‎25 năm hải chiến Trường Sa

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi thangbomchoick, 15/03/2013.

6276 người đang online, trong đó có 761 thành viên. 12:45 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 4128 lượt đọc và 41 bài trả lời
  1. C_O_L_D

    C_O_L_D Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/04/2010
    Đã được thích:
    48
    còn hải chiến Hoàng Sa nữa, đó cũng là trận chiến bảo vệ tổ quốc của con dân Đại Việt, một trận chiến đáng để tổ quốc ghi công những người con ngã xuống. Giá như còn Bác, còn a Ba Duẩn thì thái độ đối với bọn giặc tàu có lẽ đã khác.
  2. thangbomchoick

    thangbomchoick Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/08/2011
    Đã được thích:
    1
    “Vòng tròn bất tử” trên bãi Gạc Ma
    QUỐC VIỆT | 09/03/2013 09:22 (GMT + 7)

    TT - ... Gạc Ma, sáng 14-3-1988. Một vòng tròn bất tử. Những loạt đạn chát chúa. Những lưỡi lê sắc lạnh. Nhiều chiến sĩ VN ngã xuống. Nhưng người khác vẫn ào lên giữ vững ngọn cờ.

    [​IMG]
    Ảnh chụp con tàu HQ-604 ngày 10-3-1988. Bốn ngày sau, tàu bị bắn chìm tại vùng biển Gạc Ma - Ảnh tư liệu Lữ đoàn 125

    [​IMG]
    Vùng biển Cô Lin - Gạc Ma - Len Đao và vị trí các tàu hải quân VN, trước khi xảy ra cuộc tấn công xâm chiếm Gạc Ma của quân TQ​

    Bãi san hô dậy sóng... 25 năm đã trôi qua, nhưng người chiến sĩ hải quân Nguyễn Văn Lanh anh hùng năm xưa vẫn không thể nào quên được buổi sáng đặc biệt này - buổi sáng mà anh và đồng đội đã quyết tử lao vào cuộc chiến không cân sức để thực thi chiến dịch CQ 88, chiến dịch bảo vệ chủ quyền biển đảo VN.

    Nhiệm vụ trong đêm

    Những ngày trước sáng 14-3-1988, các tàu HQ-505, HQ- 604, HQ-605 của Lữ đoàn 125 phối hợp với Lữ đoàn 146 và công binh E83 được lệnh hành quân khẩn cấp về nhóm đảo chìm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao trước sự lăm le chiếm đóng bất hợp pháp của hải quân Trung Quốc (TQ). Người chiến sĩ hải quân trẻ Nguyễn Văn Lanh lúc ấy có mặt trên chiếc tàu HQ-604 do đại úy Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng cùng với lữ đoàn phó 146 Trần Đức Thông.

    Rưng rưng xem lại những đoạn phim, những kỷ vật đẫm máu đồng đội, anh Nguyễn Văn Lanh nhớ lại: chiều tối 13 thì tàu HQ-604 đến vùng biển Gạc Ma (còn tàu HQ-505 có mặt ở Cô Lin, tàu HQ-605 thẳng tiến Len Đao). Khi tàu HQ-604 thả neo, nhiều chiến sĩ công binh trẻ măng vẫn còn say sóng, chưa kịp ăn thứ gì thì lữ đoàn phó Trần Đức Thông và thuyền trưởng Vũ Phi Trừ đã kêu gọi anh em bắt tay khẩn cấp vào nhiệm vụ giữ đảo.

    Đêm 13-3, gió mùa đông bắc thổi mạnh, mây mù che kín bầu trời làm mặt biển tối đen như mực. Anh Lanh cùng các đồng đội hạ xuồng vận chuyển vật liệu xây dựng lên đảo chìm Gạc Ma. Còn việc bảo vệ lá cờ đỏ sao vàng, khẳng định chủ quyền VN do tổ của thiếu úy Trần Văn Phương đảm nhiệm. Họ phải dùng xà beng đục xuống rạn san hô Gạc Ma để cắm vững thân cờ Tổ quốc. Trên đảo Cô Lin cách đó không xa, cờ chủ quyền cũng phần phật tung bay ở cả hai đầu đảo. Trung tá Trần Đức Thông yêu cầu cán bộ, chiến sĩ cứ tập trung nhiệm vụ, mặc kệ tàu chiến TQ đang lảng vảng quanh đó.

    Rạng sáng hôm sau, tức ngày 14-3-1988, khi mọi người chưa kịp dùng bữa sáng thì các tàu chiến TQ áp sát. Đó là các biên đội tàu chiến thật sự với hỏa lực mạnh, trong khi các tàu VN chỉ là loại hải vận để chở binh sĩ, vật liệu xây dựng, lương thực tiếp tế cho các đảo chứ không phải tàu chiến. Đặc biệt, đa số chiến sĩ trên tàu VN là công binh làm nhiệm vụ xây dựng đảo chứ không phải lính chiến đấu. Trước tình hình không cân sức này, các thuyền trưởng Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ, Lê Lệnh Sơn và lữ đoàn phó Trần Đức Thông truyền đạt mệnh lệnh: kiên cường giữ vững nhiệm vụ, tất cả sẵn sàng chiến đấu để giữ vững chủ quyền.

    Tình hình càng lúc càng diễn biến căng thẳng hơn. Tại bãi Gạc Ma, thủy triều buổi sáng đã dâng cao hơn, nhưng nhóm bảo vệ ngọn cờ chủ quyền của thiếu úy Trần Văn Phương vẫn kiên cường trụ vững trên bãi san hô.

    Rồi chuyện gì đến đã đến: quân TQ đổ bộ xâm chiếm đảo...

    Gần 6 giờ sáng, tàu chiến TQ bắt đầu cho xuồng nhỏ áp sát rạn san hô Gạc Ma. Một lát sau, các xuồng khác lại tiếp tục được thả xuống với lính hải chiến TQ nai nịt đầy đủ vũ khí để đổ bộ.

    Vòng tròn bất tử

    Sau khi bắn cháy tàu HQ-604, tàu chiến Trung Quốc bắt đầu dồn dập nhả đạn vào tàu HQ-505. Bị trúng đạn pháo của đối phương, một phần tàu bốc cháy. Trong khoảnh khắc một mất một còn, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ quyết định cho tàu HQ-505 lao thẳng lên rạn san hô Cô Lin. Tàu gối một nửa thân trước lên cạn, nửa sau nằm dưới nước. Con tàu biến thành công sự không thể chìm và những người lính quyết tử để bảo vệ ngọn cờ chủ quyền.

    Các tàu chiến Trung Quốc sau khi bắn chìm tàu HQ-604 ở Gạc Ma liền kéo sang tấn công tàu HQ-605. Những loạt pháo hạng nặng 100 li dồn dập nhả vào con tàu vận tải không hề trang bị hỏa lực hải chiến. Tàu HQ-605 bốc cháy dữ dội. Thuyền trưởng Sơn ra lệnh cho mọi người rời tàu.


