Hải quân Việt Nam sẽ làm mọi việc để bảo vệ lãnh thổ. Chiến!!!!!!!!!! - Tập 2

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi zzzzvozzzz, 27/05/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
10277 người đang online, trong đó có 1067 thành viên. 09:33 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 160111 lượt đọc và 2516 bài trả lời
  1. quyphupham

    quyphupham Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    09/04/2010
    Đã được thích:
    0
  2. thailo2011

    thailo2011 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    21/05/2011
    Đã được thích:
    1.308
    Xem không quân Việt Nam ném bom, bắn tên lửa trên biển
    Chiến đấu cơ Su 30, trực thăng MI của Không quân Việt Nam đã bắn tên lửa, rocket, thả bom... tiêu diệt thành công mục tiêu trên biển.
    Đầu tháng 5, Đoàn Không quân B70 đã tổ chức bắn, ném bom nhằm đánh giá trình độ tổ chức chỉ huy, kiểm tra thực tế chiến đấu.

    Trong 2 ngày, các đơn vị đã thực hiện được 37 lần chuyến bay bắn, ném bom với kết quả 100% phi công đạt yêu cầu trong đó 43,3% đạt xuất sắc ném trúng tâm bia, 32,4% đạt giỏi, 13,5% đạt khá và 10,8% đạt yêu cầu.

    [​IMG]
    Kiểm tra tên lửa trước khi tập luyện
    [​IMG]
    Lên phương án tác chiến
    [​IMG]
    Máy bay Su30 phóng tên lửa
    [​IMG]
    Bắn rốc ket
    [​IMG]
    Máy bay Su30 thả bom
    [​IMG]
    Phóng tên lửa từ trực thăng
    [​IMG]
    [​IMG]
    Bom nổ tung dưới nước.
    [​IMG]
    Trở về trong nụ cười chiến thắng.
    Theo Năng lượng mới/VTC
  3. HPMylinh

    HPMylinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/08/2009
    Đã được thích:
    1
    chú này thật chán coi kĩ đi rồi hãy phán. chủ nhật này chú đừng chuồn về quê nhé[:p]
    chỉ có điều sao bọn nó chịu để lâu vậy nhỉ ???[-)
  4. vitcucxinh

    vitcucxinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2011
    Đã được thích:
    0
    Bọn nó dám đánh thẳng vào thủ đô và miền trung với tây nguyên
    3 mũi tiến công vào thẳng Việt Nam
    Bọn này láo quá. Dân ta chuẩn bị chiến đấu lại đi
  5. tcdtcd

    tcdtcd Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    31/01/2010
    Đã được thích:
    394
    Bài viết vạch trần tội ác của thực dân thế giới - Trung Quốc

    TRung Quốc thực dân thế giới

    Người Trung Quốc sống ở châu Phi có văn hóa kinh doanh kiểu "bừa bãi", không quan tâm đến các luật lệ và quy định dù nhỏ nhất. Họ bỏ qua sự nhạy cảm của người địa phương.

    Zhu Liangxiu, một thợ làm giày đến từ thành phố Phật Sơn (Foshan), gần Hong Kong (Trung Quốc), uống một ngụm rượu Kenya trong một quán bar ở Nairobi và nói một câu châm ngôn của người Trung Quốc: "Một người không thể hai lần lội xuống cùng một dòng sông". Đây là lần thứ hai ông đến châu Phi. Dù ông nói đã bắt đầu yêu mến nơi này, nhưng bạn vẫn có thể thấy sự thất vọng trong giọng nói của ông.

    Trong chuyến đi đầu tiên cách đây ba năm, ông Zhu đã ghi đầy cuốn sổ tay gồm các đơn đặt hàng, và đã ngạc nhiên khi người châu Phi không chỉ muốn giao thương với ông mà còn thích thú với công ty của ông. "Tôi đã đến nhiều châu lục và không ở đâu cảm thấy được đón tiếp nồng hậu như ở đây". Những người lạ chúc mừng ông vì thỏa thuận đầy hứa hẹn mà nước ông đem đến cho các quốc gia đang phát triển. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất châu Phi và mua hơn 1/3 lượng dầu mỏ của châu lục này. Họ đã bỏ tiền ra xây dựng vô số trường học và bệnh viện mới. Người dân địa phương tự hào nói với ông Zhu rằng Trung Quốc đã làm rất nhiều để chấm dứt cái nghèo ở châu Phi, nhiều hơn bất cứ nước nào khác.

    Lần này đến châu Phi, ông thấy việc kinh doanh vẫn tốt đẹp, có thể còn tốt hơn lần trước. Nhưng thái độ của người châu Phi đã thay đổi. Các đối tác nói ông đang bóc lột họ. Các chính khách bắt đầu chạy đua với con bài chống Trung Quốc. Hàng hóa Trung Quốc bị đưa ra làm ví dụ điển hình cho thấy những sản phẩm kém chất lượng. Người ta bắt đầu bàn tán về "thực dân" thế giới. Trẻ em cười nhạo còn người lớn xì xào về việc những con chó trên đường biến mất trong những nồi nấu ăn.

    Vốn được ca tụng là vị cứu tinh của nhiều nước châu Phi, Trung Quốc giờ đã bắt đầu bị nhìn nhận với con mắt khác - đặc biệt ở những nước nhỏ hơn, nơi sức nặng của Trung Quốc được cảm thấy rõ nét. Nguyên nhân có rất nhiều: nào là những thói quen xấu trong kinh doanh được thâm nhập vào các nước châu Phi cùng với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu từ Trung Quốc; những công trình xây dựng cẩu thả do Trung Quốc làm chủ thầu. Một bệnh viện ở Luanda, thủ đô của Angola, đã "trống rong cờ mở" khi khai trương, nhưng chỉ vài tháng sau đã xuất hiện những vết nứt trên tường khiến nó phải sớm đóng cửa. Một đường quốc lộ do Trung Quốc xây dài 130 km từ Lusaka, thủ đô của Zambia, tới thành phố Chirundu (Đông Nam) đã nhanh chóng bị sạt lở vì mưa.


    Kinh doanh kiểu Trung Quốc

    Người Trung Quốc sống ở châu Phi có văn hóa kinh doanh kiểu "bừa bãi", không quan tâm đến các luật lệ và quy định dù nhỏ nhất. Họ bỏ qua sự nhạy cảm của người địa phương. Tập đoàn Dầu lửa Trung Quốc (Sinopec) đã khai thác ở một công viên quốc gia của Gabon. Một công ty dầu lửa quốc gia khác của Trung Quốc đã tạo ra những hồ tràn nguyên liệu ở Sudan. Bộ trưởng Môi trường Zimbabwe nói các công ty đa quốc gia của Trung Quốc "đang hoạt động như những người khai mỏ makorokoza" - cụm từ chỉ sự khinh bỉ khi nói về những người đào vàng trái phép.

    Trong khi đó, nhân công không được quan tâm đúng mức. Tại các mỏ đồng do Trung Quốc khai thác ở Zambia, người ta phải làm việc 2 năm mới được nhận mũ sắt bảo vệ. Dưới lòng đất rất thiếu gió và tai nạn chết người xảy ra gần như hàng ngày. Để tránh bị trừng phạt, các chủ doanh nghiệp Trung Quốc đút lót các chủ nghiệp đoàn, bố trí cho họ đi "các tua nghiên cứu" ở các phòng xoa bóp bấm huyệt ở Trung Quốc. Những đại diện công nhân gây khó dễ thì bị sa thải và các công nhân tụ tập thành nhóm bị giản tán một cách bạo lực. Khi mọi việc được đưa ra tại tòa, đến lượt các nhân chứng bị đe dọa.

    Căng thẳng leo thang đến đỉnh điểm khi các thợ mỏ ở Sinazongwe, một thị trấn miền Nam Zambia, biểu tình phản đối điều kiện làm việc thiếu thốn. Hai chủ doanh nghiệp Trung Quốc đã bắn vào đám đông, làm ít nhất 10 người bị thương. Patson Mangunje, một thành viên hội đồng địa phương, cho biết: "Người dân đã nổi giận như những con chó dại".

    Phía Trung Quốc cũng tỏ ra giận dữ và bất bình. Tại thị trấn Newcastle của Nam Phi, các xưởng dệt may của Trung Quốc trả lương công nhân khoảng 200 USD/tháng , nhiều hơn ở Trung Quốc, nhưng ít hơn mức lương tối thiểu ở địa phương. Các nghiệp đoàn đã cố đóng cửa các xưởng may này. Các chủ sở hữu người Trung Quốc vẫn bỏ ngoài tai hoặc giả vờ không biết nói tiếng Anh.

    Họ giải thích rằng nhiều công ty Nam Phi cũng đang phải cắt giảm lương tối thiểu, vốn đang ở mức rất cao. Nếu không có các công ty Trung Quốc, tình trạng thất nghiệp ở Newcastle có thể còn vượt qua mức 60% hiện nay. Công nhân thì nói rằng có một công việc với mức lương thấp còn hơn không. Một vài người trong số họ mới đây đã ngăn cản cảnh sát đóng cửa xưởng may này sau khi một nghiệp đoàn có lệnh cấm của tòa án.

    Wang Jinfu, một chủ doanh nghiệp trẻ tuổi người Trung Quốc bày tỏ: "Hãy nhìn chúng tôi xem. Chúng tôi đâu phải là những người chủ ác nghiệt". Anh Wang và vợ từ tỉnh Phúc Kiến (miền Nam Trung Quốc) đã đến đây 4 năm qua với 3.000 USD. Họ đã phải ngủ trên một tấm đệm bẩn thỉu ngay trên sàn nhà máy. Trong khi 160 công nhân của họ làm việc 40h/tuần, đôi vợ chồng chủ này phải giám sát và điều hành nhà xưởng từ sáng sớm đến tối mịt, và ngày nào cũng vậy trong suốt cả năm. Wang tự hỏi: "Sao mọi người lại ghét chúng tôi vì điều đó?"

    Trên thực tế, Trung Quốc đã giúp giảm thất nghiệp ở châu Phi và tạo ra những hàng hóa cơ bản như giày dép và đài phát thanh. Thương mại vượt mức 120 tỷ USD hồi năm 2010. Trong 2 năm qua, Trung Quốc đã cho các nước nghèo vay, chủ yếu ở châu Phi, nhiều hơn con số Ngân hàng Thế giới (WB) cho vay. Quỹ Heritage của Mỹ ước tính trong những năm 2005-2010, khoảng 14% vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc được đổ vào khu vực châu Phi hạ Sahara.

