Tin cực tốt cho Bìm bịp đây...

Discussion in 'Thị trường chứng khoán' started by gold07, Oct 28, 2011.

7224 người đang online, trong đó có 67 thành viên. 06:27 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 0 người đang xem box này(Thành viên: 0, Khách: 0)
thread_has_x_view_and_y_reply
  1. gold07

    gold07 Thành viên rất tích cực

    Joined:
    May 14, 2010
    Likes Received:
    0
    Thị trường
    [​IMG] [​IMG] [​IMG] Kiểu đọc sách Thứ 6, 28/10/2011, 11:33

    Ngân hàng mang tiền gửi của khách đi “ôm” đất




    [​IMG]
    Một NH có vốn khoảng nghìn tỷ, huy động thêm khoảng 10 nghìn tỷ nữa sau đó rút tiền của mình ra rồi lấy 10 nghìn tỷ của thiên hạ đi buôn BĐS...
    Khi giá đất rớt thảm, đến hạn không có tiền trả người gửi thế là đua nhau đẩy lãi suất huy động lên cao... đại biểu QH Nguyễn Bá Thanh phân tích...

    Phát biểu tại phiên họp chiều 27/10, đại biểu QH Nguyễn Bá Thanh (Đà Nẵng) nhận định, dự báo năm 2012 nếu kinh tế Mỹ phục hồi và giá vàng chững lại thì tình hình lạm phát ở nước ta không có nguy cơ đe dọa.
    Tuy nhiên, đại biểu Đà Nẵng lo ngại, nếu tình hình kinh tế Mỹ xấu đi, đồng đô la sụt giảm và giá vàng tiếp tục lên cao thì không biết điều gì xảy ra đối với tình hình lạm phát ở nước ta. Có thể nhìn chung cho đến nay thì tỷ lệ lạm phát ở nước ta cũng còn quá cao, đồng đôla thì bị mất giá, nhưng đồng bạc Việt Nam còn bị mất giá hơn.

    “Lạm phát cao thì có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn nằm ở vấn đề chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa nới lỏng và cơ cấu bản thân nền kinh tế của chúng ta còn nhiều bất hợp lý, phát hành tiền nhiều, đưa tiền mặt vào lưu thông nhiều, hàng thì ít mà tiền thì nhiều đã dẫn đến lạm phát cao. Cho ra đời hàng loạt ngân hàng mới, nâng cấp hàng chục ngân hàng nông thôn, nâng tỷ số lên gần trăm ngân hàng, không phải nhiều hay ít, quản lý Nhà nước đã yếu mà cho thành lập quá nhiều, dẫn đến mất kiểm soát" - đại biểu Nguyễn Bá Thanh phân tích.

    Đại biểu Đà Nẵng lấy ví dụ, "Một ngân hàng có vốn khoảng nghìn tỷ khi mới thành lập huy động thêm khoảng 10 nghìn tỷ nữa sau đó nhẹ nhàng rút tiền của mình ra rồi lấy 10 nghìn tỷ của thiên hạ đi buôn bất động sản, giá đất rớt thê thảm, đến hạn không có tiền trả lại cho người gửi thế là đua nhau đẩy lãi suất huy động lên cao, 18%, 20%, thậm chí 25%, 30%/năm để có tiền, lấy tiền của người sau để trả cho người lấy trước đẩy lạm phát lên cao. Ấy thế mà vừa rồi ngân hàng Nhà nước khống chế lãi suất trần huy động còn 14%, nhiều ý kiến phản đối cho rằng dùng những mệnh lệnh hành chính để can thiệp”.