    Trước tình thế đó, trên bãi san hô Gạc Ma, các chiến sĩ VN đã quây thành vòng tròn bảo vệ ngọn cờ Tổ quốc (mà sau này nhiều người vẫn gọi vòng tròn ấy bằng cụm từ thiêng liêng: vòng tròn bất tử). Nhưng lúc ấy, ngoài nhóm nhỏ lính hải quân chiến đấu thuộc Lữ đoàn 146 của thiếu úy Phương, đa số là công binh chỉ có cuốc, xẻng, xà beng trong tay. Lúc này anh Lanh vừa mới quay lại tàu lấy thêm vật liệu xây dựng để đưa xuống đảo thì trung tá Trần Đức Thông kêu gọi tất cả mọi người còn trên tàu HQ-604 biết bơi hãy nhảy hết xuống biển, tiếp ứng cho anh em trên bãi san hô. Anh Lanh ra mạn boong hướng về đảo, nhảy xuống biển cùng nhiều chiến sĩ khác, nhanh chóng bơi vào vùng đồng đội sắp bị tấn công.

    Trước mắt anh Lanh, cuộc đụng độ không cân sức bắt đầu bùng nổ. Lính TQ đổ bộ dày đặc lên đảo với AK sáng quắc lưỡi lê cố tràn vào vòng tròn chiến sĩ VN. Lính TQ cố giật và hạ cờ VN. Còn chiến sĩ VN trên tay chủ yếu chỉ có xà beng, cuốc xẻng, vật liệu xây dựng vẫn quyết tử giữ bằng được lá cờ. Mấy lần lính TQ cố tràn vào đều bị bật ra. Đến khi chúng nhả đạn mới áp sát được vào chỗ thiếu úy Phương đang giữ chặt ngọn cờ. Anh Lanh lúc này cũng đã lao vào sát cánh cùng đồng đội Phương. Hai bên giành giật ngọn cờ. Bất ngờ lính TQ nổ súng thẳng vào đầu thiếu úy Phương. Anh ngã xuống nhưng vẫn ôm chặt lá cờ loang máu.

    Trung sĩ Nguyễn Văn Lanh (sau được phong Anh hùng lực lượng vũ trang) kể tiếp: “Sau khi anh Phương bị bắn, lính TQ định cướp lá cờ nhưng tôi giằng lại được. Một tay tôi cầm cờ, một tay cầm xà beng đánh lại...”. Thấy khó hạ gục được người lính công binh VN kiên cường, lính TQ đã đâm anh từ phía sau rồi cuối cùng bắn thẳng vào anh bằng AK.

    Trên toàn rạn san hô Gạc Ma, trận chiến lúc ấy đã bùng nổ dữ dội. Lính đổ bộ TQ lùi ra xa để đại liên, pháo 37 li từ tàu chiến của chúng bắn thẳng vào các chiến sĩ VN vẫn đang quyết tử bám trụ giữ đảo. Trên tàu HQ-604, trận chiến cũng diễn ra bi tráng. Anh Mai Văn Hải, công binh E83, có mặt trên tàu lúc đó, nhớ trước khi đổ bộ giáp trận trên đảo, các tàu chiến TQ đã lùi ra đề phòng các súng nhỏ như AK, B40, B41 của tàu VN. Sau đó, chúng mới lợi dụng ưu thế hỏa lực tầm xa mạnh như pháo 100 ly, 37 li bắn dồn dập vào tàu HQ-604.

    Loạt đạn đầu tiên của tàu TQ bắn trúng phòng báo vụ tàu HQ-604. Trước mắt Hải, thuyền trưởng Vũ Phi Trừ lao xuống phòng động cơ, định cho máy tàu nổ để ủi lên bãi san hô Gạc Ma. Nhưng ngay lúc đó phòng máy bị trúng đạn bốc cháy, không còn thấy bóng anh ngược ra. Tàu cũng không còn khả năng lao lên bãi. Anh Hải ngược lên phòng điện trên mặt boong, gặp trung tá Trần Đức Thông và đại úy Phòng. Nhưng cũng đúng khoảnh khắc ấy, từng tràng đại liên từ phía TQ bắn thẳng vào. Lữ đoàn phó Trần Đức Thông trúng đạn vào đầu gục xuống. Đại úy Phòng cũng hi sinh.

    Tàu HQ-604 mất dần dưới mặt biển, mang theo nhiều chiến sĩ và thuyền trưởng Vũ Phi Trừ, lữ đoàn phó Trần Đức Thông!

    _______________

    Kỳ tới: Khi tiếng súng lặng im
  3. AMG19

    AMG19 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/07/2011
    Đã được thích:
    0
    Căm thù bọn dog Khựa, căm thù bọn bán nước hèn hạ...
  4. tocgiahanquoc

    tocgiahanquoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/10/2011
    Đã được thích:
    1
    Khác chỗ nào trời...Đánh Pháp, Đánh Mỹ...là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc...cho Quốc tế CS chứ đâu có cho dân tộc VN.

    Theo lẽ nếu còn VNCH thì bây giờ VN đã là Hàn Quốc, Nhật rồi.
  5. thangbomchoick

    thangbomchoick Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/08/2011
    Đã được thích:
    1
    Khi tiếng súng lặng im
    QUỐC VIỆT | 10/03/2013 08:06 (GMT + 7)

    TT - Thuyền phó Doan bị bỏng nặng vì pháo, cả người cháy đen, tóc sém hết, bốc mùi khét lẹt. Mặt anh cũng thủng lỗ chỗ, đầm đìa máu bởi mảnh đạn. Vậy mà anh vẫn tỉnh, tỉnh đến kỳ lạ. Được đồng đội dìu dưới biển, anh vẫn thoi thóp nhìn mãi về phía ngọn cờ Tổ quốc, mấp máy môi như nhắn nhủ anh em phải giữ vững bằng mọi giá...

    [​IMG]
    Không ảnh chụp tàu HQ-505 sau khi lao lên ủi bãi san hô Cô Lin. Tàu bị cháy phía sau và cột khói cao vẫn bốc lên. Nhưng HQ-505 anh hùng đã biến thành công sự không chìm, với lá cờ Việt Nam tung bay trên bãi san hô Cô Lin Ảnh: My Lăng...​

    25 năm đã trôi qua, người lính hải quân Trường Sa Hoàng Văn Nam thuở ấy vẫn ứa nước mắt nhớ mãi hình ảnh kiên cường của đồng đội. Tàu hải vận HQ-605 làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ở đảo chìm Len Đao bị bắn cháy sau 8g sáng 14-3-1988. Mọi người phải rời tàu, nhảy xuống biển, nhưng vẫn dìu nhau trụ lại vùng biển Len Đao dưới làn mưa đạn pháo cho đến lúc chiến hạm Trung Quốc rời trận địa quay sang bãi Gạc Ma.