    Một câu trả lời cho câu hỏi của ông Wang là cuộc cạnh tranh, nhất là với người nước ngoài, hiếm khi được ủng hộ. Hàng trăm xưởng dệt may trên khắp Nigeria đã phá sản trong những năm gần đây vì không thể cạnh tranh với quần áo giá rẻ của Trung Quốc. Hàng nghìn việc làm đã mất.

    Vui buồn lẫn lộn

    Sự xuất hiện mới đây của các thương gia Trung Quốc trên các ngõ phố bụi bẩn của khu chợ Soweto ở Lusaka đã giúp giảm một nửa giá gà. Giá bông cải cũng giảm tới 65%. Điều này có lợi cho người tiêu dùng. Nhưng các thương gia bản địa mang những chiếc lồng đầy gia cầm của mình tới ủy ban cạnh tranh của địa phương than phiền: "Người Trung Quốc đã dám làm rối loạn thị trường của chúng ta", Justin Muchindu, một người bán hàng nói.

    Tại Dar es Salaam, trung tâm thương mại ở Tanzania, người Trung Quốc đã bị cấm bán hàng trong chợ. Chính phủ nước này hồi đầu năm 2011 cho biết người Trung Quốc được hoan nghênh như những nhà đầu tư, chứ không phải là những "người bán hàng hay người đánh giầy".

    Một câu trả lời khác, mà những người chỉ trích Trung Quốc đưa ra, là người Trung Quốc đã mang đến những thói quen xấu, cùng với thương mại, đầu tư, việc làm và kỹ năng. Nền kinh tế Trung Quốc bị đánh giá là tham nhũng, dù tính theo tiêu chuẩn của châu Phi. Các chủ doanh nghiệp Trung Quốc bị xếp gần đầu bảng trong bảng xếp hạng quốc tế về những người đút lót, hối lộ nhiều nhất. Khi các chủ doanh nghiệp này ra nước ngoài, họ đem theo tiền hối lộ và phá hoại cách quản lý tốt ở nước bản địa. WB đã cấm một số công ty Trung Quốc tham gia đấu giá bỏ thầu ở châu Phi.

    Những người ủng hộ Trung Quốc đáp lại rằng tác động có hại đến sự quản lý là rất hạn chế. Các lãnh đạo châu Phi thấy khó sử dụng quỹ phát triển. Tiền thường được đổ vào các tài khoản do bên thứ ba nắm giữ ở Bắc Kinh; sau đó một danh sách các dự án cơ sở hạ tầng được lập ra, các công ty Trung Quốc được giao những hợp đồng xây dựng và tiền được chuyển vào tài khoản của công ty này. Châu Phi có đường xá và cầu cảng, chứ không phải là tiền. Ít nhất là về lý thuyết.

    Một cách trả lời thứ ba là Trung Quốc bị cho là đang tích trữ các nguồn tài nguyên của châu Phi. Tuy nhiên, lợi ích của họ tại châu Phi không phải là hạn chế các nguồn tài nguyên. Thực tế là họ xây đường sắt và cầu ở xa các mỏ quặng và mỏ dầu. Trung Quốc không phải là một nhà tài trợ bình thường, nhưng cũng không phải là một kẻ thực dân chỉ quan tâm đến cướp đất.

    Những người chỉ trích nói rằng Trung Quốc đã giành quyền sở hữu tài nguyên thiên nhiên, dù các hợp đồng dịch vụ và các nhượng bộ khác vẫn đúng tiêu chuẩn. Trung Quốc cũng thường bị cáo buộc là đưa các tù nhân khổ sai sang châu Phi - người dân bản địa cho rằng các công nhân Trung Quốc có kỷ luật cao trong những bộ đồng phục lao động vất vả từ sáng tới tối hẳn là vì họ đang chịu án tù.

    Sự mập mờ trong quan hệ của Trung Quốc với châu Phi đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho các chính trị gia. Các đảng phái đối lập, nhất là ở miền Nam châu Phi, thường tranh cử trên nền tảng chống Trung Quốc. Kể cả quốc gia như Rwanda cũng đã chua cay khi nói về "sự bóc lột" của Trung Quốc. Kể cả ở những nơi yên bình hơn như Namibia, thái độ chống đối cũng hừng hực. Công nhân tại những công trình xây dựng của Trung Quốc ở thủ đô Windhoek nói họ bị "đối xử không công bằng". Tại Zambia, lãnh đạo phe đối lập Michael Sata thì nổi tiếng với biệt danh là người hoài nghi Trung Quốc.

    Trung Quốc muốn gì?

    Dù sao phản ứng dữ dội trên cũng là bình thường. Hàng chục nghìn chủ doanh nghiệp từ một trong những nền kinh tế hiện đại thành công nhất đã phải rời khỏi châu Phi. Sanou Mbaye, một cựu quan chức cấp cao của Ngân hàng Phát triển châu Phi, cho biết người Trung Quốc đến châu Phi trong 10 năm qua nhiều hơn người châu Âu trong 400 năm qua. Ban đầu họ đến từ các công ty nhà nước, sau ngày càng có nhiều người đến theo diện cá nhân hoặc ở lại sau khi kết thúc một hợp đồng làm việc.

    Nhiều người mơ ước một cuộc sống mới. Các thợ mỏ và công nhân xây dựng thấy cơ hội kinh doanh ở châu Phi, và được tự do hơn (khi được làm chủ doanh nghiệp của mình và được nói những gì mình muốn, và... thoải mái gây ô nhiễm). Một cuộc thăm dò của Chính phủ Trung Quốc với 1.600 công ty cho thấy ngày càng nhiều người coi châu Phi là một cơ sở công nghiệp. Tỷ lệ công ty sản xuất chế biến trong tổng đầu tư của Trung Quốc (22%) đang gần đuổi kịp tỷ lệ công ty khai mỏ (29%).

    Điều này một phần là vì người châu Phi cũng muốn được như vậy. Một số nước đã coi đầu tư công nghiệp là một điều kiện tiên quyết cho các thỏa thuận liên quan đến tài nguyên. Tại Ethiopia, 2 trong số 3 công ty Trung Quốc là công ty chế biến.

    Tuy nhiên, Trung Quốc luôn muốn làm nhiều hơn là khai thác nhiên liệu khi đầu tư ra nước ngoài. Họ hy vọng xây dựng những ngôi nhà chọc trời ở Tokyo, vận hành các ngân hàng ở London và làm phim ở Hollywood. Tại châu Phi, họ có thể nắm được mấu chốt vấn đề ở một khu vực mà cạnh tranh còn yếu. Châu lục này - sẽ sớm được nối với các cảng thương mại tự do của Trung Quốc - là một hòn đá tảng cho sự hiện diện thương mại trên toàn cầu.

    Để đạt mục đích này, chính phủ ở Bắc Kinh khuyến khích mọi dạng hoạt động ở châu Phi. Xây dựng là một ưu tiên, chiếm 3/4 đầu tư tư nhân của Trung Quốc tại châu lục này. Bộ Thương mại cho biết các công ty Trung Quốc đang ký các hợp đồng xây dựng cơ sở hạ tầng trị giá hơn 50 tỷ USD mỗi năm. Đầu tư của Trung Quốc vào nông nghiệp tại châu Phi đạt 5 tỷ USD. Rất nhiều người châu Phi cảm thấy lo lắng về những con số này.

    Có thể động lực lớn nhất của Trung Quốc là tài chính. Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc đã mua 20% cổ phần của Ngân hàng Standard, một nhà cho vay của Nam Phi và là ngân hàng lớn nhất châu Phi về tài sản, và hiện đang mở các tài khoản bằng đồng Nhân dân tệ cho các thương gia Trung Quốc ở nước ngoài. Các ngân hàng khác ở đại lục cũng đã mở văn phòng tại đây, và tung ra các khoản cho vay không phải ký quỹ dành cho các công ty Trung Quốc. Về lý thuyết, người châu Phi có thể vay với điều kiện tương tự, nhưng điều này hiếm khi xảy ra.

    Chính phủ Trung Quốc - cơ quan kiểm soát các ngân hàng - cũng đã cảnh báo trước những chỉ trích như vậy. Một quan chức Trung Quốc thừa nhận hình ảnh của Trung Quốc ở châu Phi bị hoen ố không chỉ bởi các chủ doanh nghiệp "cao bồi". Nhiều chính sách của chính phủ cũng cần được cải thiện.

    Sự hoài nghi lớn nhất là kiểu chuyển tiền mà Trung Quốc dành cho các nước châu Phi. Hầu hết các khoản cho vay và thanh toán đều "bị ràng buộc" - ví dụ, người nhận phải tiêu tiền vào các công ty Trung Quốc. Nhưng các viện trợ có ràng buộc này lại dẫn tới những sản phẩm kém chất lượng. Do không có cạnh tranh, các công ty được lợi bỏ đi sau khi để lại những con đường xuống cấp và những bệnh viện giá cắt cổ.

    Tệ hơn, Chính phủ Trung Quốc không minh bạch trong vấn đề tài chính. Các con số viện trợ được coi là bí mật quốc gia. Ngân hàng Exim Bank và Ngân hàng Phát triển Trung Quốc, những nhà cho vay chính, không công bố số liệu nào về các khoản cho nước nghèo vay.

    Nói gì thì nói, người châu Phi không phải là hoàn toàn bất lực trong quan hệ kinh doanh với người Trung Quốc. Phải thừa nhận là có một số người không mạnh trong thương lượng: một ông chủ bình thường người Rwanda để cho các nhà đầu tư Trung Quốc tha hồ hoành hành. Nhưng các chính phủ châu Phi đã ký các thỏa thuận hợp lý với Trung Quốc; và một số nước như Angola thậm chí là những nhà đàm phán hách dịch. Tổng thống Angola đã công khai nói với đối tác Trung Quốc: "Các ngài không phải là bạn duy nhất của chúng tôi". Các nhà đầu tư người Brazil và Bồ Đào Nha có rất nhiều ở thủ đô Luanda của Angola, và người Angola thường lấy họ làm đối trọng với Trung Quốc. Angola từng cấm một công ty dầu mỏ nhà nước Trung Quốc sau khi không thống nhất được về một nhà máy lọc dầu. Công ty này đã phải quay lại một năm sau đó và đề xuất rất nhiều tiền.

