Báo chí thế này có chết tôi không

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi rulebreaker, 15/01/2007.

8560 người đang online, trong đó có 599 thành viên. 22:50 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
Chủ đề này đã có 6991 lượt đọc và 67 bài trả lời
  1. rulebreaker

    rulebreaker Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    23/01/2006
    Đã được thích:
    33
    http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=73146&ChannelID=3

    VN-Index lại lập kỷ lục mới

    TP - Tại phiên giao dịch hôm qua (15/1) chỉ số giá chứng khoán VN-Index lại thiết lập kỷ lục mới: Tăng một mạch lên mức 947.15 điểm (+ 32.36). Trong đó có 64 loại cổ phiếu tăng giá; 26 loại giảm giá và 18 loại đứng giá.

    Chỉ số giá chứng khoán lại lập kỷ lục mới - Ảnh: Hồng Vĩnh

    Năm loại cổ phiếu tăng giá mạnh nhất gồm: FPT thêm 26 ngàn đồng/cổ phiếu; PVD tăng 11 ngàn đồng; SAM: 10 ngàn đồng/CP; KDE và BMI.

    Trong khi đó, các loại cổ phiếu giảm giá mạnh nhất trên thị trường gồm có: HAX, MCP, HDB, SF1... với mức từ 3-5 ngàn đồng/cổ phiếu.

    Tại TTGDCK Hà Nội, chỉ số HASTC phiên đóng cửa cũng tăng mạnh. HASTC ?" Index đã chính thức lên mức 323.24 (+13.96); đặc biệt giá trị giao dịch đạt tới 328.477.670.000 VND với số khối lượng cổ phiếu giao dịch đạt 3.182.100.

    Tại các phiên giao dịch gần đây đã xảy ra một hiện tượng ngược chiều: Đó là giao dịch bán ra của các nhà đầu tư nước ngoài tăng lên mạnh; còn nhà đầu tư trong nước lại mua vào.

    Thời gian gần đây, nhiều chuyên gia cũng đã bắt đầu lên tiếng cảnh báo về việc chỉ số P/E (mức định giá được tính bằng tổng tài sản trên giá trị lợi nhuận) của TTGDCK TP HCM đã cao xấp xỉ 40 lần, hơn cả mức 23 lần của Bombay (Ấn Độ) và 35 lần của TTCK Thượng Hải.

    Trên thị trường OTC, giá các cổ phiếu của các Cty vẫn tăng mạnh bởi các thông tin sốt dẻo về tăng vốn điều lệ, chia cổ tức, chốt sổ cổ đông hay sắp lên sàn.

    Theo dự đoán của giới đầu tư, tuần này các giao dịch sẽ diễn ra mạnh. Tại thời điểm này, một lượng tiền không nhỏ từ vốn huy động tiền gửi đang ?ochảy? từ các NHTM vào thị trường chứng khoán.

    Khánh Huyền


    anh em chú ý định nghĩa mới về P/E nhé. Thế này thị trường không lên mới là lạ.
    Được rulebreaker sửa chữa / chuyển vào 19:43 ngày 16/01/2007

    Được rulebreaker sửa chữa / chuyển vào 19:45 ngày 16/01/2007
  2. ohyes6886

    ohyes6886 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/04/2006
    Đã được thích:
    0
    đến chết với ông tien phong này thôi
    điều đó chính tỏ mai mình đến xin làm trưởng ban tin tuc kinh te bên đó đi a e
    thiếu ng
  3. Dylanman

    Dylanman Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Đã được thích:
    8
    Không biết nó có ăn nhầm cái gì không mà nói ngu thế nhỉ? đã dốt còn viết bài này bài nọ, bình luận và cảnh báo thị trường cũng như ai.
  4. shadows

    shadows Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    24/12/2002
    Đã được thích:
    1
    sàn hà nội cũng bị dở hơi nốt
    các bác vào mà xem
    số công ty giao dịch là 172 còn nhiều hơn cả Hostc
    http://hastc.org.vn/Ketqua_Giaodich.asp?actType=1&menuup=113000&TypeGrp=1&menuid=113120&menulink=100000&menupage=