    Mỗi người lính là ngọn cờ

    Chiến sĩ Lê Viết Thảo, lữ đoàn 146, có mặt tại bãi Gạc Ma sáng 14-3, xúc động nhớ: Sau khi tàu Trung Quốc nổ súng, nhiều chiến sĩ hi sinh và thương vong. Trong đó có Hoàng Hải và Nguyễn Văn Lanh bị thương nặng. Anh Thảo cùng anh em cởi áo nhét vết thủng trên xuồng công binh, đặt người bị thương cùng thi thể anh Trần Văn Phương lên và bơi về đảo Cô Lin, nơi còn tàu HQ-505. Đêm đó, Thảo cùng một chiến sĩ tên Chúc được giao nhiệm vụ canh giữ thi thể anh hùng Trần Văn Phương trên đảo Sinh Tồn. Thấy tay anh Phương đeo nhẫn cưới, Thảo bàn với đồng đội tháo chiếc nhẫn mang về đất liền. “Chiếc nhẫn này sau đó được chúng tôi giao cho anh Trường lính hải đồ, nhờ đưa về trao lại cho vợ đồng chí Phương tại Quảng Bình”.

    (QUỐC NAM)

    Nhớ lại quyết định rời tàu, thuyền trưởng HQ-605 Lê Lệnh Sơn kể: “Nếu ở lại tàu thì tất cả sẽ hi sinh hết. Chủ quyền cũng chưa chắc giữ được. Tôi cho anh em nhảy xuống biển, vì tin rằng mỗi người lính lúc ấy sẽ trở thành nhân chứng, thành ngọn cờ bằng xương máu giữ chủ quyền Tổ quốc!”.

    Kiên cường trụ lại Len Đao cho đến khi tàu chiến Trung Quốc rời đi, các chiến sĩ tàu HQ-605 mới bơi tập trung lại với nhau, hướng về đảo Sinh Tồn. Anh Nam tìm thấy thuyền phó Doan bị thương rất nặng, mọi người phải kẹp phao cho đầu anh nổi khỏi mặt nước biển.

    Gần trưa, chiếc thuyền nhỏ của tổ chiến sĩ lên bảo vệ cờ tìm vớt đồng đội lên. 17 người, kể cả số bị thương. Anh Nam xúc động nhớ họ phát hiện thiếu một đồng đội nhưng không thể tìm thấy dưới biển. Có lẽ anh đã hi sinh và nằm lại trên con tàu đang bốc cháy rừng rực. Đại úy Sơn ra lệnh chiến sĩ chèo tay, hướng mũi xuồng về đảo Sinh Tồn. Trên xuồng có nhiều thương binh bị bỏng, bị mảnh đạn găm vào mình, gãy chân... Nam phải kìm nước mắt, ngồi đỡ thuyền phó Doan để anh dễ thở. 15g, về gần đến Sinh Tồn thì thuyền phó Doan trút hơi thở cuối cùng.

    Trong lúc đó tình hình bãi Gạc Ma cũng rất căng thẳng. Mặc dù tàu chiến Trung Quốc ngừng nổ súng nhưng vẫn trơ lì ở lại vùng biển chủ quyền Việt Nam. Còn các chiến sĩ hải quân Việt Nam, người sống, người bị thương, người hi sinh đang nổi chìm dưới vùng nước loang máu.

    Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ tàu HQ-505 rưng rưng kể: “Sau khi tàu lên được bãi Cô Lin, tôi lệnh cho nhóm chiến sĩ ở lại tàu sẵn sàng tiếp tục chiến đấu, còn một nhóm tìm cách cứu hộ đồng đội ở Gạc Ma sau khi tàu HQ-604 đã chìm. Công việc nhân đạo nhưng rất căng thẳng dưới họng súng đối phương”. Thuyền trưởng Lễ nhớ chi tiết khi thuyền cứu hộ nhỏ của tàu HQ-505 vào vùng biển Gạc Ma, tàu chiến Trung Quốc dọa bắn cả những người tay không đi làm nhiệm vụ cứu hộ, cứu thương. Nhưng họ vẫn quyết tâm tiến vào vì ở đó còn đồng đội mình.

    Trung tá Phạm Văn Hưng, tàu HQ-505, có mặt trên xuồng cứu hộ, ngậm ngùi nhớ họ phải nén khóc khi chứng kiến vùng biển Gạc Ma sau vụ thảm sát tàn bạo. Chỉ trong một buổi ngày 14-3, trên vùng biển Gạc Ma - Cô Lin - Len Đao này, 64 chiến sĩ, công binh hải quân VN đã dũng cảm hi sinh vì Tổ quốc.

    Giữ vững chủ quyền

    Sau khi chuyển các liệt sĩ và thương binh lên đảo Sinh Tồn, thuyền trưởng Lễ liên lạc về sở chỉ huy trong đất liền. Ông báo rõ tình hình Cô Lin rằng: “Cờ Tổ quốc vẫn còn, tàu vẫn còn và người vẫn còn, quyết tâm xin được ở lại để bảo vệ tàu và bảo vệ chủ quyền đảo của đất nước. Nếu cần phải hi sinh vì Tổ quốc sẽ sẵn sàng hi sinh đến người cuối cùng”. Đề nghị này được cấp trên chấp thuận. Chiều tối 14, thuyền trưởng Lễ và một số cán bộ, chiến sĩ đi thuyền máy qua đảo Sinh Tồn, viếng các liệt sĩ và thăm hỏi thương binh, rồi quay trở lại ngay tàu 505 vẫn đang nằm cùng ngọn cờ trên đảo Cô Lin.

    Một cuộc họp được khiển khai gấp rút ngay trong đêm. Thuyền trưởng Lễ xúc động nói với đồng đội rằng ông sẽ ở lại bảo vệ con tàu này và ngọn cờ chủ quyền trên đảo Cô Lin. Ông đề nghị chín người tình nguyện xung phong ở lại cùng với ông để lập thành tiểu đội chiến đấu bảo vệ tàu. Rất nhiều cánh tay giơ cao trong cuộc họp. Thuyền trưởng Lễ trân trọng tinh thần quyết tử cho Tổ quốc của đồng đội và chọn chín người ở lại tàu cùng mình. Trong đó có thuyền phó Nguyễn Huy Cường, Thạc, Biên, Thanh, Xuyên... đến từ các miền quê Nghệ An, Hà Tĩnh, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng.