    Tuy nhiên, còn một thực tế khác là bất kể các chính phủ châu Phi đã cố gắng thế nào, họ cũng không thể đối phó với những các doanh nghiệp mới mọc lên. Các quy định để bảo vệ nhân công và môi trường đều có, nhưng các thể chế quá yếu để cưỡng chế thi hành chúng. Các thanh tra lao động ở Lusaka chỉ có độc một chiếc xe hơi để làm nhiệm vụ và mới đây chiếc xe này đã bị hỏng. Trong khi đó, các kỹ sư Trung Quốc đã thành lập rất nhiều xưởng sản xuất tạp nham. Chính vì vậy, châu Phi muốn nắm lấy các cơ hội mới do Trung Quốc đem đến, nhưng vẫn lo lắng về những cạm bẫy mà nó tạo ra.

    Các nước phương Tây cũng sẽ muốn theo dõi tiến bộ của những đại gia Trung Quốc vượt Ấn Độ Dương: những người như Danny Lau, một thanh niên 31 tuổi đến từ Thượng Hải, người cách đây một năm theo nhóm bạn đến Zambia và ngày nay trở thành một thương gia buôn than đá và bất động sản thành đạt. Anh cho biết trong vài năm nữa, họ sẽ chuyển đến một châu lục giàu có hơn. Những gì họ học được ở Accra và Brazzaville sẽ cùng họ đến Vancouver và Zagreb.

    Châu Giang
  6. hocaptrung

    hocaptrung Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    29/04/2010
    Đã được thích:
    842


    Khi nào Tổ quốc gọi, anh quyết cùng tiểu đội với nàng [r32)][r2)][r2)]
  7. SINH-TU

    SINH-TU Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    01/06/2010
    Đã được thích:
    73
    Danh sách các đảo theo sự chiếm đóng của các quốc gia

    Tên quốc tế Tên địa phương Miêu tả Diện tích (ha.)
    Flat Island Patag (P) Khoảng 10 km về phía tây nam đảo Vĩnh Viễn, là cồn cát phẳng, thấp, kích thước 240mx90m, thay đổi hình dạng theo mùa, hướng gió và sóng, không có cây cỏ, không có nước ngọt. Hiện là trạm quan sát quân sự của thành phố Kalayaan. 0.57
    Đảo Phí Tín 费/費信岛 (Trung Quốc)
    Đảo Bình Nguyên (Việt Nam)
    Lankiam Cay Panata (P) 13 km phía đông bắc cồn san hô Lan Can. Đã từng có diện tích bề mặt hơn 5 ha nhưng sóng mạnh đã phá bề mặt cát, nay chỉ còn nền lộ ra khi triều thấp. Có đóng quân. 0.44
    Cồn cát Dương Tín /Dương Tín Sa châu 杨信沙洲 (Trung Quốc)