    [​IMG]
    Đại biểu Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh​
    “Theo tôi có những lúc hành chính rất cần thiết trong tình hình lộn xộn như thế này, ngân hàng ôm mấy miếng đất của mình mua rồi ôm luôn mấy miếng đất của người vay mang thế chấp, thị trường nhà đất thì đóng băng, không bán được thế là nợ xấu tăng lên. Nợ xấu lên theo con số báo cáo hiện nay là 75 nghìn tỷ đồng thì tôi cũng không có số liệu đối chứng, nhưng tôi thấy con số này cũng đáng nghi ngờ, và trong 75 nghìn tỷ thì con số có thể nhiều hơn. Riêng 75 nghìn tỷ đã xấp xỉ 50% là coi như xấu lắm, tức là xấu không còn khả năng thu hồi được” – đại biểu Đà Nẵng nhận định.
    Theo đại biểu Nguyễn Bá Thanh, nới lỏng chính sách tiền tệ thì bị lạm phát, còn thắt chặt tiền tệ thì nợ xấu tăng lên, sức mua giảm sút, các nguồn tín dụng đen phát triển mạnh và nguy cơ đổ vỡ, sự tăng trưởng có nguy cơ bị đe dọa, kinh tế chậm tăng trưởng thì sản xuất bị đình đốn, sức mua giảm, lao động thì thiếu việc làm, nguồn thu cho ngân sách bị giảm sút, còn lạm phát cao thì đồng tiền bị mất giá, đời sống của nhân dân bị ảnh hưởng đặc biệt là những hộ nghèo, những đối tượng chính sách, các công nhân lao động, cán bộ hưu trí, cán bộ công nhân viên chức hưởng lương Nhà nước.

    Đánh giá về chủ trương chấp nhận kinh tế tăng trưởng chậm lại để tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội, đại biểu Nguyễn Bá Thanh cho rằng đây là một hướng đi rất đúng. Nhưng ông cho rằng, hạ nhiệt lạm phát cần nhiều giải pháp đồng bộ, như việc tái cơ cấu lại ngành ngân hàng là việc cần làm ngay, làm kiên quyết. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý đây là vấn đề rất khó, trong đó khó nhất là động chạm đến lợi ích nhóm và “không khéo một ông chết sẽ kéo theo hàng loạt ông chết gây hậu quả cho xã hội”.

    Vì vậy, đại biểu Nguyễn Bá Thanh nhắc nhở: “cần cải tổ nhưng phải hết sức thận trọng và có bước đi thích hợp, làm sao nói nôm na như chúng ta diệt được sâu rầy ở những cánh đồng nhưng vẫn giữ được cánh đồng lúa xanh tốt và có mùa bội thu”.

    “Sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua có sự đóng góp quan trọng của ngành ngân hàng, nhưng sự bất ổn của nền kinh tế nếu có xảy ra trong tương lai sẽ bắt đầu từ chính ngân hàng yếu kém này” – Bí thư Đà Nẵng cảnh báo.

    Cũng liên quan đến việc tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó đặc biệt là tái cấu trúc các ngân hàng, đại biểu Mai Thị Ánh Tuyết (An Giang) phân tích, các ngân hàng đã thực hiện sử dụng nguồn vốn huy động ngân hàng vay vốn của nhau thay vì phải dựa vào chủ lực là tiền gửi. Với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện nay số lượng quá lớn mạng lưới ngân hàng phát triển ào ạt và khó thanh lọc độ lành mạnh giữa các ngân hàng. Từ đó khi chính sách thắt chặt tiền tệ đã tác động đến cuộc đua lãi suất tăng đột biến.

    "Có đỉnh điểm, năm 2008 lãi suất lên đến 30,1% một năm, đã ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Do đó tái cấu trúc khu vực ngân hàng là một nhiệm vụ quan trọng để ổn định và kiềm chế lạm phát" - đại biểu tỉnh An Giang khẳng định.

    Do vậy, đại biểu này cũng đồng tình với chủ trương của Chính phủ, rằng trong bối cảnh hiện nay, tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, tái cơ cấu đầu tư công và tái cơ cấu khu vực ngân hàng là một nhiệm vụ cấp bách đòi hỏi phải triển khai đồng bộ và quyết liệt. Tuy nhiên, đại biểu Ánh tuyết lưu ý, tái cấu trúc có thể ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều nhóm, nhiều đối tượng và bộ, ngành. Do đó Quốc hội cần nghiên cứu hình thức pháp lý đủ mạnh để thực thi tái cấu trúc trong thời gian tới và cân nhắc có thể Quốc hội ban hành nghị quyết về tái cơ cấu nền kinh tế.
    Theo Xuân Hưng
    VnMedia
  2. bocap1

    bocap1 Thành viên rất tích cực

    Joined:
    Dec 23, 2009
    Likes Received:
    0
    lại lỡ sóng rồi =))
  3. gold07

    gold07 Thành viên rất tích cực

    Joined:
    May 14, 2010
    Likes Received:
    0
    Tài chính - ngân hàng
    [​IMG] [​IMG] [​IMG] Kiểu đọc sách Thứ 6, 28/10/2011, 07:59