    “Nhiều đêm tôi vẫn nằm mơ khoảnh khắc chia tay đầy xúc động này. Người về, người ở lại đều nghẹn ngào. Chiến sĩ trẻ khóc thành tiếng. Đại úy, chính trị viên Võ Tá Du gạt nước mắt dẫn nhóm anh em về và nhắn nhủ với những người ở lại: “Anh em ở lại quyết tâm bảo vệ tàu, bảo vệ đảo Tổ quốc. Chúng tôi hứa về đất liền sẽ kể lại toàn bộ cuộc hải chiến này và tinh thần quyết tử cho Tổ quốc của anh em...”.

    Đến lúc xuồng máy đã hạ xuống để chuyển người lên tàu khác về đất liền, nhiều chiến sĩ vẫn xúc động không nỡ chia tay, cứ xin được ở lại cùng con tàu. Thuyền trưởng Lễ phải nén cảm xúc, kiên quyết tiễn anh em. Ông hiểu rất rõ điều gì đang chờ đợi đội mười người ở lại với tàu ở đảo Cô Lin trong thời điểm nóng bỏng trên vùng biển này. Cả con tàu lúc ấy chỉ còn là một lô cốt sắt nằm bất động trên bãi san hô. Mười người ở lại đều sôi sục tinh thần yêu nước và sẵn sàng quyết tử chiến đấu bảo vệ chủ quyền Tổ quốc.

    Đội bảo vệ đảo Cô Lin do thuyền trưởng Lễ chỉ huy đã phân thành năm tổ sẵn sàng chiến đấu chống trả lại đối phương xâm lược đảo. Thuyền trưởng Lễ nhớ những đêm anh em không ngủ được, nằm bên nhau trên boong tàu. Ông tâm sự với chiến sĩ: “Mười anh em sống chết có nhau, phải giữ bằng được tàu, bằng được cờ và chủ quyền Tổ quốc”. Họ rưng rưng trả lời: “Chúng tôi quyết tâm bảo vệ tàu, bảo vệ đảo đến người cuối cùng. Có phải hi sinh thì sẽ cùng hi sinh với nhau!”.

    QUỐC VIỆT

    -----------------------------------------------------

    Kỳ tới: Lá thư không người nhận

    Ngày 20-3-1988, một cô gái ở quê nhớ cha - người đang thực hiện nhiệm vụ CQ-88. Lá thư đến căn cứ hải quân Cam Ranh và mãi mãi không có người nhận. Cha cô đã anh dũng hi sinh cùng tàu HQ-604
  6. tocgiahanquoc

    tocgiahanquoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/10/2011
    Đã được thích:
    1
    [};-[};-[};-
  7. thangbomchoick

    thangbomchoick Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/08/2011
    Đã được thích:
    1
    Lá thư không người nhận
    MY LĂNG | 11/03/2013 09:35 (GMT + 7)

    TT - Đó là một lá thư đã ố màu, cũ kỹ, nằm lọt thỏm trong rất nhiều hình ảnh, kỷ vật liên quan đến sự kiện ngày 14-3-1988 trong phòng trưng bày của Bảo tàng Hải quân VN (Hải Phòng).

    [​IMG]
    [​IMG]

    [​IMG]
    Chân dung anh hùng liệt sĩ Trần Đức Thông - Ảnh tư liệu (M.L. chụp lại)​

    Trên bì thư viết: Con: Thu Hà/Trạm cung ứng than thị xã Phủ Lý - Hà Nam Ninh/Tới thăm Bố: Trần Đức Thông hòm thư 2C100A Cam Ranh - Phú Khánh. Dòng đầu tiên trong lá thư viết: Phủ Lý ngày 20-3-88. Tức bảy ngày sau khi xảy ra sự kiện 14-3-1988!

    25 năm

    Ngày 8-3-2013 (tức 27 tháng giêng), khi chúng tôi tìm đến nhà của Anh hùng liệt sĩ (AHLS) Trần Đức Thông ở thôn Cộng Hòa (xã Minh Hòa, huyện Hưng Hà, Thái Bình), cả đại gia đình, bà con họ hàng, làng xóm đang quây quần rất đông chuẩn bị làm lễ cúng.

    Hiệu trưởng Trường THCS Trần Đức Thông và các học sinh, các ông bà già, cả thanh niên nam nữ trong thôn, trong xã gần đó... đã có mặt tại nhà tưởng niệm AHLS Trần Đức Thông từ rất sớm, thắp nhang, phụ gia đình nấu nướng, ngồi trò chuyện với những người thân trong gia đình người AHLS.

    Năm 2009, Bộ Tư lệnh Quân chủng hải quân đã cho xây dựng nhà tưởng niệm AHLS Trần Đức Thông. Trước đó năm 2001, người dân trong thôn Cộng Hòa đã góp tiền xây dựng đài tưởng niệm và khắc tên người AHLS Trường Sa như một cách để bày tỏ lòng tri ân và tình cảm sâu sắc với người anh hùng quê hương mình. Tên của AHLS Trần Đức Thông được đặt tên cho ba trường học ở xã Minh Hòa: trường mẫu giáo, trường tiểu học và trường cấp II. Ngôi Trường THCS Minh Hòa ngày trước trung tá Trần Đức Thông từng học đã được đổi tên thành Trường THCS Trần Đức Thông tháng 9-2010.


    “Bố xa nhớ. Hôm nay là ngày chủ nhật, con ngồi vào bàn học mà không sao học được vì lúc đó là buổi ca nhạc 7g30-8g, toàn hát những bài hát về Trường Sa. Lúc này con không thể nào học được nữa vì những bài hát đang khơi gợi về hình ảnh Trường Sa, nhất là hình ảnh của bố. Lúc này con nhớ bố vô hạn nên con tranh thủ viết mấy dòng chữ gửi cho bố.

    Bố ạ. Tính đến nay bố xa gia đình cũng ba tuần rồi bố nhỉ. Thời gian trôi đi nhanh quá phải không bố? Bố ạ. Bố đi đã viết về nhà ba bức thư thì ở nhà đều nhận được hết. Bưu phẩm bố gửi cũng nhận được.

    Bố ạ, hôm qua ngày 19-3-88 có xe ca của lữ 147 vào trong chỗ bố công tác và lúc xe ra bố có gửi chú Hoa ra cho 50kg gạo và tiền 140.000 đồng, và của cả bác Cổn nữa thì mẹ con và chúng con đều nhận được cả.

    Bố ạ, còn tình hình học tập của con ở nhà vẫn bình thường. Hôm vừa qua bố có gửi thư tay cho thầy giáo chủ nhiệm con thì thầy đã nhận được và thầy nói rằng sẽ biên thư cho bố.

    Bố ạ! Vừa qua tình hình ở đảo căng thẳng lắm phải không bố. Do vậy ở trong đơn vị chắc bố cũng bận nhiều, do vậy cũng phải ảnh hưởng đến sức khỏe nhưng bố ạ, bố cố gắng giữ gìn sức khỏe.