    Cồn San Hô Lan Can (Việt Nam)
    Loaita Island Kota (P) 35 km về phía đông nam đảo Thị Tứ. Đảo cát. Có dừa và một số loại cây nhỏ. Có đóng quân. Chiếm giữ từ năm 1968. 6.45
    Đảo Nam Thược 南钥/鑰岛 (Trung Quốc)
    Đảo Loại Ta (Việt Nam)
    Nanshan Island Lawak (P) 157,7 km phía đông đảo Thị Tứ. Là nơi chim sinh sống, có dừa, cây bụi và cỏ mọc. Có đóng quân và một đường băng nhỏ. 7.93
    Đảo Mã Hoan 马欢岛, 馬歡島 (Trung Quốc)
    Đảo Vĩnh Viễn (Việt Nam)
    Northeast Cay Parola (P) Đảo lớn thứ 5 trong quần đảo. Chỉ cách đảo Song Tử Tây 2,82 km và có thể nhìn thấy ở đường chân trời. Cách đảo Thị Tứ 45 km về phía tây bắc. Có cỏ và cây. Có hải đăng từ năm 1984. Có đóng quân, 1 đường băng. Chiếm giữ từ năm 1968. Một phần của bãi đá chìm North Danger. 12.7
    Đảo Bắc Tử 北子岛 (Trung Quốc)
    Đảo Song Tử Đông (Việt Nam)
    Thitu Island Pag-asa (P) Đảo lớn thứ 2 quần đảo. Được che phủ bởi cây và nhiều loại thực vật. Dân cư khoảng hơn 300 người (gồm cả trẻ em) và hơn 40 binh lính. Có một đường băng, một bến tàu, nhà máy lọc nước, nhà máy điện, và một tháp truyền thông thương mại. Chiếm giữ từ năm 1968. 37.2
    Đảo Trung Nghiệp 中业/業岛 (Trung Quốc)
    Đảo Thị Tứ (Việt Nam)
    West York Island Likas (P) Đảo lớn thứ 3 trong quần đảo. Nằm cách đảo Thị Tứ 76km về phía đông bắc. Là nơi rùa biển đẻ trứng, có các loại cây như dừa, ipil-ipil... Có một trạm quan sát và một số binh lính. 18.6
    Đảo Tây Nguyệt 西月岛 (Trung Quốc)
    Đảo Bến Lạc, Đảo Dừa (Việt Nam)
    Commodore Reef Rizal (P) after Jose Rizal Đảo đá cao 0,5 m. Có một số công trình quân sự và binh lính. Chiếm giữ từ năm 1978. 0
    Đá ngầm Tư Lệnh, Tư Lệnh tiêu 司令礁 (Trung Quốc)
    Đá Công Đo (Việt Nam)
    Terumbu Laksamana (M)
    Irving Reef Balagtas (P) Đảo chìm, chỉ hiện khi triều thấp, một số binh lính đóng quân. 0
    Đá ngầm Hỏa Ngải, Hỏa Ngải tiêu 火艾礁 (Trung Quốc)
    Đảo Cá Nhám (V)
    Shira Islet
    Một phần của đảo Song Tử Đông, cách đảo 320 m. ??
    Tổng số
    7 đảo, 2 bãi đá chìm, 1 đảo nhỏ 83.89
    Đài Loan
    Tên quốc tế Tên địa phương Miêu tả Diện tích (ha.)
    Itu Aba Island Ligaw (P) Đảo lớn nhất quần đảo. Che phủ bởi cây bụi nhỏ, dừa, và mangrove. 600 binh lính đóng quân, hải đăng, các trạm thời tiết và phát thanh, sân bay và giếng nước. Chiếm giữ từ tháng 9 năm 1956, 4 tháng sau khi Philippines tuyên bố chủ quyền. Một phần của cồn Tizard. 46
    Đảo Thái Bình 太平島 (Trung Quốc)
    Đảo Ba Bình (Việt Nam)
    Ban Than Jiao Trung Châu tiêu 中洲礁 (Trung Quốc) Bãi đá san hô giữa đảo Ba Bìnhđảo Sơn Ca. Có công trình xây dựng và binh lính đóng quân. Chiếm giữ từ năm 1995. Một phần của cồn Tizard. 0
    Bãi Bàn Than (Việt Nam)
    Tổng
    1 đảo, 1 bãi đá 46
    Việt Nam
    Tên quốc tế Tên địa phương Miêu tả Diện tích (ha.)
    Amboyna Cay Kalantiaw (P) Gồm 2 phần: phần phía đông gồm cát và san hô, phần phía tây phủ phân chim. Có vành đá ngầm bao quanh. Một chóp đá cao 2,7m ở góc Tây Nam. Ít thực vật. Hải đăng hoạt động từ tháng 5 năm 1995. Phòng thủ chặt chẽ. 1.6
    Cồn cát An Ba, An Ba Sa châu 安波沙洲 (Trung Quốc)
    Đảo An Bang (Việt Nam)
    Pulau Amboyna Kecil (M)
    Namyit Island Binago (P) Bao phủ bởi cây nhỏ, cậy bụi và cỏ. Có một vành đá san hô bao quanh và có chim biển sinh sống. Chiếm giữ từ năm 1975. Một phần của cồn Tizard. 5.3
    Đảo Hồng Hưu 鸿庥岛 (Trung Quốc)
    Đảo Nam Yết (Việt Nam)
    Sand Cay Bailan (P) Bao phủ bởi cây và bụi. Vành san hô nổi một phần khi triều thấp. Chiếm giữ từ năm 1974. Một phần của cồn Tizard. 7
    Cồn cát Đôn Khiêm, Đôn Khiêm Sa châu 敦谦沙洲 (Trung Quốc)
    Đảo /Đá Sơn Ca (Việt Nam)
    Sin Cowe Island Rurok (P) Có vành đá bao quanh nổi khi triều xuống. Chiếm giữ từ năm 1974. Một phần của cồn Union. 8
    Đảo Cảnh Hoằng 景宏岛 (Trung Quốc)
    Đảo Sinh Tồn (Việt Nam)
    Sin Cowe East Island Đảo Sinh Tồn Đông (V) Miêu tả có thể giống với đảo Sinh Tồn. Một phần của cồn Union. 0.8
    Southwest Cay Pugad (P) Chỉ cách đảo Song Tử Đông 2,82 km và có thể nhìn thấy ở đường chân trời. Đã từng là nơi đẻ trứng của chim và được phủ bởi cây và phân chim. Việc xuất khẩn phân chim đã từng được thực hiện với quy mô đáng kể. Vành đá bao quanh nổi một phần khi triều lên. Việt Nam dựng ngọn hải đăng đầu tiên trên quần đảo Trường Sa tại đây vào tháng 10 năm 1993, và xây một đường băng. Có một tòa nhà 3 tầng làm nơi đóng quân. Hải quân Việt Nam Cộng hòa được bố trí trên đảo Song Tử Tây từ tháng 2 năm 1974. Hải quân Nhân dân Việt Nam thay thế Hải quân Việt Nam Cộng hòa quản lý đảo Song Tử Tây từ 14/4/1975 đến nay. Một phần của rặng san hô North Danger. 12
    Đảo Nam Tử 南子岛 (Trung Quốc)
    Đảo Song Tử Tây (Việt Nam)
    Spratly Island Lagos (P) Đảo lớn thứ tư của quần đảo. Độ cao 2,5 m, địa hình phẳng. Che phủ bởi cây bụi, cỏ, chim chóc và phân chim. Chòi đá cao 5,5 m ở mũi phía Nam. Có một đường băng và một cảng cá. Vành đá ngầm nổi khi triều xuống. Một số công trình xây dựng và binh lính đóng quân. Chiếm giữ từ năm 1974. 13
    Đảo Nam Uy 南威岛 (Trung Quốc)
    Đảo Trường Sa (Việt Nam)
    Alison Reef Đá ngầm Lục Môn, Lục Môn tiêu 六门礁 (Trung Quốc) Nổi trên mặt nước khi triều xuống. 0
    Bãi Tốc Tan (Việt Nam)
    Barque Canada Reef Mascado (P) San hô. Đỉnh đá cao nhất cao 4,5 m tại mũi Tây Nam. Phần lớn bãi đá nổi khi triều lên. Một số khoảnh có cát. Dài 29 km. Các công trình quân sự mới được nâng cấp gần đây. Chiếm giữ từ năm 1987. 0
    Đá ngầm Bá /Bách, Bá /Bách tiêu 柏礁 (Trung Quốc)
    Bãi Thuyền Chài (Việt Nam)
    Terumbu Perahu (M)
    Bombay Castle
    Xem Rifleman Bank 0
    Central London Reef Đá ngầm Trung, Trung tiêu 中礁 (Trung Quốc) Phần Tây Nam là một bờ cát chỉ nổi chút ít khi triều lên. Phần còn lại là đá san hô ngập nước bao quanh một đầm nước. Chiếm giữ từ năm 1978. Một phần của dải san hô London. 0
    Đảo Trường Sa Đông (Việt Nam)
    Collins Reef/ Johnson North Reef Đá ngầm Quỷ Hàm, Quỷ Hàm tiêu 鬼喊礁 (Trung Quốc) Nối với đá Gạc Ma. Một "cồn san hô" ở góc Đông Nam, nổi khi triều cao. Một phần của Cồn Union. 0
    Đá Cô Lin (Việt Nam)
    Cornwallis South Reef Đá ngầm Nam Hoa, Nam Hoa tiêu 南华礁 (Trung Quốc) Chỉ nổi khi triều xuống. Bao quanh một đầm nước. Chiếm giữ từ năm 1988. 0
    Đá Núi Le (Việt Nam)
    Great Discovery Reef Paredes (P) Một vài mỏm đá nổi khi triều lên. Phần lớn bãi đá nổi khi triều xuống. Có 1 đầm nước. Chiếm giữ từ năm 1988. 0
    Đá ngầm Đại Hiện, Đại Hiện tiêu 大现礁 (Trung Quốc)
    Đá Lớn (Việt Nam)
    East London Reef Silangan (P) lit. east Bãi đá cao tới 1 m, bao quanh một phá nước. Đóng quân từ năm 1988. Một phần của London Reef. 0
    Đá ngầm Đông, Đông tiêu 东礁 (Trung Quốc)
    Đá Đông (Việt Nam)
    Grainger Bank Bãi Lý Chuẩn, Lý Chuẩn than 李准滩 (Trung Quốc) Độ sâu tự nhiên nơi nông nhất là 9 hoặc 11 m. Đóng quân từ năm 1989. 0
    Bãi Quế Đường (Việt Nam)
    Higgens Reef Đá ngầm Khuất Nguyên, Khuất Nguyên tiêu 屈原礁 (Trung Quốc) Chỉ nổi khi triều thấp. Một phần của cồn Union. 0
    Đá Hi Ghen, Đá Hi Gen (Việt Nam)
    Johnson North Reef
    Xem Collins Reef 0
    Ladd Reef Đá ngầm Nhật Tích, Nhật Tích tiêu 日积礁 (Trung Quốc) Nổi khi triều thấp. Đóng quân từ 1988. 0
    Đá Lát (Việt Nam)
    Lan(d)sdowne Reef Đá ngầm Quỳnh, Quỳnh tiêu 琼礁 (Trung Quốc) Cồn cát với vành đá ngầm bao quanh. Một phần của cồn Union. 0
    Đá Len Đao (Việt Nam)
    Pearson Reef Hizon (P) Hai cồn cát có độ cao 1 và 2 m nằm bên bờ phá nước. Một phần của vành đá bao quanh nổi khi triều cao. Đóng quân từ 1988. 0
    Đá ngầm Tất Sinh, Tất Sinh tiêu 毕生礁 (Trung Quốc)
    Đảo Phan Vinh (Việt Nam)
    Petley Reef Đá ngầm Bạc Lan, Bạc Lan tiêu 舶兰礁 (Trung Quốc) Nổi tự nhiên khi triều xuống, một vài mỏm đá nổi khi triều cao. Đóng quân từ 1988. Một phần của cồn Tizard. 0
    Đá Núi Thị (Việt Nam)
    Pigeon Reef/ Tennent Reef Đá ngầm Vô Khiết, Vô Khiết tiêu 无乜礁 (Trung Quốc) Nhiều mỏm đá nổi tự nhiên khi triều cao. Vành đá bao quanh phá nước. Đóng quân từ 1988. 0
    Đá Tiên Nữ (Việt Nam)
    Prince Consort Bank Bãi Tây Vệ (Trung Quốc) Độ sâu nơi nông nhất là 9 m. Đóng quân từ 1989. 0
    Bãi Phúc Nguyên (Việt Nam)
    Rifleman Bank (containing Bombay Castle) Bãi Nam Vi (Trung Quốc) Độ sâu nơi nông nhất là 3 m. Đóng quân từ 1989. 0
    Bãi Vũng Mây (Việt Nam)
    South Reef Đá ngầm Nại La (Trung Quốc) Nằm tại đầu Tây Nam của North Danger Reef. Vành đá bao quanh nổi khi triều thấp. Đóng quân từ 1988. Một phần của North Danger Reef. 0
    Đá Nam (Việt Nam)
    Tennent Reef
    Xem Pigeon Reef 0
    Vanguard Bank Bãi Vạn An (Trung Quốc) Độ sâu nơi nông nhất là 16 m. Đóng quân từ 1989. 0
    Bãi Tư Chính (Việt Nam)
    West London Reef Đá Ngầm Tây (Trung Quốc) Phần phía đông là cồn cát cao 0.6 m, phía tây là rạn san hô chỉ nổi khi triều xuống. Nằm giữa là phá nước. Việt Nam dựng hải đăng năm 1994. Một phần của London Reefs. 0
    Đá Tây (Việt Nam)
    Tổng số
    7 Đảo, 16 bãi đá chìm, 3 bãi ngầm 47.7
    Malaysia
    Tên quốc tế Tên địa phương Miêu tả Diện tích (ha.)
    Ardesier Reef Bãi An Độ (Trung Quốc) Nhô tự nhiên trên mặt nước khi thủy triều xuống. Bao quanh một đầm nước. Có vài bãi cát. Một ít binh lính đồn trú. Chiếm đóng từ năm 1986. 0
    Bãi Kiêu Ngựa (Việt Nam)
    Terumbu Ubi (M)
    Dallas Reef Đá ngầm Quang Tinh (Trung Quốc) Nhô tự nhiên trên mặt nước khi thủy triều xuống. Bao quanh một đầm nước. Một ít binh lính đồn trú. Malaysia cũng đang sử dụng bãi đá ngầm này cho du lịch. 0
    Đá Suối Cát (Việt Nam)
    Terumbu Laya (M)
    Erica Reef Boji Jiao (C) Chỉ nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Ở mé đông, vài mỏm đá nằm riêng lẻ nhô trên mặt nước khi nước dâng. 0
    Terumbu Siput (M)
    Đá En Ca (V)
    Investigator Shoal Yuya Jiao (C) Chỉ nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Vài mỏm đá lớn, ở cuối hướng đông, có thể nhìn thấy khi nước dâng cao. Chỉ nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Bao quanh một đầm nước. 0
    Bãi Thám Hiểm (Việt Nam)
    Terumbu Peninjau (M)
    Louisa Reef Đá ngầm Nam Thông (Trung Quốc) Mỏm đá cao 1 mét. Malaysia quản lý một ngọn hải đăng ở đây. 0
    Terumbu Semarang/ Barat Kecil (M)
    Mariveles Reef Mariveles (P) Một cồn cát, cao 1,5-2m, bao quanh bởi hai đầm nước, có những nơi nhô trên mặt nước khi thủy triều dâng. Một ít binh lính đồn trú. Chiếm đóng từ năm 1986. 0
    Đá ngầm Nam Hải (Trung Quốc)
    Bãi /Đá Kỳ Vân (Việt Nam)
    Terumbu Mantanani (M)
    "Swallow Reef" Đá ngầm Đạn Hoàn (Trung Quốc) Một cồn trơ trụi cây cỏ và những mỏm đá cao đến 3 mét bao quanh một đầm nước. Malaysia đã vẽ lãnh hải chung quanh đảo này và Cồn Amboyna (Emboyna Cay). Có khoảng trên 70 binh lính đồn trú bảo quản một giàn hải tiêu. Có một cảng đánh cá và chỗ giải trí (bơi) lặn gồm 15 phòng, kể cả một phi đạo dài 1,5 cây số. Đất và cây được mang đến đây, nơi từng xem là "bốn dặm chỉ toàn những bãi biển trơ trụi và các bãi đá ngầm san hô." Chiếm đóng năm 1983.[cần dẫn nguồn] 6.2
    Đá Hoa Lau (Việt Nam)
    Terumbu Layang Layang (M)
    Total
    1 đảo nhân tạo, 5 bãi đá chìm, 1 bãi cạn 6.2
    Trung Quốc
    Tên quốc tế Tên địa phương Miêu tả Diện tích (ha.)
    Cuarteron Reef Đá ngầm Hoa Dương-華陽礁 (Trung Quốc) Chỉ có đá san hô. Cao nhất là 1,5 mét, về hướng bắc. Chiếm đóng từ 1988. Một phần của bãi đá ngầm London (London Reefs). 0
    Bãi /Đá Châu Viên (Việt Nam)
    Fiery Cross Reef/ Northwest Investigator Reef Kagilingan (P) Mỏm đá cao đến 1 mét. Tất cả chìm dưới nước khi thủy triều dâng, nhưng có phân chim kết tụ. Trung quốc đã xây một cảng hải quân bằng cách nổ phá san hô, dồn thành đống, và xây bằng xi măng, nhưng họ nói rằng không có binh lính đồn trú ở đó. Rộng 8.080 dặm vuông, dài 14 dặm, có phi đạo. Trạm quan sát hàng hải được xây năm 1988; trồng dừa, linh sam, và banyan. Thực ra có 3 bãi đá ngầm. Chiếm đóng từ năm 1988. 0
    Đá ngầm Vĩnh Thử -永暑礁 (Trung Quốc)
    Đá Chữ Thập (Việt Nam)
    Gaven Reefs Đá ngầm Nam Huân (南熏礁 -Northern reef) / Xinan or Duolu Jiao (S. reef) (Trung Quốc) Một đụn cát, cao 2 mét. Gồm một vành đá ngầm cộng thêm một bãi đá ngầm cách 2 dặm về phía nam, cả hai đều chìm dưới nước khi thủy triều dâng. Bây giờ hoàn toàn là xi măng và một giàn kim loại được dựng lên, với những căn nhà 2 tầng được xây trên đó. Bãi đá ngầm phía nam bị Trung quốc chiếm ngày 4 tháng 7 năm 1992. Chiếm đóng từ năm 1988. Một phần của cồn Tizard. 0
    Đá Ga Ven (Việt Nam)
    Johnson South Reef Mabini (P) Nằm tiếp cận với bãi đá ngầm Cô Lin (Collins Reef) do Việt Nam giữ cách đó 4 dặm (6 cây số) phía tây bắc. Nhô tự nhiên trên mặt nuớc chỉ khi thủy triều xuống, nhưng [9] cho rằng nhiều mỏm đá nhô trên mặt nước khi thủy triều dâng. Đây là nơi xảy ra trận đánh năm 1988 giữa Trung quốc và Việt Nam. Chiếm đóng từ năm 1988. Cả 2 là một phần của cồn Union. 0
    Đá ngầm Xích Qua-赤瓜礁 (Trung Quốc)
    Đá Gạc Ma (Việt Nam)
    Kennan Reef Đá ngầm Tây Môn (Trung Quốc) Tối thiểu cũng nhô tự nhiên trên mặt nước khi thủy triều xuống. Chiếm đóng năm 1988. Một phần của cồn Union. 0
    Đá Ken Nan (Việt Nam)
    Mischief Reef Panganiban (P) Vài mỏm đá nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Có một cái đầm. Vào tháng 2 năm 1995, Trung quốc đã từng xây dựng hệ thống trú phòng (a complex) bằng gỗ trên những cột trụ, bắt đầu chính thức việc chiếm đóng đảo này. Năm 1999, Philippines phản đối việc xây dựng ấy và cho rằng đó là một đồn quân sự, đe dọa an ninh và quốc phòng của Philippines, vì nó chỉ cách Palawan 130 dặm (209 cây số). Trung quốc khai rằng nó chỉ là một nơi trú ngụ cho ngư dân. 0
    Đá ngầm Mỹ Tế (Trung Quốc)
    Đá Vành Khăn (Việt Nam)
    Northwest Investigator Reef
    See Fiery Cross Reef 0
    Subi Reef Đảo Chử Bích (Trung Quốc) Nằm 16 dặm (26 cây số) tây nam của đảo Thitu (Pagasa Island) do Philippines chiếm đóng. Nhô tự nhiên trên mặt nước khi thủy triều xuống. Bao quanh một đầm nước. Trung quốc đã xây những căn nhà 3 tầng, bến tầu, và một bãi đáp trực thăng. 0
    Đá Su Bi (Việt Nam)
    Whitson Reef Bãi Ngưu Ách (Trung Quốc) Vài mỏm đá nhô tự nhiên trên mặt nước khi thủy triều dâng. Một phần của cồn Union. 0
    Đá Ba Đầu (Việt Nam)
    Hughes Reef Dongmen Jiao (Trung Quốc) Chỉ nổi khi triều thấp. Đóng quân từ 28 tháng 2 năm 1988[10]. Một phần của cồn Union. 0
    Đá Huy Gơ (Việt Nam)
    Tổng số
    9 bãi đá chìm 0 Những bãi đá ngầm, vũng cát , v.v…, phía đông kinh tuyến 116 được bảo vệ chặt chẽ bởi không quân và hải quân Phi Luật Tân (Philippines). Mặc dù không chiếm đóng, Philippines hiển nhiên nắm sự kiểm soát toàn vùng này, nơi cách bờ biển phía tây của Palawan dưới 100 dặm (160 cây số) (ngoại trừ Scarborough Shoal cách Zambales 100 dặm (160 cây số)). Có nhiều ngư dân Phillipines trong vùng này, họ hợp tác chặt chẽ với hải quân Philippines. Ngư dân không phải người Phillipines được phép vào vùng này nếu họ tuân thủ luật pháp của Philippines. Truyền thông Philippines đã tường thuật nhiều vụ hải quân Philippines bắt giữ ngư dân Trung quốc, vì sử dụng các phương thức đánh cá trái phép và đánh bắt những loài sinh vật biển có nguy cơ tuyệt chủng, cả trong vùng này lẫn biển Sulu (Sulu Sea). Sự hiện diện của quân sự Philippines trong vùng được gia tăng sau biến cố Mischief Reef. Không lực Philippines đã và đang tích cực việc không tập ngay cả đối với những bảng đánh dấu được dựng lên bởi các quốc gia khác để hướng dẫn lực lượng hải quân của họ trong vùng.
    Tên quốc tế Tên địa phương Miêu tả Diện tích (ha.)
    Bombay Shoal Bãi đá ngầm Bồng Bột (Trung Quốc) Một ít mỏm đá lộ ra khi thủy triều xuống. Bao quanh một đầm nước. 0
    Boxall Reef Niuchelun Jiao (Trung Quốc) Chỉ nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. 0
    Brown Reef