    Tăng 14 lần liên tiếp, tỷ giá USD ngân hàng vượt 21.000 đồng




    [​IMG]
    Kể từ đầu tháng tới nay, giá USD bình quân liên ngân hàng đã tăng thêm 175 đồng tức 0,84% - sắp chạm mức trần mà thống đốc tuyên bố về ổn định tỷ giá đến cuối năm.
    NHNN công bố, tỷ giá USD bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 28/10 là 20.803 đồng, tăng 15 đồng so với hôm qua và tăng tổng cộng 55 đồng trong tuần này – mức tăng nhiều nhất từ khi điều chỉnh tăng 9,3% tỷ giá hôm 11/2.
    Kể từ đầu tháng 10 tới nay, giá USD bình quân liên ngân hàng đã được NHNN tăng 175 đồng tức 0,84%, sắp chạm mức tối đa mà thống đốc tuyên bố hôm 7/9 rằng tỷ giá sẽ không biến động quá 1% cho đến cuối năm.
    Tỷ giá trần áp dụng cho các NHTM hôm nay là 21.011 đồng.

    Các NHTM không bỏ qua bất kỳ điều chỉnh nào của NHNN, hôm nay cũng đồng loạt tăng tỷ giá thêm 15 đồng ở cả hai chiều, với giá bán ra kịch trần.
    Tại BIDV, tỷ giá USD niêm yết sáng nay ở 20.998 - 21.011 đồng. Mức này cũng được các ngân hàng như ACBSacombank áp dụng.
    Tỷ giá của ngân hàng Eximbank là 20.991 - 21.011 đồng, của Vietcombank vẫn ở mức cao nhất là 21.005 - 21.011 đồng.

    Theo nguồn tin của Vnexpress, tỷ giá “đen” trong ngân hàng hôm qua đã hạ nhiệt đáng kể, từ mức 21.900 đồng của ngày trước đó xuống còn chưa đến 21.400 đồng. Báo này dẫn lời tổng giám đốc của một ngân hàng lớn ở Tp. Hồ Chí Minh cho biết, trong vài ngày gần đây, nguồn ngoại tệ từ dân cư bán cho ngân hàng tăng lên nhờ tác động của Nghị định 95 về tăng nặng mức xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng bán cho ngân hàng với giá thấp hơn một phần bởi e ngại quy định mới làm cho giá mua bán USD trong ngân hàng giảm xuống.
    Ngoài thị trường tự do, nghị định 95 cũng tác động làm cho giá USD hạ nhiệt, cuối ngày hôm qua chỉ còn 21.500 đồng.
    Thanh Bình
    Theo TTVN
  4. gold07

    gold07 Thành viên rất tích cực

    Joined:
    May 14, 2010
    Likes Received:
    0
    Tăng dự trữ bắt buộc có 'cứu' được thanh khoản?
    Nguồn tin: Diễn đàn KTVN | 28/10/2011 6:02:36 SA
    [​IMG] In tin | [​IMG] Lưu vào sổ tay | [​IMG] RSS


    [​IMG] TS. Phan Minh Ngọc cho rằng, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tăng lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc tuy không làm tăng áp lực lạm phát nhưng không nhất thiết cải thiện được thanh khoản cho ngân hàng thương mại.

    Gần đây có một số kiến nghị nâng cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc (chẳng hạn lên 10% từ mức 3-4% như hiện tại) và lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc (chẳng hạn lên 12-13%/năm) để giải bài toán khó khăn thanh khoản ở các ngân hàng thương mại trong bối cảnh chính sách tiền tệ vẫn phải thắt chặt (mà theo cách hiểu và cách dùng từ của Ngân hàng Nhà nước hiện nay là "chặt chẽ") để kiềm chế lạm phát. Mới đây nhất có bài trả lời phỏng vấn VEF.VN của cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), ông Lê Đức Thúy. Còn trước đó một thời gian thì có bài viết của nhà báo Hải Lý trên TBKTSG (1).

    Có thể thấy xuất phát điểm của luồng ý kiến này là việc làm sao để giảm căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng (và nhờ đó giúp giảm lãi suất) mà không gây thêm áp lực lên NHNN để tăng cung tiền, vốn sẽ gây thêm áp lực tăng lạm phát, theo kiểu "lấy mỡ nó rán nó". Không biết vô tình hay hữu ý mà cả hai tác giả đều dùng cụm từ này (ngoài một số nội dung khác cũng giống nhau) để mô tả hành động đó, nếu có, của NHNN, nhằm lấy vốn từ những ngân hàng dư thừa vốn cho vay lại những ngân hàng đang thiếu thanh khoản.