    Thôi cuối thư con còn gửi lời hỏi thăm sức khỏe các bác, các chú, các anh trong đơn vị bố mạnh khỏe, canh giữ vững chắc vùng biển thân yêu Trường Sa. Bố có phải đi đảo hay không viết thư về cho gia đình biết tin nhé. Mẹ con ở nhà đang rất sốt ruột vì lúc nào đài cũng nói rằng tình hình Trường Sa rất căng thẳng. Thôi con tạm dừng bút ở đây, lá thư sau con sẽ viết nhiều hơn. Chúc bố khỏe, công tác tốt. Con Trần Thị Thu Hà”.

    Dấu bưu cục cho thấy bưu điện Hà Nam Ninh nhận thư gửi là ngày 22-3-1988, hòm thư của bưu điện Cam Ranh nhận ngày 28-3-1988 và khi chuyển đến huyện đảo Trường Sa đã là ngày 30-3-1988. Khi đặt bút xuống, cô bé tên Thu Hà ấy không thể nào biết đó là lá thư cuối cùng mình viết cho bố. Lá thư ấy vĩnh viễn không thể đến được tay cha mình.

    Câu chuyện xúc động của lá thư khiến chúng tôi quyết định phải tìm cho được người con gái của Anh hùng liệt sĩ (AHLS) Trần Đức Thông (trung tá, lữ đoàn phó - tham mưu trưởng Lữ đoàn 146 Vùng 4 hải quân, người chỉ huy trực tiếp cao nhất tại Trường Sa trong sự kiện 14-3-1988).

    25 năm sau, sáng 8-3-2013, trong ngôi nhà tưởng niệm người cha anh hùng của mình ở Thái Bình, khi nhìn thấy những dòng chữ trong lá thư của 25 năm trước, chị Thu Hà (hiện công tác tại ******* tỉnh Hà Nam) lặng đi. Những giọt nước mắt lăn dài trên gương mặt người phụ nữ luôn tỏ ra cứng cỏi, mạnh mẽ. “Cả nhà tôi không ai nghĩ bố hi sinh. Vì năm ngày sau sự kiện 14-3-1988, mẹ con tôi còn nhận được 50kg gạo và 140.000 đồng tiêu chuẩn của bố gửi mấy chú Lữ đoàn 147 mang ra. Tối hôm sau (20-3), tôi đang học bài nhưng bỗng rất sốt ruột, nhớ bố quá nên viết thư. Tôi không ngờ đó là lá thư cuối cùng mình được viết cho bố. Và bố không bao giờ nhận được lá thư ấy...”, chị Thu Hà nhớ lại.

    “Ngày 26-3-1988, lúc nghe đài nhắc tới: đồng chí Trần Đức Thông đứng ở boong tàu kêu gọi đàm phán. Bên kia cứ xả súng vào... Mặc dù bị thương nặng nhưng đồng chí vẫn không rời vị trí cho đến lúc hi sinh, cả nhà tôi mới tin bố đã hi sinh thật rồi. Sau này nghe đồng đội của bố kể: dù bị thương nặng vào chân và đầu nhưng bố vẫn ở mũi tàu chỉ huy bộ đội cho đến lúc hi sinh”, chị Hà kể. Khi ấy Thu Hà 18 tuổi, còn em trai Trần Hoài Nam mới 14 tuổi.

    Ký ức về cha

    “Ngày đó, lính đảo 18 tháng mới được về phép một lần. Mỗi lần đi đảo, bố để dành thịt hộp, lương khô mang về cho con. Lần nào về cũng mang những con ốc rất to, những cây san hô, những con tôm, con cá màu xanh màu đỏ được tết từ dây cáp điện thông tin... làm quà cho các con. Bây giờ tôi vẫn còn giữ những kỷ vật ấy. Lần nào về bố cũng mua từng cái quần, cái áo cho con. Bộ quần áo cuối cùng của tôi là tiêu chuẩn của đơn vị cho bố đi may, bố mang về cho con gái may quần đi học. Mỗi lần nhìn cái quần màu xanh hải quân ấy, tôi lại chảy nước mắt vì nhớ và thương bố. Mỗi lần về phép, bố chỉ thích ăn rau vì đi đảo thiếu rau vô cùng tận. Su hào, bắp cải, xà lách luộc là những món bố rất thích ăn”, Thu Hà chảy nước mắt khi nhớ lại.

    Trong đợt về phép cuối cùng (gần tết năm 1988), như linh cảm trước chuyến đi định mệnh, trung tá Thông lên trường gặp thầy chủ nhiệm xin được miễn quân sự cho con gái một tuần. Người cha đạp xe chở con từ thị xã Phủ Lý (Hà Nam Ninh) về quê (Minh Hòa, Hưng Hà, Thái Bình), đến từng nhà người bạn học, người hàng xóm chơi. “Tôi còn nhớ lần đó bố còn 15 ngày phép. Nhận được điện ở đơn vị vào Nha Trang gấp, bố đi ngay. Trước khi đi, bố bảo: mai tôi trả phép rồi, tôi gánh kỷ niệm cho con gái một bể nước. Đêm đó bố xuống sông gánh nước đầy một bể cho vợ con”, Thu Hà nhớ lại.

    Bố mất, Thu Hà nén nỗi đau, lao vào ôn thi tốt nghiệp THPT. Mẹ cô - bà Nguyễn Thị Seo - suy sụp, chỉ còn 36kg. Lấy nhau năm 1971, chồng đi chiến trường biền biệt. Sau ngày đất nước thống nhất, anh trở về rồi lại đi đảo suốt. Cả cuộc đời làm vợ chồng, họ chỉ sống bên nhau chưa được một năm. Trung tá Thông hi sinh ở tuổi 44. Người vợ lúc đó mới 40. Chị ở vậy nuôi dạy hai người con khôn lớn. Năm 2002, người vợ xây mộ giả cho chồng cạnh bố mẹ chồng. Ba năm sau, người phụ nữ ấy ra đi sau một cơn tai biến. “Trong lúc hấp hối mẹ vẫn nhắc đến bố. Suốt cuộc đời mẹ dành trọn tình yêu cho bố” - chị Hà nói, đôi mắt ngập nước.

    ___________

    Hai mươi năm qua, nỗi mất mát có thể đã lắng xuống sau ngần ấy thời gian, nhưng niềm khắc khoải ngóng vọng của những bà mẹ với xương cốt con mình dưới lòng biển lạnh vẫn mãi thao thức.

    Kỳ tới: Cuộc tìm kiếm dưới đáy biển
  8. AMG19

    AMG19 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/07/2011
    Đã được thích:
    0
    :-bd
  9. thangbomchoick

    thangbomchoick Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/08/2011
    Đã được thích:
    1
    Cuộc tìm kiếm dưới đáy biển Gạc Ma
    LÊ ĐỨC DỤC | 12/03/2013 09:35 (GMT + 7)

    TT - Hơn 20 năm sau ngày xảy ra sự kiện 14-3-1988, chúng tôi có dịp đến với gia đình các liệt sĩ hải quân hi sinh. Hai mươi năm qua, nỗi mất mát có thể đã lắng xuống sau ngần ấy thời gian, nhưng niềm khắc khoải ngóng vọng của những bà mẹ với xương cốt con mình dưới lòng biển lạnh vẫn mãi thao thức.