    0
    Carnadic Shoal

    0
    Glasgow Bank

    0
    Half Moon Shoal Banyue Jiao (Trung Quốc) Một ít mỏm đá phía đông nhô cao một đến hai bộ (feet) khi thủy triều lên. Bao quanh một đầm nước. 0
    Bãi Trăng Khuyết (Việt Nam)
    Hardy Reef Banlu Jiao (Trung Quốc) Nhô tự nhiên trên mặt nước khi thủy triều xuống. Bao quanh một dãi cát hẹp. 0
    Hopkins Reef

    0
    Investigator Northeast Shoal

    0
    Iroquois Reef Houteng Jiao (C) Chỉ nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. 0
    Leslie Bank

    0
    Lord Auckland Shoal

    0
    Pensylvania North Reef

    0
    Pensylvania South Reef

    0
    Reed Tablemount (including Nares Bank and Marie Louise Bank)
    Lile Tan (C) Chiều sâu tự nhiên chỗ cạn nhất là 9 mét. Có diện tích khoảng 2.500 dặm vuông (6.500 km²). Philippines chiếm đóng vùng này năm 1971 và một sự hợp tác thăm dò dầu khí giữa Philippines và Thụy Điển đã tiếp diễn sau đó. Tuy nhiên, Trung quốc đã phản đối hành động này của Philippines, cho rằng trung tâm vùng Tablemouth, nằm cách Philippines 100 dặm (160 km) là một phần của lãnh hải Trung quốc. Sau đó, Philippines đã cố gắng mời Trung quốc vào một nỗ lực hợp tác (thăm dò mỏ dầu) nhưng Trung quốc cự tuyệt và lý luận rằng Philippines không có chủ quyền trên vùng đảo này. Hiện tại, tuy không có quốc gia nào đóng chiếm vùng đảo ấy nhưng chủ yếu vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Philippines. 0
    Bãi Cỏ Rồng (V)
    Royal Captain Shoal Jiangzhang Ansha (C) Vài mỏm đá nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Bao quanh một đầm nước. 0
    Sandy Shoal

    0
    Scarborough Shoal Huang Yen Tao (C) Vùng này không thực sự thuộc vào quần đảo Trường Sa. Nó nằm xa về phía bắc, khoảng 100 dặm (160km) tính từ Palauig, Zambales, của Philippines. Một ít mỏm đá cao đến 3 mét. Phần lớn của bãi đá ngầm nằm chìm gần mặt nước khi thủy triều dâng. Bao quanh một đầm nước. Gần cửa đầm là tàn tích của một tháp sắt, cao 8,3 m. Hiện nay, được chiếm đóng bởi hải quân Philippines, đánh cá được cho phép trong vùng. Nhiều ngư dân Trung quốc đã bị bắt giữ bởi hải quân Philippines vì sử dụng phương thức đánh cá trái phép và đánh bắt các loài sinh vật biển có nguy cơ tuyệt chủng. 0
    Seahorse Shoal