    Ý kiến trên có một số bất ổn cả về mặt khái niệm lẫn số học.

    Theo ông Thúy thì: "Nếu trả lãi suất cho những khoản tiền gửi bắt buộc ấy thì sẽ thu hút được lượng tiền nhàn rỗi của các ngân hàng thừa và cho vay lại đối với những ngân hàng thiếu ở mức lãi suất cao hơn, vừa đảm bảo bù đắp chi phí lại vừa không phải bơm tiền ra nền kinh tế" (người viết bôi đậm).

    Về mặt khái niệm, có thể nói ngay dự trữ bắt buộc không phải là/không liên quan gì đến "tiền nhàn rỗi của các ngân hàng thừa" như ông nói. Khi ngân hàng thương mại huy động được 100 triệu VND, giả sử với tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện hành là 4% thì lập tức ngân hàng thương mại đó phải trích gửi vào tài khoản dự trữ bắt buộc ở NHNN một khoản là 4 triệu VND, bất kể ngân hàng đó đang thừa hay thiếu vốn. Số tiền 4 triệu này có thể được hoặc không được NHNN trả lãi, tùy từng thời điểm. Nhưng thông thường, vì đã gọi là "bắt buộc" nên nếu có được trả thì lãi suất cũng ở mức rất tượng trưng so với lãi suất cho vay thương mại.

    Còn nếu ngân hàng thương mại mà thừa vốn và giả sử nó không huy động tiền gửi nữa thì NHNN về nguyên tắc chẳng có quyền gì yêu cầu ngân hàng trên phải nộp dự trữ bắt buộc (tất nhiên nếu NHNN "lạm quyền" thì có thể bắt buộc ngân hàng thương mại mua tín phiếu hay một loại hình bắt buộc tương tự mà hình như đã từng xảy ra để giảm (dư thừa) thanh khoản của (một số) ngân hàng thương mại).

    Cần nói thêm, dự trữ bắt buộc là một công cụ nặng ký của chính sách tiền tệ của NHNN để điều tiết cung tiền vào nền kinh tế. Vì thế mục đích của việc tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc là để giảm hay tăng (theo chiều ngược lại) cung tiền, tương ứng là hút thêm tiền về két sắt của NHNN hay tung thêm tiền ra lưu thông. Do đó, về khái niệm và bản chất, dự trữ bắt buộc không phải là công cụ vi mô, điều tiết vốn từ chỗ này/ngân hàng này sang chỗ khác/ngân hàng khác như các tác giả này hiểu.

    Tiếp theo, vì các quy định về dự trữ bắt buộc, theo nguyên tắc, là áp dụng chung cho cả hệ thống ngân hàng nên khi NHNN công bố rằng sẽ nâng cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc lẫn lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì các mức mới này sẽ phải được áp dụng đồng đều cho tất cả các ngân hàng, chứ không chỉ riêng một ngân hàng nào đó. Hành động này có thể sẽ làm tăng khối lượng dự trữ bắt buộc ròng mà NHNN thu được từ hệ thống ngân hàng nhưng không nhất thiết sẽ làm cho thanh khoản của một ngân hàng nào đó được cải thiện, về mặt số học, kể cả khi NHNN đem cho vay lại một phần dự trữ bắt buộc thu được này.

    Cụ thể hơn, giả thiết NHNN nghe theo khuyến nghị trên và chấp nhận tăng cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc và lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc. Giả sử ngân hàng thương mại A đang thiếu hụt thanh khoản, và ngân hàng B thì ngược lại. Giả định rằng cả A và B đều đã huy động được 100 triệu VND tiền gửi. Giả sử thêm rằng hiện tại tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 4% thì khối lượng dự trữ bắt buộc mà NHNN thu được từ A là 4 triệu, và từ B cũng là 4 triệu. Trừ số này đi thì mỗi ngân hàng chỉ huy động ròng được 96 triệu (chưa tính lãi do NHNN trả cho phần dự trữ bắt buộc).