    [​IMG]
    Các ngư dân tàu Thành Công 07 đã lặn vớt hài cốt liệt sĩ trên tàu HQ-604 - Ảnh: L.Đ.Dục

    [​IMG]
    Vợ anh Phạm Vinh bên bàn thờ chồng - người thợ lặn đã tử nạn khi lặn tìm hài cốt anh em trên tàu HQ-604. Ảnh chụp tại thôn Đông, xã An Vĩnh, đảo Lý Sơn - Ảnh: L.Đ.Dục​

    Bởi thế khi nghe tin có một con tàu của ngư dân Lý Sơn trong lúc đi biển đã tìm thấy xác chiếc tàu HQ-604 bị chìm và tìm thấy một số hài cốt các liệt sĩ, chúng tôi đã theo dấu vết con tàu để tìm thêm thông tin về câu chuyện “đáy bể mò kim” này.

    “Nhiệm vụ đặc biệt”

    Lần trước, đáp chuyến tàu cao tốc từ cảng Sa Kỳ ra đảo Lý Sơn, liên lạc với chủ tàu Thành Công 07, con tàu với những người thợ lặn đã tiếp cận được khoang tàu 604 nhưng điện thoại của ông Võ Văn Chức, chủ tàu, đang ở ngoài vùng phủ sóng. Về gia đình những ngư dân có con em đang theo tàu ông Chức mới hay tàu ông Chức không phải tàu đánh cá mà là tàu chuyên đi lặn tìm, tháo gỡ phế liệu từ những con tàu đắm.

    Và thời điểm đó, tàu ông Chức đang lang thang đâu tận vùng biển gần Malaysia. Chuyến đi Lý Sơn ấy, chúng tôi chỉ kịp ghé thăm gia đình anh Phạm Vinh (ở thôn Đông, xã An Vĩnh), một thủy thủ trên tàu ông Chức. Anh Vinh đã tử nạn vì ngạt nước khi đang lặn tìm hài cốt liệt sĩ trên tàu HQ-604. Một tuần trước đây, khi trở lại thực hiện tuyến bài kỷ niệm 25 năm sự kiện CQ88 này, chúng tôi lại liên lạc hú họa với con tàu Thành Công 07 của ông Chức. Thời may, con tàu ông Chức đang từ biển trở về, có điều nó không về Lý Sơn mà sẽ cập cảng Ninh Chữ ở Phan Rang - Tháp Chàm.

    Đúng hẹn với ông Chức, chúng tôi tìm vào cảng Ninh Chữ (Phan Rang). Chiếc tàu Thành Công 07 của những người thợ lặn Lý Sơn đang neo đậu chuẩn bị “lên đà” sửa chữa. Câu chuyện về cuộc tìm kiếm hài cốt những người lính trong con tàu HQ-604 vẫn còn tươi nguyên trong tâm trí ông.

    “Hôm đó đã sắp vào dịp Vu Lan, tầm rằm tháng 7 âm lịch năm 2008, khi tàu QNG-96219 của cháu tôi, Võ Văn Vương đánh cá tại đây phát hiện một chiếc tàu chìm. Vì biết nghề của tôi là lặn tìm phá dỡ tàu cũ lấy phế liệu nên Vương gọi báo cho tôi biết để điều tàu đến. Khi tàu Thành Công 07 đến, tôi cho anh em lặn thăm dò. Chỉ quan sát sơ bộ bên ngoài cũng biết ngay đây là tàu của hải quân ta bị chìm. Con tàu chìm trên vùng biển này ở độ sâu chừng 20m nước, lại chỉ cách đảo Cô Lin hơn 3 hải lý. Thay mặt anh em trên tàu, tôi vào đảo Cô Lin báo với anh Chu Văn Phượng - đảo trưởng - về chiếc tàu chìm.

    Cuộc khảo sát được tiến hành cụ thể hơn vào sáng 10-8-2008 và chiều hôm đó, ông Chức đã báo cho anh em chỉ huy trên đảo Cô Lin được biết: các thợ lặn của tàu đã tiếp cận được với con tàu. Những số liệu đo được ban đầu cho thấy tàu dài khoảng 45m, rộng 7,5m, cao 6,5m, có hai khoang, giữa hai khoang có trụ cẩu. Đặc biệt anh em thợ lặn khi kiểm tra sơ bộ trong một khoang nhỏ của tàu đã phát hiện một số xương cốt và nhiều vũ khí quân tư trang, trong đó có cả một đôi dép nhựa trắng, trên dép có ghi “Triển lãm thành tựu kinh tế Việt Nam-Huy chương vàng dép nhựa Tiền Phong- Hải Phòng”.

    Căn cứ vào những thông tin từ ông Chức cung cấp, chúng ta đã nhận định: đây chính là tàu HQ-604 do thuyền trưởng Vũ Phi Trừ chỉ huy đã bị chìm trong trận chiến bảo vệ đảo Gạc Ma ngày 14-3-1988.

    “Đáy biển tìm kim”

    Cuộc tìm kiếm hài cốt các liệt sĩ trong chiếc tàu HQ-604 được tiến hành khẩn trương và tỉ mỉ. Ông Chức bảo: “Dù sao các anh cũng đã lạnh rét dưới đáy biển hơn 20 năm rồi. Trước khi lặn tìm hài cốt, anh em chúng tôi đã làm lễ, xin các anh sống khôn thác thiêng, phù hộ cho chúng tôi đưa được xương cốt các anh về đất mẹ”. Với kinh nghiệm mấy chục năm của những ngư dân chuyên lặn khai thác phế liệu từ những con tàu đắm, ông Chức và anh em trên tàu Thành Công 07 quyết tâm mang được hết hài cốt của anh em chiến sĩ hải quân đang còn trong tàu.

    Ngày đầu tiên, kíp thủy thủ 15 người trên tàu được chia làm hai nhóm. Mười anh em lặn xuống tàu rà tìm tỉ mỉ trong các khoang và năm người còn lại ở trên boong hỗ trợ (hầu hết anh em lặn bằng ống thở theo phương pháp thủ công chứ không phải lặn bằng máy dưỡng khí). Ông Chức còn nhớ rõ vị trí con tàu đắm nước trong suốt có thể nhìn thấu tận đáy. Thời tiết cực kỳ tốt như ông trời cũng muốn giúp anh em mau được trở về. Ngày thứ nhất của cuộc tìm kiếm, đội thợ lặn tàu Thành Công 07 gom được một nửa bao (loại bao gai) đựng một số xương cốt anh em cùng một số di vật.