    0
    Templar Bank

    0
    Chủ quyền chưa chắc chắn
    Một số nguồn nói rằng đang do Việt Nam hoặc Trung Quốc chiếm giữ, nhưng đa số nguồn cho rằng chưa bị nước nào chiếm giữ.
    Tên quốc tế Tên địa phương Miêu tả Diện tích (ha.)
    Discovery Small Reef Xiaoxian Jiao (C) Chỉ nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Vài nơi cho rằng đảo thuộc về Việt Nam. 0
    Đá Nhỏ (V)
    Eldad Reef Beting Burgai (P) Chỉ vài mỏm đá lớn nhô tự nhiên trên mặt nước khi thủy triều dâng. Một phần của cồn Tizard. Vài nơi cho rằng đảo thuộc về Trung quốc và vài nơi nói thuộc về Việt Nam.
    0
    Anda Jiao (C)
    Loaita Cay Nanyao Shazhou (C) Một đụn cát, với vành đá ngầm nhô trên mặt nước khi thủy triều dâng. Đừng lẫn lộn với đảo Loaita (Loaita Island). Vài nơi cho rằng đảo thuộc Trung quốc. ??
    Bãi Loại Ta (V)
    Loaita Nan/ Loaita Southwest Reef Shuanghuang Shazhou (C) Chưa bao giờ nhô trên mặt nước. Vài nơi cho rằng đảo thuộc Trung quốc. 0
    Bãi Loại Ta Nam (V)
    North Reef Dongbei Jiao (C) Cuối hướng đông bắc của bãi đá ngầm North Danger (North Danger Reef). Nhô tự nhiên trên mặt nước khi thủy triều xuống. Một phần của bãi ngầm North Danger. Vài nơi cho rằng đảo thuộc về Trung quốc và vài nơi nói thuộc về Việt Nam. 0
    Owen Shoal Aoyuan Ansha (C) Chiều sâu tự nhiên chỗ cạn nhất là 6 mét. Vài nơi cho rằng đảo thuộc về Việt Nam. 0
    Prince of Wales Bank Guangya Tan (C) Chiều sâu tự nhiên chỗ cạn nhất là 7 mét. Có san hô. Vài nơi cho rằng đảo thuộc về Trung quốc và Vài nơi nói rằng đảo thuộc về Việt Nam. 0
    Bãi Phúc Tần (V)
    Chưa nước nào đóng quân
    Tên quốc tế Tên địa phương Miêu tả Diện tích (ha.)
    Alicia Anne Reef Arellano (P) Một đụn cát, cao 1,2 m. Nhiều mỏm đá nhô trên mặt nước khi thủy triều lên. 0
    Xian'e Jiao (C)
    Đá Suối Ngọc (V)
    Baker Reef Gongzhen Jiao (C) Nằm ngang với mặt nước khi thủy triều xuống. 0
    First Thomas Reef Xinyi Jiao (C) Vài mỏm đá thường trực nhô trên mặt nước biển. Phần lớn của bãi đá ngầm nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Bao quanh một đầm nước. 0
    Bãi Suối Ngà (V)
    Holiday Reef Changxian Jiao (C) Chỉ nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Một phần của cồn Union. 0
    Hopps Reef Lusha Jiao (C) Chỉ nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Một phần của Southampton Reefs. 0
    Đá Hop (V)
    Jackson Atoll Wufan(g) Jiao (C) Bốn hay năm phần nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Bao quanh một đầm nước. 0
    Livock Reef Sanjiao Jiao (C) Chỉ nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Vài mỏm đá vẫn còn thấy được khi thủy triều lên. Một phần của Southampton Reefs. 0
    Menzies Reef Mengzi Jiao (C) Nằm ngang mặt nước khi thủy triều xuống. Một phần của Loaita Bank. 0
    Đá Men Di (V)
    Sandy Cay/ Extension Reef Tiexian Jiao (C) Một đụn cát thấp; vành đá ngầm nhô trên mặt nước khi thủy triều lên. ??
    Tieshi Jiao Tieshi Jiao (C) Chỉ nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Nằm phía đông bắc của đảo Thitu (Thitu Island) và không được đặt tên trên hầu hết các bản đồ. 0
    Zhangxi Jiao Zhangxi Jiao (C) Bãi đá ngầm nhỏ, chỉ một phần nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Một phần của cồn Union. 0 Chỉ Trung Quốc (trong đó có Đài Loan) và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa. Các nước này thậm chí còn tuyên bố chủ quyền đối với những phần cách các nước khác như Philippines và Malaysia chỉ 50 km. Tuy nhiên, Philippines, Malaysia và Brunei chỉ tuyên bố chủ quyền đối với một phần quần đảo. Dưới đây là danh sách các đảo được các nước này tuyên bố chủ quyền nhưng không chiếm đóng (các nước hiện đang chiếm đóng ghi trong ngoặc):
    Philippines: Đảo Ba Bình (Đ), Đảo An Bang (V), Đảo Nam Yết (V), Đảo Sơn Ca (V), Đảo Sinh Tồn (V), Đảo Sinh Tồn Đông (V), Đảo Song Tử Tây (V), Đảo Trường Sa (V), Đá Tiên Nữ (V), Đá Nam (V), Bãi Kiêu Ngựa (M), Erica Reef (M), Bãi Thám Hiểm (M), Bãi Kỳ Vân (M), Đá Vành Khăn (T), Đá Su Bi (C) và tất cả các phần phía đông của kinh tuyến 116 (chưa bị chiếm đóng).
    Malaysia:
    Brunei: Bãi Vũng Mây (V), Louisa Reef (M) và Owen Shoal (không rõ)
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Quần_đảo_Trường_Sa
  8. mrking164

    mrking164 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/02/2010
    Đã được thích:
    2.163
    mịa, bác nói hay quá! =D>
  9. LenhHoXu

    LenhHoXu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/03/2010
    Đã được thích:
    0
    [:D]
    Em cũng đề nghị tẩy chay hàng Trung Quốc, hàng nào Việt Nam chưa làm được đề nghị các bác bên XNKnhập từ Châu Au về cho bà con xài.[:D]
  10. RoyalFlush

    RoyalFlush Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    25/05/2011
    Đã được thích:
    0
    Vua Quang trung và chiếc áo bào bí ẩn


    HỒ VĂN QUANG

    Hơn hai thế kỷ qua, nhiều sử gia, nhiều học giả đã từng tốn nhiều công sức trong việc nghiên cứu của mình, nhằm tìm hiểu đâu chính là sự thật về lần vĩnh biệt của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ vua Quang Trung, vị Ðại Ðế đã làm rạng rỡ cho cơ đồ Việt Nam! Chuyện tức tưởi bước vào cõi vĩnh hằng không phải chỉ dành riêng với cá nhân ông ta mà còn là sự uất ức chung cho cả dân tộc Việt Nam ta. Do đó, vấn đề bàn cãi đâu là nguyên do chính đáng nhất của nó vẫn còn bao trùm bởi chiếc màn dày đặc của sự bí mật. Nếu ai đó đưa ra cân trả lời để kết luận "Nhà vua chết vì bệnh." thì chúng ta khỏi nói thêm nữa... Hiện tại, người viết bài này chỉ biết kiểm nghiệm lại những gì có trong tài liệu sưu tầm được, để gọi là phần nào đó, ghi góp thêm cho cách giải đáp "thắc mắc" thôi.

    Chuyện "Chiếc áo ấm" mà Càn Long (vua Thanh) cẩn tặng vua Quang Trung để mặc lúc ngự hàn, là một nghi vấn nằm trong những nghi vấn khác mang tính: "khó tin nhưng có thật", vì chỉ có nó mới có thể nói lên cả một kế hoạch lâu dài của các nhà "lý số" Tàu dưới triều Càn Long quyết hại chết vua ta, để trừ mọi hậu hoạn nơi bờ cõi phương Nam của họ.

    Sách "Ngụy Tây Liệt Truyện" của bộ sử ký "Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện", quyển 30 trang 42, các sử quan triều Nguyễn ghi như sau:

    "...Một hôm về chiều, Quang Trung đang ngồi, bỗng xây xẩm tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt mắng rằng: Ông cha ngươi sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân của Chúa, Ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm?

    Rồi lấy gậy đánh vào trán, Quang Trung mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự, lâu lắm. Lúc tỉnh dậy nhà vua đem việc ấy nói với quan trung thư Trần Văn Kỷ. Từ đó bịnh chuyển nặng mới triệu quan trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó. Thương nghị chưa xong thì Thế Tổ ta đã lấy lại được Gia Ðịnh, chiếm Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, thanh thế chấn động.

    Quang Trung nghe được lo buồn, bịnh ngày càng kịch liệt..."

    Ðọc những trang sử này, chúng ta có thể hiểu được ý chính của các sử quan triều Nguyễn, họ muốn dựng lên một huyền thoại, nhằm thóa mạ vua Quang Trung. Dụng ý chính ở đây là để ghép tội, và chứng minh rằng vua Tây Sơn là người:

    * Vô đạo và tàn bạo
    * Tiếm đoạt thành Phú Xuân, xâm phạm lăng tẩm các Chúa Nguyễn nên bị tổ tiên các Chúa Nguyễn trừng phạt
    * Vì đang bệnh mà vua Quang Trung còn phải lo lắng thêm việc con cháu Chúa Nguyễn phục thù, đang chiến thắng tại nhiều nơi, lấn chiếm dần các phần đất phía Nam... và lãnh thổ Tây Sơn ngày một thu hẹp lại. Do đó, nhất định bệnh tình nhà vua ngày một nặng thêm, và rồi nhất định phải chết.

    Dầu có nói gì chăng nữa, họ cũng không thể che giấu hành vi trả thù, một sự trả thù dã man, tàn bạo đối với một triều đại từng làm cho họ xích bích xang bang, sống trong tan tác, cơ hồ như bị hủy diệt luôn. Cho nên khi chiến thắng rồi, họ quên bẵng thời điểm lịch sử 1792 (năm vua Quang Trung mất), tình thế chiến trường đem ra so sánh, binh đội phe Nguyễn Ánh chỉ là một nhóm người nhỏ lẻ tẻ, ô hợp, chưa đủ khả năng chống chọi với đại binh Tây Sơn.

    Sách "Ðại Nam Thực Lục Chính Biên", là bộ sách sử tuy được cả triều Nguyễn ca tụng, nhưng phần "Ðệ Nhất Kỷ" cũng phải ghi:

    "Tháng 3 năm Nhâm Tý (1792) nhân khi gió Nồm thổi, Nguyễn vương sai tướng là Nguyễn Văn Trương cùng Nguyễn Văn Thành đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại Tây Sơn ở của Thị Nại (Quy Nhơn) rồi rút lui về. Khi lui về Nam, Nguyễn Ánh có ý định chiếm Phan Rang, Phan Rí... nhưng cuối cùng Nguyễn Ánh thấy chống không nổi, phải cho rút quân về lại Gia Ðịnh".

    Như vậy, giai đoạn từ mùa hè 1792 trở về trước, Nguyễn Ánh đã không thể có mặt trên đất miền Trung, mà phải lo cố thủ Gia Ðịnh, có nghĩa là triều đại Tây Sơn vẫn còn cai quản phần đất từ Gia Ðịnh trở ra Bắc và chính lúc bình yên trên phần đất cai quản của mình như thế này, vua Quang Trung bị bệnh, rồi sau đó băng hà. Không giống như nội dung đoạn sử trên mô tả:

    * Về tính huyền thoại huyễn hoặc: bị ông tiên nào đó đánh cho một gậy để phải lâm bệnh
    * Về mặt thực tế cụ thể: như lo âu mất đất và bị thua trên chiến trường...

    Chính hai lý do này đã khiến vua Quang Trung buồn phiền, rồi bệnh nặng mà băng hà?