    Nếu NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện nay lên 10% thì NHNN sẽ thu về 10 triệu dự trữ bắt buộc từ A và 10 triệu từ B trước khi trả lãi cho khoản dự trữ bắt buộc này. Với 10 triệu dự trữ bắt buộc phải nộp này, A hay B chỉ thu được 90 triệu vốn ròng từ số vốn huy động 100 triệu. Giả thiết NHNN trả lãi cho dự trữ bắt buộc một lần sau 1 năm nữa nên tại thời điểm tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHNN đã thu được từ A hay B một khoản chênh lệch dự trữ bắt buộc so với trước khi tăng dự trữ bắt buộc là 10 - 4 = 6 triệu.

    Sau đó, giả thiết rằng NHNN dùng một phần của 6 triệu chênh lệch nói trên thu được từ B và cho A vay (vì NHNN phải trích lại một phần trong số 6 triệu nói trên đã trả cho dự trữ bắt buộc của B sau 1 năm nữa). Trước khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì A sẽ chỉ huy động được 96 triệu. Sau khi NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 10% thì A cũng sẽ chỉ có <96 triệu, là tổng số của 90 triệu (là vốn ròng từ 100 triệu huy động) cộng với <6 triệu cho vay thêm từ NHNN.

    Như vậy, so sánh thời điểm trước và sau khi NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì A vẫn chỉ thu ròng được <96 triệu vốn, và vì thế người viết mới nói ở phần trên rằng thanh khoản của A không nhất thiết được cải thiện kể cả khi NHNN "rán mỡ" A chia cho B.

    Tất nhiên, tính toán trên sẽ cho kết quả khác nếu NHNN còn thêm ưu ái A bằng cách hoàn lại phần dự trữ bắt buộc thu của A cho A. Kết quả cũng sẽ khác đi tuỳ thuộc vào số vốn huy động của A và B (A có thể được thêm thanh khoản nếu số vốn huy động của A nhỏ hơn B; và ngược lại).

    Do đó, nếu các tác giả trên muốn khuyến nghị NHNN "chơi" công cụ dự trữ bắt buộc theo kiểu riêng của mình, không theo thông lệ quốc tế, thì thay vì đề xuất nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc như trên (là cái không chắc chắn mang lại kết quả như mong muốn), họ nên đề xuất NHNN trực tiếp áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho mỗi (nhóm) ngân hàng, cho giản tiện, dễ hiểu, dễ áp dụng mà vẫn thu được kết quả như ý muốn là "dùng mỡ nó rán nó". Cụ thể hơn, với A là ngân hàng đang bị thiếu thanh khoản thì thay vì áp dụng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc 4% như hiện tại, NHNN nên áp dụng tỷ lệ 0%, thế là đương nhiên lượng vốn ròng thu được từ huy động 100 triệu vẫn là 100 triệu, nhiều hơn 4 triệu so với trường hợp phải trả 4% dự trữ bắt buộc. Điều này cũng có nghĩa là A đã có thêm thanh khoản.

    Còn với B là ngân hàng đang dư thừa thanh khoản thì NHNN áp luôn mức 10% như đề xuất ban đầu (đồng thời để cho công bằng hơn thì có thể trả lãi suất 12%, thậm chí là 15%/năm cho khoản dự trữ bắt buộc này). Như vậy, NHNN lập tức có ngay thêm 10 triệu dự trữ bắt buộc, cũng tức là có nhiều hơn 10 - 4 - 4 = 2 triệu so với khi áp tỷ lệ dự trữ bắt buộc 4% lên A và B cho khoản huy động 100 triệu của họ. NHNN có thể đem một phần lớn trong số 2 triệu trên (để lại một phần nhỏ để trả lãi cho B sau một năm nữa) cho A vay thêm để cải thiện hơn nữa thanh khoản của nó.

    Có điều, dù giản tiện, dễ hiểu, dễ thi hành nhưng hành động trên của NHNN thuần túy mang tính chất hành chính, chủ quan, áp đặt và không minh bạch, dễ gây bất đồng, phản đối, và hoàn toàn rất có thể bị lợi dụng bởi một nhóm lợi ích nào đó. Khi đó, tuy có thể đạt được mong muốn trước mắt nhưng liệu NHNN có còn muốn áp dụng nữa không, và hậu quả về lâu dài có đong đếm được hay không là một số vấn đề mà NHNN cần suy nghĩ hai lần trước khi quyết định.

    Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc.
  5. gocanda

    gocanda Thành viên rất tích cực

    Joined:
    Dec 23, 2010
    Likes Received:
    23
    Tàu chạy rồi chỉ còn lại sân ga
    Đám chim lợn mắt dõi theo u uất
    Cổ vươn dài cố nuốt trôi cục hận
    Tiếc vài lai giờ vé đứng cũng không còn.
  6. gold07

    gold07 Thành viên rất tích cực

    Joined:
    May 14, 2010
    Likes Received:
    0
    Đổ vỡ tín dụng và bất ổn thị trường tài chính
    Nguồn tin: Diễn đàn KTVN | 28/10/2011 6:04:48 SA
    [​IMG] In tin | [​IMG] Lưu vào sổ tay | [​IMG] RSS


    [​IMG] Hàng loạt vụ lừa đảo thông qua huy động vốn với lãi suất cao đỗ vỡ. Những đổ vỡ này đã cho thấy những cảnh báo liên quan đến ngân hàng cũng như bất ổn đối với các thị trường tài chính, chứng khoán, bất động sản.

    BĐS - Chứng khoán: bất ổn

    Nhận định mới đây từ các cơ quan điều tra cho thấy, đã có khoảng 60 vụ lừa đảo, đổ bể tín dụng từ đầu năm đến nay đều ít nhiều liên quan đến bất động sản, vàng và chứng khoán. Đó là những thị trường bùng nổ mạnh mẽ và có nhiều bất ổn nhất ở Việt Nam trong thời gian qua.

    Lý giải về điều này, chuyên gia từ Ngân hàng Tienphongbank cho biết, thời gian trước, thị trường chứng khoán, bất động sản bùng nổ, kiếm tiền có vẻ quá nhanh và quá dễ. Vì thế mà không chỉ nhà đầu tư chuyên nghiệp mà người người, nhà nhà bung ra kinh doanh, thị trường phát triển quá nóng, có bao nhiêu vốn vay mượn dồn hết vào một giỏ. Thậm chí có người còn lạm dụng đòn bẩy tài chính khi trong tay chỉ có 7-8% vốn thực.

    Sau thời điểm các cơ quan quản lý thực thi chính sách ngăn dòng tiền vào chứng khoán, bất động sản, những người đầu tư quá lớn, vay mượn nhiều đứng trước nguy cơ một mất một còn.

    Chuyên gia từ Viện Thông tin và Dự báo Kinh tế Xã hội cho biết, chứng khoán và bất động sản là hại thị trường tăng trưởng cực mạnh và thu hút một lượng vốn lớn của các nhà đầu tư đổ vào. Như một vòng xoáy, trong giai đoạn đầu, tiền càng đổ vào nhiều thì sự tăng trưởng càng mạnh mẽ. Tiền đẻ ra tiền với mức lợi nhuận không lồ khiến người ta không ngại dốc toàn bộ tiền tự có, nhưng phần lớn là tiền đi vay, cộng thêm các đòn bẩy tài chính, các mánh kích cầu đã khiến cho hai thị trường này phát triển nhanh trở thành một nơi hút tiền lớn. Trong cơn say đó, nhiều người dân, rồi hầu hết các DN và không ít tổ chức tài chính đều "dây máu ăn phần" vào bất động sản và chứng khoán.

    Sư hưng phấn đã hút một lượng vốn lớn của rất nhiều người can dự vào BĐS và chứng khoán nhưng đáng kể nhất chính là sự tham gia hậu thuẫn của giới tài chính, ngân hàng đã khiến cho thị trường như một "vòng xoáy" ngày càng lên cao, trong kỳ vọng lợi nhuận lớn nhưng lại trên một nền tảng nguồn vốn vay mượn và các thủ đoạn kiếm lời ngắn hạn.

    Nhưng khi lạm phát cao, tín dụng phi sản xuất bị siết lại, thi trường mất nguồn dinh dưỡng và bắt đầu suy kiệt. Để kéo lại nguy cơ đổ vỡ, người ta bắt đầu vay chỗ này, đập chỗ kia với hy vọng sẽ qua giai đoạn khó khăn.

    Tuy nhiên, khi các chính sách tiền tệ, tài chính được quyết tâm thắt chặt, ngân hàng - chỗ dựa lớn nhất cũng trở thành đối tượng bị soi xét và thậm chí phải hỗ trợ thì những nhà đầu tư phải tìm mọi cách để cứu mình nếu không muốn sự đỗ vỡ và phá sản đến sớm hơn.

