giá nước này. Nói là họ chỉ tung ?omột phần? USD vì đồng nội tệ đã bị phá giá rất nhiều so với thời điểm họ vay ngân hàng nên nay họ chỉ cần một phần trong số USD mua gom được là cũng đủ để mua lại đúng số bản tệ mà họ đã vay. Kết quả là nhà đầu cơ thu được một khoản USD chênh lệch đáng kể từ hoạt động tấn công mang tính đầu cơ này. Còn nền kinh tế sở tại thì bị tổn thương nghiêm trọng với đồng bản tệ mất giá, nhà đầu tư nước ngoài nghiêm túc (dài hạn) thì hoảng sợ bỏ chạy, các hoạt động sản xuất và kinh doanh bị đình đốn, và nền kinh tế thậm chí có khả năng rơi vào khủng hoảng.
    Tuy nhiên, điều kiện để xảy ra kịch bản trên không hoàn toàn dễ dàng. Nhà đầu cơ chỉ có thể tấn công cơ chế tỷ giá khi: (1) nhà đầu cơ có thể dễ dàng vay nội tệ từ hệ thống ngân hàng sở tại với mục đích không rõ ràng; (2) nhà đầu cơ có thể dễ dàng mua USD từ hệ thống ngân hàng; (3) một tỷ trọng lớn vốn đầu tư nước ngoài vào nước sở tại là vốn đầu tư ngắn hạn; (4) nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng mang vốn ngoại tệ ra nước ngoài; (5) ngân hàng trung ương kiên định thái quá vào việc bảo vệ cơ chế neo tỷ giá chặt chẽ (hầu như cố định) bằng mọi giá.
    Nếu không thỏa mãn được những điều kiện này thì hoặc là nhà đầu cơ không vay được nội tệ để thực hiện đòn tấn công ?otay không bắt giặc?, hoặc là họ vay được nội tệ nhưng cho dù tỷ giá có bị thả nổi chăng nữa nhưng nhà đầu tư và cả đầu cơ không thể mang USD ra ngoài lãnh thổ nước sở tại nên sẽ không tạo ra được vòng xoáy trôn ốc nói trên và làm mất đi động cơ tấn công đầu cơ là để kiếm chênh lệch USD mang lại từ hành động đi vay và hành động mua USD ở nước sở tại.
    Rất may cho Việt Nam là hiện nay tất cả những điều kiện trên đều không tồn tại. Với tình trạng khan hiếm VND như hiện nay và việc thắt chặt cho vay, hầu như không một nhà đầu cơ tiền tệ nào có thể vay nổi VND từ hệ thống ngân hàng (có lẽ trừ khi họ vạch ra những dự án sản xuất kinh doanh ?oma? nào đó để thuyết phục ngân hàng cho vay, nhưng dẫu vậy thì khả năng thành công cũng rất thấp). Việc mua USD từ hệ thống ngân hàng cũng đã bị thắt chặt, và họ chỉ mua được trừ khi chứng minh được mục đích hợp pháp theo quy định quản lý ngoại hội hiện hành (tất nhiên không có mục đích dành cho đầu cơ). Thậm chí trong tình hình cung cầu ngoại tệ căng thẳng như thế này thì việc mua được USD từ hệ thống ngân hàng cũng không đơn giản. Còn việc chuyển vốn ngoại tệ ra nước ngoài thì càng gian nan hơn với nhiều quy định và thủ tục nhằm chứng minh nguồn gốc của khoản ngoại tệ và mục đích chuyển ra nước ngoài. Thêm nữa, phần lớn nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hiện nay là nhà đầu tư dài hạn (FDI) nên động cơ tháo chạy của họ không mạnh bằng của những nhà đầu tư ngắn hạn. Và cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không có ý định cố định tỷ giá, và luôn tuyên bố (cũng như trên thực tế có làm như vậy) một cơ chế tỷ giá linh hoạt. Tất cả những yếu tố này hoặc là làm nản lòng nhà đầu cơ tiền tệ, hoặc là ngăn họ không thể thực hiện được hành động tấn công mang tính đầu cơ tại Việt Nam.
    Như vậy, có thể kết luận lại rằng hành động tấn công mang tính đầu cơ ?" vốn là nguồn gốc gây ra khủng hoảng tài chính ở khu vực và các nơi khác trên thế giới ?" không có điều kiện xảy ra ở Việt Nam, ít nhất là trong bối cảnh hiện tại. Cảnh báo sớm, nếu đúng, là một điều tốt để cho các cơ quan quản lý chức năng nhận thức rõ hơn nguy cơ để từ đó có biện pháp phòng bị. Nhưng cảnh báo, nhất là đưa ra công khai trên báo chí, dựa trên nhận thức mang tính sách vở, hời hợt, chủ quan, và phiến diện thì chỉ có tác dụng hà hơi thêm cho tình trạng rối ren của nền kinh tế, và có khi chính vì thế đẩy nền kinh tế rơi vào khủng hoảng.

    http://www.nguoidaibieu.com.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/3/ContentID/42038/Default.aspx
  6. leader001

    leader001 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/07/2007
    Đã được thích:
    2
    Thôi đi cập nhất kiến thức cho mình thôi !

    Thông tin đa chiều quá chẳng biết nghe ai !

    Tự tìm hiểu và nghiên cứu cho chắc vậy

    Có bác nào có cuốn The Economic of Money, Banking and Financial Markets của Frederic Mishkin viết về Thông tin bất cân xứng không ?

    Cho em link download cái
  7. futureprecedor

    futureprecedor Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2006
    Đã được thích:
    467
    Đúng vậy bác, chúng ta không ngừng học mà, chỉ đơn giản là nhắm mắt theo người khác thì bị gọi là phong trào rồi
  8. leader001

    leader001 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/07/2007
    Đã được thích:
    2
    Vậy là có 2 phương thức Attack !

    Nhiệm vụ của chúng ta là xem các Hacker có thực hiện chưa ? Và nếu đã thực hiện thì khả năng phương thức Attack 1 bị loại !
  9. futureprecedor

    futureprecedor Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2006
    Đã được thích:
    467
    sign của bác ấn tượng đó
  10. vni5000

    vni5000 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    23/10/2007
    Đã được thích:
    0

    Không có chuyện rút USD mang đi khỏi VN vì khó rút nổi.
    Nhưng chuyện bọn quỹ đầu cơ ôm USD và đánh hội đồng VND để bơm thổi và xả thì có.



    Được vni5000 sửa chữa / chuyển vào 17:09 ngày 02/06/2008

Chia sẻ trang này