    Ông Chức kể: Đêm trước, anh em lặn trong ngày thứ nhất đều cho biết chậm nhất thêm một hai ngày nữa là có thể lấy hết số hài cốt và di vật nằm trong các khoang. Dù sau hơn 20 năm, nước biển và bùn đáy có bám vào làm hư hại, mục nát nhiều phần xương thịt của anh em liệt sĩ nhưng nếu lấy được hết số di vật và di cốt này, chắc chắn anh em sẽ phù hộ cho tàu mình. Nghĩ như thế nên ngày tiếp theo anh em ai cũng phấn khởi, tận tâm. Bao nhiêu năm ngang dọc khắp các ngư trường làm nghề lặn biển, phá dỡ hàng trăm con tàu đủ loại lớn nhỏ, từ tàu Mỹ, Nhật, Pháp... có cả, nhưng đây là lần đầu tiên anh em tàu Thành Công 07 được lặn tìm hài cốt anh em liệt sĩ của mình, những người lính đã hi sinh khi bảo vệ chủ quyền trên chính vùng biển quê hương, cũng là giữ bình yên cho vùng biển mà anh em trên tàu bấy lâu đi làm ăn nuôi gia đình. Vì thế nên ai cũng nghĩ đây không chỉ là việc nghĩa mà còn là một món nợ với anh linh các anh, phải cố làm cho tốt.

    Ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm, nhờ đã thông thuộc vị trí các khoang tàu nên kíp thợ lặn hôm trước được tiếp tục lặn tìm ở cả hai khoang. Kíp lặn vào khoang thứ nhất gồm ba anh: Vinh, Ngọc và Hợp. công việc diễn ra nhanh chóng hơn, những di cốt đã được gom lại chuẩn bị đưa lên thì bỗng dưng có tín hiệu cấp cứu, kíp lặn của Ngọc, Hợp và Vinh giật dây báo cho kíp boong kéo Vinh lên.

    Thì ra khi vào khoang, do cửa hẹp nên chỉ mình anh Vinh lặn vào, Hợp và Ngọc chờ bên ngoài để nhận các di vật anh Vinh chuyền ra. Thấy lâu quá, Ngọc và Hợp chui vào khoang thì thấy anh Vinh đã không còn ngậm ống thở, đầu ngoẹo qua một bên. Cả hai lập tức buộc Vinh vào dây và cùng đẩy lên. Một bao di cốt cũng được đưa kịp lên cùng mấy người thợ lặn, còn một số di cốt nữa đã được cho vào bao nhưng chưa kịp kéo lên tàu. Con tàu Thành Công 07 nổ máy quay hướng về đảo Cô Lin để cấp cứu cho anh Vinh nhưng không kịp nữa!

    Số hài cốt liệt sĩ trên tàu được tìm thấy bước đầu đã được anh em trao cho cán bộ chiến sĩ trên đảo Cô Lin hương khói trước khi đưa về đất liền.

    Tin bài liên quan:

    >> Kỳ 1: Những kỷ vật từ lòng biển Trường Sa
    >> Kỳ 2: “Vòng tròn bất tử” trên bãi Gạc Ma
    >> Kỳ 3: Khi tiếng súng lặng im
    >> Kỳ 4: Lá thư không người nhận

    ___________

    Kỳ tới: Ngày trở về...
  10. thangbomchoick

    thangbomchoick Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/08/2011
    Đã được thích:
    1
    Kỳ 6:
    Trường Sa - khúc bi tráng 14-3: Ngày trở về...

    MY LĂNG - LÊ ĐỨC DỤC | 13/03/2013 10:05 (GMT + 7)
    TT - Sau khi sự cố xảy ra với Phạm Vinh, tàu Thành Công 07 của ông Võ Văn Chức vội vã đưa người thợ lặn xấu số của tàu mình về Lý Sơn mai táng.

    [​IMG]
    Kỷ vật của cán bộ, chiến sĩ hi sinh tại vùng biển Gạc Ma ngày 14-3-1988 - Ảnh: My Lăng

    [​IMG]
    Trường Sa 21 là con tàu đưa hài cốt các liệt sĩ hi sinh tại vùng biển Gạc Ma trở về đất liền. Đây cũng là con tàu chở chuyến đá đầu tiên trong chương trình “Góp đá xây Trường Sa” ra đảo Đá Tây- Ảnh: thuận thắng

    Cùng lúc đó, di vật và di cốt của những người lính hải quân trong con tàu HQ-604 cũng được anh em cán bộ chiến sĩ trên đảo Cô Lin chăm lo nhang khói, chuẩn bị cho chuyến trở về của các liệt sĩ.

    Xác thân còn lại chút này...

    Đại úy Chu Văn Phượng, đảo trưởng đảo Cô Lin vào năm 2008 (thời điểm tìm thấy các liệt sĩ trên tàu HQ-604), hồi ức về cuộc quy tập thiêng liêng ấy:

    “Chiều thứ hai của cuộc tìm kiếm, khi ông Võ Văn Chức từ tàu Thành Công 07 báo đã đưa được hai bao hài cốt lên, tôi quá nôn nóng đi xuồng ra đón ngay. Nhìn thấy những mảnh xương lẫn vào nhau không còn nguyên vẹn, anh em trên đảo không ai kìm được nước mắt. Trong ba mảnh xương hộp sọ được mang lên, chỉ một hộp sọ còn được 1/3 do bị đạn pháo bắn. Chúng tôi lấy sả khô nấu nước thơm để “tắm” cho hài cốt các anh. “Tắm” xong, anh em cán bộ chiến sĩ trên đảo ngồi tỉ mỉ lau sạch từng mảnh xương bằng bông gạc quân y. Tất cả đều im lặng làm trong niềm xúc động thiêng liêng khi cầm trên tay chút hình hài của đồng đội mình” - anh Phượng xúc động kể.

    Toàn bộ hài cốt liệt sĩ được đặt vào hai chiếc hòm sắt quân đội, bên trên phủ lá cờ Tổ quốc. Chiến sĩ trên đảo gấp rút chuẩn bị lư hương, đặt bàn thờ. 6g tối hôm đó, ngay trong sóng gió, toàn đảo mặc quân phục tổ chức lễ truy điệu các liệt sĩ ngay dưới cột mốc chủ quyền.

    “Trong đời tôi chưa bao giờ dự một lễ truy điệu thiêng liêng, trang trọng và xúc động như thế - anh Phượng chia sẻ - Sau lễ truy điệu, bàn thờ lư hương và hòm đựng hài cốt liệt sĩ được đưa lên phòng họp của đảo, chăm lo nhang khói suốt ngày đêm và luôn có một chiến sĩ đứng gác. Đều đặn mỗi bữa ăn, đảo có món gì đều cúng món đấy cho các liệt sĩ...”.