    Trong trường hợp đó, một mánh lới cũ nhưng hiệu quả là chấp nhận vay tín dụng đen với lãi suất cao và cả lừa đảo để kiếm tiền trả nợ nóng đã đẩy nhiều nhà đầu tư vào bước đường sai phạm. Hậu quả cuối cùng, khi hết sức chịu đựng mà thị trường chưa có khả năng hồi phục, dẫn tới vỡ nợ.

    Tuy nhiên, theo các chuyên gia Viện Kinh tế Việt Nam, sự hưng phấn và những sai lầm về đầu tư trên sàn chứng khoán hay BĐS; lòng tham, sự cả tin và mánh lới của các vụ lừa đảo vừa qua thì đã rõ nhưng đằng sau đó đã cho thấy sự phát triển bất ổn của những thị trường BĐS và chứng khoán. Thay vì đây là những thị trường cao cấp, kiểm soát chặt thì nó lại phát triển quá nóng và nhiều khi vượt qua sự kiểm soát để thành như một cái chợ, một canh bạc.

    Nhờ lại thời điểm chứng khoán lên 1200 điểm, mọi cảnh báo phát triển nóng, nguy cơ đổ vỡ cũng đã được đưa ra, bất động sản tăng cao nhiều lần hơn giá trị thực, vượt xa nhu cầu mua bán cũng đã được khuyến cáo... Tuy nhiên, những cảnh báo dường như đã bị bỏ qua vì tất cả đều đang say máu và có lợi cộng với sự "thăng hoa" của thị trường khiến cho không ai nghĩ mọi việc lại rơi vào kết cụ xấu.

    Nhưng qua tác động khủng hoảng kinh tế 2008, chứng khoán bắt đầu đi xuống, và rồi liên tiếp lạm phát, bất ổn trong nước khiến cho nó trượt dài xuống mốc dưới 400 điểm. Những con số giao dịch, tăng điểm, lợi nhuận ấn tượng đã thay bằng màu sự thua lỗ và tê liệt dần của hầu hết nhà đầu tư như ngày hôm nay.

    Tình trạng như thế cũng đến với bất động sản. Đã có lúc, giá bất động sản tưởng như không bao giờ ngừng tăng, vì thế tâm lý cứ đổ vào đất, bỏ càng nhiều càng thắng lớn đã kéo người người làm bất động sản, DN nào cũng làm bất động sản... Nhưng rồi lạm phát, hãm phanh tín dụng đã khiến cho thị trường đóng băng. Bất động sản tiền tỷ nhưng đóng băng không giao dịch và nhà đầu tư bắt đầu ôm nợ.

    Chính nhiều chuyên gia tài chính đã từ sớm bày tỏ những phát triển lệch lạc trên nền kinh tế. Trong khi các thị trường cơ bản như nhân lực, công nghệ chưa được xác lập thì những thị trường cao cấp như chứng khoán, BĐS lại nóng quá mức. Nó thoát ra ngoài chức năng cơ bản của mình mà trở thành một nơi buôn bán, nhưng cú đầu tư ngắn hạn và canh bạch trao tay tiền tỷ...lôi kéo toàn bộ người dân, DN và cả hệ thống tài chính vào một vòng xoáy.

    Những bất cập và nguy cơ đã được chỉ ra nhưng dường như chỉ đến hôm nay mới được nhận rõ thì với nhiều người, đã quá muôn. Còn với nền kinh tế thì phải chịu những tác động không nhỏ. Từ đây, chính chứng khoán và BĐS cũng đang gánh chịu những khó khăn và buộc phải tính cơ cấu lại nếu muốn phát triển cao hơn.

    Ngân hàng: Hệ lụy khó chối

    Trong những vụ lừa đảo vừa qua, đã có bóng dáng của những nhân viên hay các đơn vị ngân hàng có liên lụy. Tuy tất cả đều phủ nhận sự can dự của mình mà xem đó chỉ là những sai phạm cá nhân, mượn danh ngân hàng.

    Tuy nhiên, trong một lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi chặt chẽ sự kiểm soát về pháp lý và đạo đức nhưng ngân hàng đã không kiểm soát được, để danh tiếng, địa vị pháp lý và cả nguồn vốn của mình bị lợi dụng. Điều đó, dù dưới góc độ nào thì chính các ngân hàng cũng đã bị ảnh hưởng, ít nhất là về chất lượng và niềm tin trong mắt người dân.