    Thực ra, từ năm 1787 trở đi, vua Quang Trung bận rộn rất nhiều về chuyện nội trị, phần khác cần đối phó loạn lạc tại Bắc Hà! Riêng phía Nam, cũng có chuyện cần cấp giải quyết, vì sự cai quản non kém của Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ, tạo điều kiện thuận lợi để Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Ðịnh. Và cũng nhờ vào sự bận rộn này mà bắt đầu từ năm 1787 cho đến năm 1792, Nguyễn Ánh mới có cơ hội chiếm lại rồi củng cố thành Gia Ðịnh. Mãi tới tháng 5 năm 1790, Nguyễn Ánh cho Lê Văn Câu (có sách ghi là Lê Văn Quân, một đại công thần, có thứ bậc trên cả Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành) đem quân ra đánh chiếm Bình Thuận. Chưa đầy một tháng sau đó, Tây Sơn phản công, quân lính Câu tan tác, phải cấp báo về Gia Ðịnh xin Nguyễn Ánh cho viện binh. Ánh không chấp thuận trong tình thế nguy cấp này, Nguyễn Văn Câu đành rút chạy về Phan Rí, quân binh Tây Sơn tiếp tục truy kích, Câu phải chạy thẳng về Gia Ðịnh...

    Trước một bại tướng từng sống chết với mình, Nguyễn Ánh không những không tìm cách che chở, bảo bọc, mà còn tỏ ra không thương tiếc, nhất định nghị tội, bãi chức... Quá uất ức, Câu đành uống thuốc độc, kết liễu đời mình. Thương thay cho một vị đại tướng tìm lầm chúa thờ!

    Trở lại cái chết của vua Quang Trung, chúng ta không nhìn nội dung trên ở khía cạnh mạ lỵ cá nhân, mà trên sự kiện nguyên do cái chết. Từ đó chúng ta cũng có thể kết luận họ đã xác nhận vua Quang Trung chết vì bệnh.

    Ðọc sử Việt Nam, có rất nhiều cách giải thích khác về cái chết của vị anh hùng dân tộc của chúng ta, nhưng không mấy hấp dẫn. Do đó, người viết phải tìm thấy thêm trong "Ðại Thanh Thực Lục" và "Ðông Hoa Toàn Lục" (Sử Trung Quốc) ghi rằng:"Năm Càn Long thứ 58 (vào tháng 1 năm 1793), Quách Thế Huân khấu báo lên Càn Long là An Nam quốc vương Quang Trung đã chết vì bệnh".Càn Long, hơi giật mình rồi như đang suy nghiệm một điều gì có thể đúng với dự tính trước đó của ông ta... Phải chăng, vua Thanh đã biết trước được một chuyện gì chăng về cái phải xảy ra với vua Quang Trung? Theo hắn ta phải sớm hơn... (vì khoảng sáu tháng sau ngày vua Quang Trung băng hà, Càn Long mới biết tin). Tại Bắc kinh, trước lúc đó, Vũ Văn Dũng được tin mật, vị trưởng đoàn sứ thần này xỉu đi... Khi tỉnh lại, liền gấp rút từ tạ vua Thanh mà trở về Phú Xuân ngay. Chính sự đau đớn này, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ (Tập san sử địa số 9, Sai Gòn 1968, trang 154):

    "Bố y phấn tích ngũ niên phong
    Mai cổ thi vi tự bất đồng
    Thiên vị Ngô Hoàng tăng nhất kỷ
    Bất ư Ðường, Tống thuyết anh hùng".

    Tạm dịch:

    Năm năm dựng nghiệp tự thân nông
    Thời trước thời sau có mấy ông?
    Có thương, trời cho mươi năm nữa,
    Anh hùng Ðường, Tống khó so công!

    Vua Quang Trung mất vào mùa Thu 1792, nửa năm sau Mãn Thanh mới biết, và cho người sang báo tang. Sự chậm trễ này không phải do Quách Thế Trung, mà chính do sự sắp đặt của hoàng triều Phú Xuân muốn làm vậy. Trong "Ðông Hoa Toàn Lục", quyển 117, trang 5s, đã ghi lại ý trách móc của Càn Long:

    "Quốc Vương Nguyễn Quang Bình đã mất ở Nghệ An vào tháng 9 năm ngoái. Vua Càn Long liền quở trách người đưa tin như thế là quá chậm, chắc bây giờ đã tống táng rồi".

    Sự việc rõ ràng bên trong có dụng ý riêng, vì không phải báo về cái chết của Nguyễn Quang Bình chậm, mà còn sai chỗ nữa (Phú Xuân chứ không phải Nghệ An). Mặt khác, Phú Xuân còn cho làm mộ giả của vua bên Hồ Tây để đón sứ thần Mãn Thanh sang phúng điếu. Sứ Thanh đến, muốn vào thăm Phú Xuân, triều thần Tây Sơn nhất định không cho, còn tìm mọi cách đánh lạc hướng như dẫn họ lên tận Sơn Tây, khi sứ Thanh phát hiện, triều thần Tây Sơn mới chịu dẫn họ trở lại, nhưng chỉ dừng ở Thăng Long mà thôi.

    Những việc nhà Thanh làm rất mâu thuẫn và bí mật, nhất là việc đòi phải vào đến tận Phú Xuân xem xét... Năm 1789, chính Thành Lâm không chịu vào Phú Xuân để phong vương cho vua Quang Trung (lần đầu sau khi Phạm Công Trị đóng vua Quang Trung giả), mà chỉ tại Thăng Long, viện lý do không được trái lệ thường (Các triều đại trước mỗi khi Trung Hoa cho sứ sang nước ta làm lễ phong vương, đều thực hiện tại Thăng Long theo qui lệ của các vua Trung Hoa), nhưng lần này lại đòi vào tận Phú Xuân để điếu tang. Tại sao triều thần Tây Sơn không cho Thành lâm vào Phú Xuân? Cũng như vua Quang Trung luôn cho người giả mình để tiếp xúc với nhà Thanh? Tất cả mọi nghi vấn như thế này chỉ có vua Quang Trung và các cận thần của ông ta mới biết! Ngày nay, chúng ta sao có thể suy đoán rằng: triều thần Tây sơn sợ các thầy địa lý Tàu ếm bùa ếm ngãi nơi mộ vua Quang Trung!(?). Giai đoạn xã hội lúc đó, chuyện xảy ra như thế này không phải là không có. Triều thần Tây Sơn làm sao lường trước chuyện rửa nhục "thất trận Xuân Kỷ Dậu"? (Vào cuối năm 1788, Tôn Sĩ Nghị ngày nào cũng cấp báo tin thắng trận, vua Càn Long vô cùng mừng rỡ, tiệc mừng được liên tiếp tổ chức, ba quân luôn được cất nhắc thăng thưởng (tăng thêm một tháng lương cho đội quân viễn chinh dùng để ăn tết trên xứ Nam). Chính Càn Long đã chọn ngày mồng 5 Tết làm ngày "Hội mừng công, bình định đương An Nam", các Ðại thần, các Ðại học sĩ, các Văn nhân, quan chức phải tề tựu về kinh đô (Bắc Kinh) cùng nhau xướng họa, bình phẩm, gọi là chúc mừng thọ nhân buổi đầu năm lên vua. Thực ra, đây là việc mừng chiến thắng bình định phương Nam. Nhưng, ngày mồng 5 đã làm họ ê chề đau đớn, vì họ không có thắng lợi, mà ngược lại đã bị vua Quang Trung xóa sổ 29 vạn quân xâm lược tinh nhuệ ngay trên đất Thăng Long! Tàn quân Thanh khi chạy về lại nước mình, chỉ còn vỏn vẹn 5.500 người mà đa số đều bị sứt tay gãy gọng! Thật đột ngột, thật bất ngờ, và cũng thật đau đớn nữa... Trước tin này, Càn Long vẫn bình tĩnh, ra lệnh chiêu an Tôn Sĩ Nghị, ghép tội cho Lê Chiêu Thống... Sự thật thế nào cũng phải phơi bày, nên về sau, Càn Long biết được lỗi lầm do Tôn Sĩ Nghị gây nên, mới xuống chiếu nghiêm trị, bãi chức họ Tôn, cho Phúc Khang An thay thế làm lưỡng Quảng Tổng Ðốc, cầm giữ 50 vạn quân để bảo vệ biên giới tiếp giáp với An Nam. Trước tình hình như thế này, vua Quang Trung nhất định không thể khinh xuất, đã phải cùng triều thần nghị bàn quyết định dùng ngoại giao để giải quyết cuộc chiến đầy thầm lặng này.

    Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 30, trang 36s, ghi lại bức thư của Thang Hùng Nghiệp (quan đạo Tả Giang) viết cho vua Quang Trung như sau:

    "Lê Duy Kỳ đã trốn ra khỏi nước, thiên triều không ủng hộ cho y làm vua nước Nam nữa. Vậy trong khi chưa có người đến gõ cửa quan xin thụ phong, thì "Người" nên đến sớm để được đặc ân...".

    Cơ hội hòa hoãn với Thanh triều coi như đã nắm chắc trong tay, vua Quang Trung liền cho đòi Ngô Thời Nhiệm vào chầu, giao cho nhiệm vụ thảo thư trả lời vua Thanh.

    Cũng trong sách này, quyển 30, trang 136b, 37a, có viết lại lời Phúc An Khang nói về tình hình sau vụ Xuân Kỷ Dậu:

    "...đã chính thấy mắt Nghị trơ trọi một mình chạy về. Sau đó, tai hại được nghe thanh thế của vua Quang Trung nên trong bụng không khỏi rụt rè, lo sợ... bèn nói nhỏ với viên thuộc quan rằng: Nam - Bắc thôi việc binh đao đó là phúc của sinh dân, mà là điều may mắn cho quân ở ngoài bờ cõi. Ta nghe nói viên quan coi việc giấy tờ của nước Nam tên là Ngô Thì Nhậm, bao nhiêu thư từ, từ trước đến nay đều do tay y mà ra. Vậy ngươi nên viết thư trả lời, bảo y chuyên tâm chủ trương việc giảng hòa, gấp rút viết tờ biểu tạ tội đưa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho, việc ấy thế nào cũng xong..."

    Vua Quang Trung xuống chỉ bảo Hồ Hổ hầu làm chính sứ sang Trung Hoa, trực tiếp gặp Thang Hùng Nghiệp. Nội dung tờ biểu đã nói lên được tính nhún nhường, kèm theo sự giải thích rõ ràng lý do phế bỏ Lê Chiêu Thống. Riêng việc va chạm với binh đội thiên triều, thì đây chẳng qua là cách đối xử quá vụng về của Tôn Sĩ Nghị mà thôi. Trong đoạn chót, nội dung thư, tỏ ra cứng rắn, không chịu lép vế, có đoạn rất đanh thép, mỉa mai, hăm dọa (Sách vừa dẫn cùng trang):

    "...Tôn Sĩ Nghị lấy địa vị đại thần ở biên cương, lại vì tiền hay vì gái mà đem tờ biểu chương của thần xé ném xuống đất, làm nhục sứ giả, ý muốn động binh dấy quân, không biết việc đó quả do Ðại Hoàng Ðế sai khiến hay do Tôn Sĩ Nghị? Thử hỏi vì một người đàn bà sai khiến mong lập công ở biên cương mà cầu lợi lớn có đáng mặt quân tử không?..."