    Cuối tháng 8-2008, khi mùa biển bắt đầu động, hành trình đưa hài cốt các anh về lại đất liền cũng là một hành trình gian nan. (Cũng thật bất ngờ, khi lần theo dấu vết của cuộc tìm kiếm các liệt sĩ trên tàu HQ-604, chúng tôi biết được con tàu làm nhiệm vụ thiêng liêng đưa hài cốt các anh từ đảo Cô Lin về đất liền lại là tàu Trường Sa 21 của Lữ đoàn 125 (Đoàn tàu không số). Bởi tháng 9-2011, chiếc tàu Trường Sa 21 cũng chính là chuyến tàu đầu tiên chở những viên đá đầu tiên trong chương trình “Góp đá xây Trường Sa” của bạn đọc Tuổi Trẻ ra đảo Đá Tây để xây dựng công trình mới).

    Hành trình về với đất liền

    Đang làm nhiệm vụ trực ở đảo Song Tử Tây, tàu Trường Sa 21 nhận lệnh xuất phát ngay sang Cô Lin nhận di vật và hài cốt liệt sĩ đưa về bờ. Đại úy Nguyễn Thế Tình (trợ lý chính trị phòng tham mưu Lữ đoàn 125 Hải quân), khi đó là trung úy - chính trị viên tàu Trường Sa 21, kể: “Dù sóng to gió lớn nhưng chúng tôi vẫn quyết định vào đảo, mang theo thịt heo, gạo nếp, đậu xanh, bí lên đảo làm mâm cơm thắp hương cho các anh”.

    Đại úy Trần Văn Dũng, chính trị viên đảo Cô Lin, thắp hương xin phép được mở hòm để bàn giao cho tàu Trường Sa 21 đưa các bác, các chú về đất liền. “Khi mở hòm ra ai cũng khóc. Lần đầu tiên trong đời chúng tôi được chứng kiến hình ảnh xúc động, thiêng liêng như thế. Nhìn các di vật rong rêu bám đầy, gỉ sét rồi nhìn chiếc săm xe đạp, quần áo của các chú... chúng tôi không kìm được nước mắt” - đại úy Tình kể.

    Đêm đó cả đảo lại một đêm không ngủ. Và các sĩ quan của tàu Trường Sa 21 cũng thức trắng đêm.

    3g ngày 24-8, cả đảo và tàu Trường Sa 21 thắp nhang làm lễ xin được đưa các liệt sĩ xuống tàu. Đại úy Nguyễn Thế Tình phụ trách xuồng đưa bốn hòm gỗ chứa hài cốt và di vật lên tàu. “Ở biển mặt trời mọc rất sớm, 5g30 đã nổi lên giữa biển rồi. Nhiệm vụ của chúng tôi là phải đưa hài cốt lên tàu trước khi mặt trời mọc. Nhưng sáng đó không hiểu sao biển rất động, sóng to gió lớn. Tàu Trường Sa 21 phải cơ động chắn sóng, chắn gió cho xuồng. Xuồng chở hài cốt các anh cũng phải chạy tránh sóng, tránh gió và tạo một khoảng cách vừa phải thì cập vào mạn tàu. Không thể dùng cẩu, chúng tôi phải buộc dây vào hòm kéo lên để đảm bảo an toàn”.

    Đại úy Tình kể tiếp: “Từng hòm lần lượt đưa lên tàu. Dù đã hết sức cẩn trọng, nhưng tất cả anh em đều vô cùng lo lắng. Với những cột sóng mạnh, tàu lắc như thế này, nhỡ một giây sơ sẩy là ân hận suốt đời! Những anh em đứng dưới xuồng luôn trong tư thế sẵn sàng lao ra ôm lấy hòm nếu đứt dây. Xuồng rời đảo từ 4g đến 5g15, mất hơn 60 phút mới đưa được bốn chiếc hòm đựng di cốt và di vật lên tàu. Vừa đưa hài cốt lên tàu thì trời hừng sáng. Sóng yên lại. Biển dịu hẳn.

    Anh em đã kịp trang trí phòng câu lạc bộ sĩ quan trên tàu thành bàn thờ. Trước khi đưa hòm kỷ vật và hài cốt liệt sĩ vào phòng câu lạc bộ, tất cả thủy thủ trên tàu Trường Sa 21 đều mặc quân phục chỉnh tề, từng người một thắp nhang cho các chú, các anh”.

    7g sáng, tàu nhổ neo xuất phát về đất liền, mặt biển ắng lặng như tờ. Tàu phân công cứ hai chiến sĩ một ca trực đứng hai bên bàn thờ, cầm súng canh, lo nhang khói 24/24 giờ. Những nén nhang thành kính thiêng liêng ấy tỏa khói thơm suốt từ lúc chiếc hòm gỗ đầu tiên được đưa lên tàu cho đến ngày về tới đất liền.

    Sau hành trình hai ngày hai đêm trên biển, gần 7g ngày 26-8-2008, tàu Trường Sa về đến Vũng Tàu. Đúng 7g, lễ truy điệu và bàn giao hài cốt và di vật của các liệt sĩ trong chiếc tàu HQ-604 cho Cục Chính trị quân chủng hải quân được tổ chức rất trang trọng tại quân cảng 129.

    Người cha của liệt sĩ Gạc Ma đã không chờ được...

    Hôm qua, ông Hoàng Sĩ, quê ở TP Đông Hà (Quảng Trị), bố của liệt sĩ Hoàng Ánh Đông - một trong 64 cán bộ chiến sĩ đã hi sinh ngày 14-3-1988 khi bảo vệ đảo chìm Gạc Ma - đã qua đời, đúng vào lần giỗ thứ 25 của con trai mình.

    Bốn năm trước, khi tôi về thăm ông trước khi đi Trường Sa, ông có ước nguyện nhờ hỏi giùm xem hài cốt của con trai mình liệu có tìm thấy. Nhất là sau khi Bộ tư lệnh hải quân cho lấy mẫu máu để xét nghiệm ADN từ những hài cốt được ngư dân tàu Thành Công 07 lặn mang lên. Ông Sĩ đã rất buồn khi biết không có di cốt của Đông trong số đó. Chuyến đi ra Trường Sa vào năm sau, tôi đã mang về cho ông một chai nước lấy từ vùng biển Cô Lin - Gạc Ma, nơi Đông hi sinh để đặt lên bàn thờ bái vọng. Tôi đã kể câu chuyện về những hài cốt liệt sĩ đang còn lại trong khoang tàu HQ-604 và nói ông hãy hi vọng...

    Nhưng ông Hoàng Sĩ đã không thể chờ được, cũng như hàng chục ông bố bà mẹ của những liệt sĩ Gạc Ma đã không chờ được...

    LÊ ĐỨC DỤC

Chia sẻ trang này