    Tuy nhiên, điều đáng nói hơn chính là dư nợ tín dụng bất động sản của các ngân hàng vào chứng khoán. Trong mấy năm gần đây, khi các ngân hàng thương mại liên tục tăng cho vay phi sản xuất mà chủ yếu là BĐS và chứng khoán, Ngân hàng Nhà nước đã liên tục cảnh báo rồi cả áp dụng các biện pháp kỷ luật để ngăn chặn.

    Trước đây, lo ngại cho vay chứng khoán, định mức cho vay chứng khoán 20% tín dụng đã được đưa ra. Nhưng tỷ lệ này vẫn còn quá cao và tiếp tục được siết lại ở mức 20% vốn điều lệ vào năm 2008. Tại thời điểm đó, sự thay đổi đã khiến cho các ngân hàng không hài lòng và phản đối vì cho rằng bị mất đi một cơ hội làm ăn.

    Đối với cho vay bất động sản cũng vậy, năm nào Ngân hàng Nhà nước cũng phải nhắc nhở về hạn chế cho vay nhưng xem ra, sự nhắc nhở này chẳng có mấy tác dụng khi cho vay bất động sản vẫn ở trong mức cao và nguy hiểm và được đánh giá là một nguy cơ đối với an toàn hệ thống.

    Sự việc căng lên khi đầu năm nay, Ngân hàng Nhà nước buộc các tổ chức tín dụng phải giảm dư nợ phi sản xuất xuống 22% vào tháng 9 và 16% vào cuối năm thì nhất loạt các ngân hàng kêu ca khó thực hiện rồi lộ ra hàng loạt ngân hàng cho vay bất động sản, chúng khoán rất cao, có ngân hàng lên đến trên 50%.

    Sự thực là đến hạn tín dụng phi sản xuất nhưng vẫn có đến 5 ngân hàng không thể đáp ứng tiêu chí này. Thông tin sau đó từ lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, có đến hàng trăm, ngàn tỷ đồng đang cho vay BĐS và một con số lớn khác đang dính vào chứng khoán.

    Đây thực sự là điều đáng lo ngại cho chất lượng tín dụng trong bối cảnh hai thị trường hiện nay. Sự thực rất nhiều khoản cho vay trong hai lĩnh vực này bị rơi vào tình trạng xấu. Ngân hàng nông nghiệp mới đây đã phải thừa nhận đa phần trong tỷ lệ nợ xấu hơn 6% của họ là từ bất động sản. Theo nhận định của các chuyên gia từ Công ty chứng khoán Thăng Long, tình hình tương tự sẽ đến với nhiều ngân hàng khác.

    Câu hỏi đặt ra lúc này là liệu có sự liên hệ nào giữa những vụ vỡ nợ và các khoản cho vay của ngân hàng? Và có bao nhiêu phần cho vay của ngân hàng đang rơi vào tính trạng có thể mất vốn vì đầu tư thua lỗ trên thị trường chứng khoán và BĐS? Câu trả lời từ các chuyên gia trong ngành là có và không hề nhỏ. Và tình trạng nợ xấu gia tăng nhanh trong thời gian gần đây chính là một biểu hiện cho tình trạng này.

    Các ngân hàng cũng có thể trả lời là họ không lo lắm trước các khoản vay này vì được đảm bảo bởi tài sản. Tuy nhiên, tài sản đảm bảo liệu có được chuyển hóa để bù đắp thanh khoản cho các ngân hàng khi mà thị trường sụt giảm và đóng băng như hiện nay.

    Nguy hiểm hơn trong tình trạng hiện nay, khi các khoản vay ngân hàng ngày càng đến hạn, khả năng trả nợ không có... để tránh phá sản và đổ vỡ họ tiếp tục leo theo các khoản tín dụng đen. Thậm chí, rất có thể, những chính sách về ưu đãi mới về lãi suất, tín dụng sẽ lại bị lợi dụng để đảo nợ. Mà chuyện này đã xảy ra nhiều trong những chính sách ưu đãi trước đây.
  7. minhduc2003

    minhduc2003 Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    May 22, 2011
    Likes Received:
    2,290
    Đây là tin tốt, cái ung nhọt đã được một cây kim nhọn châm vào .

Share This Page