    Trong phần cuối thư Ngô Thời Nhiệm còn nhấn mạnh:

    "...nay đường đường là triều đình thiên tử, lại đi so hơn thua với một nước rợ nhỏ, ắt là muốn cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham lam tàn bạo, thì chắc lòng dạ của Thánh Thượng cũng không nhẫn. Còn nếu như cứ chiến tranh kéo dài, tính thế đến nỗi nào thì thật không phải do thần muốn, mà thần cũng không dám nói trước rồi tình thế sẽ đi đến đâu..."

    Ðọc xong thơ, Thang Hùng Nghiệp run sợ, nhưng vẫn cố giữ thái độ thật ôn hòa, bình tĩnh nói với Hồ Hổ hầu rằng:

    "...nay không phải là lúc hai nước đánh nhau, sao lại hành sự toàn một giọng giận dữ? Nói như thế là để cần phong vương hay muốn gây rối can qua chăng?..."

    Ðối với chuyện này, Thang Hùng Nghiệp thật dở khóc dở cười, không biết phải làm thế nào, thủ tiêu ngay lá thơ thì không dám mà trình lên Càn Long thì lại càng không dám hơn. Sự việc mà đổ bể, Thang Hùng Nghiệp sẽ mất hết lòng tin của Càn Long đối với Y. Do vậy, từ đó về sau, mọi giao thiệp với Ðại Nam đều về một tay Phúc Khang An bưng bít lo liệu.

    Chuyện ngoai giao giữa hai nước kể từ đó mỗi ngày một mật thiết hơn. Tháng 11 năm 1789, khi đọc tờ biểu của Tôn Vĩnh Thanh, nói về kết quả công việc Thành Lâm sang Thăng Long phong vương cho Nguyễn Quang Bình, Càn Long chỉ thị ngay cho Tôn Vĩnh Thanh (Ðại Thanh Thực Lục, quyển 1342, trang 17a):

    "Trẫm xét Thành Lâm sang Thăng Long tuyên phong, tất chắc mục kích được quốc vương và phong thổ nước ấy, Trẫm muốn đích thân xét hỏi viên quan ấy sẽ được rõ ràng hơn là lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh, phải cho ngay Thành Lâm tiến kinh, để Trẫm hỏi..."

    Sứ Thanh - Thành Lâm, trong chuyến sang nước Nam phong vương, vua Càn Long có gởi tặng vua Quang Trung một chiếc áo choàng màu, trên đó thêu 7 chữ:

    "Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử"

    Và kèm theo một bài thơ trong đó có câu:

    "Phát Dị Nam Bang Y Dữ Quan" (Mũ áo không khác gì người nước Nam).

    Lúc đó không ai có thể hiểu được nội dung "7 đại tự" thêu trong chiếc áo, mang ý gì... Năm 1792, sau khi vua Quang Trung băng hà, Càn Long lại làm thêm một bài thơ khác nhắc lại, ở câu thứ 7 với 7 chữ:

    "Thất Tự Bất Năng Bãi Ai Thuật"

    (ý nói: 7 chữ không dứt được niềm xót xa của Trẫm)

    Và câu:"Trung Thu Thượng Ức Y Quan Túc"

    (Trong mùa Thu trước Trẫm nhớ Quốc vương đã có áo mão đoan trang), và thêm câu:

    "Hoài Nghi Kham Tiếu Ðại Kim Nhân"

    (Hoài nghi và đáng cười việc triều trước bắt phải làm việc cống người vàng để thay thế).

    Cái ái ngại và lo lắng nhất khi vua Quang Trung còn tại vị, là Càn Long vẫn cứ đòi gặp cho bằng được con người bằng xương bằng thịt của Nguyễn Quang Bình? Chuyện bí mật vẫn chưa ai có thể khám phá ra vua Thanh có hàm ý gì trong "chiếc áo tặng"? Nội dung lời thơ? Tại sao "7 chữ" đó lại không nói hết được nỗi xót xa?... Tặng "chiếc áo" chắc có lý do "đặc biệt" bên trong, nên Càn Long mới nhắc đi nhắc lại mãi?... Phải chăng triều Minh đòi vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) cống "người vàng", thì triều Thanh đòi vua Quang Trung cống "người thật"? Vua Càn Long cho vẽ truyền thần Quang Trung (Phạm Công Trị 1790) có mưu mô gì? Có thể Càn Long đã biết người được vẽ hình không phải là Quang Trung thật? Ngược lại, Quang Trung giả xin một bức chân dung của Càn Long thì lại không được?... (bài biểu của sứ đoàn nước Nam nộp cho Phúc Khang An để trình lên Càn Long: "Nay hạ thần muốn xin một bức chân dung của Hoàng Ðế để mang về nước, kính cẩn cung phụng ở điện Kính Thiên").

    Trên thực tế, Mãn Thanh, không hề đặt điều kiện tiền bạc cho sự bang giao giữa 2 nước. Không những bãi bỏ lệ cống người vàng mà còn chịu chi phí rộng rãi, nồng hậu mọi khoản tiếp đón cho cả đoàn sứ thần nước Nam cả chuyến đi lẫn chuyến về. Nhất định không thể sai lầm khi có nhận định rằng ở đằng sau bộ mặt dễ thương đầy vẻ hiếu hòa kia, sẽ có một âm mưu gì thật đáng sợ? Trả thù? Càn Long đang ráo riết thi hành một kế hoạch, và chưa có cơ hội bộc lộ ra bên ngoài?...

    Mùa Thu 1792, vua Quang Trung băng hà, triều thần Tây Sơn mới có thể khám phá ra được ý nghĩa của "7 đại tự" kim tuyến thêu trong "chiếc áo" tai ác kia!Theo cách chiết tự và diễn nghĩa từ 7 chữ "Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử" đã có ý nói rõ: Nguyễn Huệ chết vào năm Tý. Vì chữ "Xa" và chữ "Tâm" đem ghép lại là chữ "Huệ"; "Chiết Trục" là gẫy trục; "Thử" là chuột mà chuột là "Tý", hay năm Tý... Như thế, phải chăng từ năm 1790 trở về trước, Càn Long đã đoán được số mạng của vua Quang Trung sẽ mất vào năm Tý? Chúng ta có thể đưa ra hai cách suy nghĩ để lý giải lập luận này:

    1).- Càn Long là một vị vua giỏi nhất, thông minh nhất của Thanh Triều, như thế về thuật số, bấm độn, tính quẻ, ông ta không thể không tinh thông.

    2).- Chính Càn Long là người có âm mưu và dự mưu giết cá nhân vua Quang Trung từ lâu, và đã dùng thuật số ếm vào chiếc áo bào, hay gài độc vào 7 đại tự kim tuyến để vua Quang Trung khi mặc vào sẽ bị chất độc khuếch tán từ từ.

    Cho đến hôm nay, đối với việc ra đi của vua Quang Trung vẫn còn là chuyện bí mật, chưa một ai có thể giải đáp được những câu hỏi: "Tại sao nhà vua lại chết vào lúc tuổi đời đang sung mãn (đang đi vào độ tuổi 40), công danh, thắng lợi cứ dồn dập ập đến? Nhà vua đã chết vì bệnh? Hay chết vì bị đầu độc, bị ếm bùa ngãi của Càn Long? Và cũng có thể chết vì bức chân dung của Phạm Công Trị vẽ bằng một loại mực có pha hóa chất cực độc cộng thêm việc dùng bùa chú ếm vào chân dung đó? Hay chết vì những hoạt động tình báo của đối phương? (kẻ thù gài điệp viên vào cạnh bệ rồng? Cũng có thể là sự trả thù của con cháu nhà Lê? Của Nguyễn Ánh? Và cũng có thể là do đoàn sứ bộ của Thành Lâm (Thành Lâm là một người rất giỏi thuật số hồi ấy)? Sau cùng cũng có thể là sự ám hại từ phía Nguyễn Nhạc?..." Tất cả những câu hỏi trên đều phát xuất từ các giả thuyết của một vấn đề: "Cái chết của vua Quang Trung". Rốt cuộc, những nhà nghiên cứu chỉ có thể kết luận:

    "Ông ta chết vì bệnh"!

    Thật đơn giản, bị bệnh mà không chữa trị đúng cách, dĩ nhiên chỉ có chết! Không thể có một ai bài bác nổi lập luận này!

    Tình hình chính trị xã hội ở giai đoạn cuối thế kỷ 18 của nước ta thật quá nhiều biến động. Sự xôn xao không những xảy ra ngay trong cung đình mà ngay cả trong dân gian... Bởi vậy theo sau một vấn đề chính thường được gài thêm những chuyện phụ, nhằm tô vẽ cho sự phát triển giáo phái "Thần quyền" của những kẻ lãnh đạo phong kiến...

    Làm sao ngày nay chúng ta không thể không hoài nghi về các tài liệu để lại? Cũng cùng trong một thời gian lịch sử, lại mang nội dung trái ngược nhau?

    Chúng ta có thể tin tưởng ngày chết của một người phải đúng vào ngày giỗ hàng năm do con cháu dựng ra để tưởng niệm. Nhưng, cũng có thể vì một lý do an nguy nào đó, mà con cháu nhất định chọn ngày khác, trùng với ngày qui tiên của người trưởng tộc của họ? Ðây cũng là cách giải quyết mang tính tục lệ của người Việt Nam chúng ta. Ngày vĩnh biệt của vua Quang Trung có thể rơi vào tình trạng này lắm...

    Trong phạm vi bài báo, chúng tôi không thể viết hết mọi chi tiết về chiếc "Hoàng Bào" của vua Quang Trung (do vua Càn Long tặng) được, xin độc giả tìm đọc thêm trong sách "Trí Thức Việt Nam Cuối Thế Kỷ 18" do tôi tự xuất bản.

    HỒ VĂN QUANG
    Ðặc san QUANG TRUNG Xuân Canh Thìn 2000
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này