    Kết quả giao dịch ngày 16/01/2007

    Ngày giao dịch: Loại chứng khoán:
    STT Mã CK Giá tham chiếu Giá trần Giá sàn Giá mở cửa Giá đóng cửa Ký hiệu Thay đổi % thay đổi Giá cao nhất Giá thấp nhất Giá bình quân Khối lượng Giá trị
    1 ACB 161.8 177.9 145.7 163.0 164.5 1.9 1.17 165.0 162.0 163.7 100,800 16,499,770,000
    2 ACB 161.8 177.9 145.7 163.0 164.5 1.9 1.17 165.0 162.0 163.7 100,800 16,499,770,000
    3 BBS 16.9 18.5 15.3 18.5 18.5 1.6 9.47 18.5 18.5 18.5 21,600 399,600,000
    4 BBS 16.9 18.5 15.3 18.5 18.5 1.6 9.47 18.5 18.5 18.5 21,600 399,600,000
    5 BCC 33.0 36.3 29.7 36.3 36.2 3.3 10.00 36.3 36.0 36.3 819,800 29,755,370,000
    6 BCC 33.0 36.3 29.7 36.3 36.2 3.3 10.00 36.3 36.0 36.3 819,800 29,755,370,000
    7 BHV 15.4 16.9 13.9 -- 15.4 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    8 BHV 15.4 16.9 13.9 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    9 BMI 163.6 179.9 147.3 179.9 163.0 2.7 1.65 179.9 162.9 166.3 35,500 5,903,760,000
    10 BMI 163.6 179.9 147.3 179.9 163.0 2.7 1.65 179.9 162.9 166.3 35,500 5,903,760,000
    11 BTS 37.1 40.8 33.4 40.8 37.0 3.1 8.36 40.8 37.0 40.2 162,100 6,514,350,000
    12 BTS 37.1 40.8 33.4 40.8 37.0 3.1 8.36 40.8 37.0 40.2 162,100 6,514,350,000
    13 BVS 330.2 363.2 297.2 338.0 310.0 -4.8 -1.45 338.0 299.0 325.4 36,000 11,714,770,000
    14 BVS 330.2 363.2 297.2 338.0 310.0 -4.8 -1.45 338.0 299.0 325.4 36,000 11,714,770,000
    15 CIC 36.0 39.6 32.4 36.2 39.6 1.3 3.61 39.6 36.2 37.3 300 11,200,000
    16 CIC 36.0 39.6 32.4 36.2 39.6 1.3 3.61 39.6 36.2 37.3 300 11,200,000
    17 CID 13.0 14.3 11.7 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    18 CID 13.0 14.3 11.7 -- 14.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    19 CJC 45.2 49.7 40.7 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    20 CJC 45.2 49.7 40.7 -- 41.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    21 CMC 26.0 28.6 23.4 27.0 28.6 1.0 3.85 28.6 25.0 27.0 3,200 86,450,000
    22 CMC 26.0 28.6 23.4 27.0 28.6 1.0 3.85 28.6 25.0 27.0 3,200 86,450,000
    23 CTB 25.0 27.5 22.5 25.6 25.0 0.1 0.40 25.6 25.0 25.1 1,800 45,180,000
    24 CTB 25.0 27.5 22.5 25.6 25.0 0.1 0.40 25.6 25.0 25.1 1,800 45,180,000
    25 CTN 40.5 44.5 36.5 44.5 40.0 2.0 4.94 44.5 39.0 42.5 11,500 488,400,000
    26 CTN 40.5 44.5 36.5 44.5 40.0 2.0 4.94 44.5 39.0 42.5 11,500 488,400,000
    27 DAC 14.5 15.9 13.1 15.9 15.9 1.4 9.66 15.9 15.9 15.9 1,000 15,900,000
    28 DAC 14.5 15.9 13.1 15.9 15.9 1.4 9.66 15.9 15.9 15.9 1,000 15,900,000
    29 DAE 21.5 23.6 19.4 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    30 DAE 21.5 23.6 19.4 -- 21.5 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    31 DHI 24.5 26.9 22.1 25.5 25.0 0.4 1.63 25.5 24.5 24.9 5,200 129,250,000
    32 DHI 24.5 26.9 22.1 25.5 25.0 0.4 1.63 25.5 24.5 24.9 5,200 129,250,000
    33 DTC 17.0 18.7 15.3 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    34 DTC 17.0 18.7 15.3 -- 17.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    35 EBS 69.1 76.0 62.2 71.0 72.0 1.5 2.17 72.0 70.0 70.6 27,600 1,949,370,000
    36 EBS 69.1 76.0 62.2 71.0 72.0 1.5 2.17 72.0 70.0 70.6 27,600 1,949,370,000
    37 GHA 28.3 31.1 25.5 31.0 27.0 0.7 2.47 31.0 27.0 29.0 4,000 116,140,000
    38 GHA 28.3 31.1 25.5 31.0 27.0 0.7 2.47 31.0 27.0 29.0 4,000 116,140,000
    39 HAI 59.4 65.3 53.5 57.9 59.0 -1.4 -2.36 59.0 57.9 58.0 15,100 876,520,000
    40 HAI 59.4 65.3 53.5 57.9 59.0 -1.4 -2.36 59.0 57.9 58.0 15,100 876,520,000
    41 HJS 30.4 33.4 27.4 30.0 33.4 1.8 5.92 33.4 30.0 32.2 44,300 1,428,580,000
    42 HJS 30.4 33.4 27.4 30.0 33.4 1.8 5.92 33.4 30.0 32.2 44,300 1,428,580,000
    43 HLY 20.0 22.0 18.0 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    44 HLY 20.0 22.0 18.0 -- 20.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    45 HNM 64.5 70.9 58.1 63.0 62.0 -2.5 -3.88 63.5 61.0 62.0 86,900 5,390,970,000
    46 HNM 64.5 70.9 58.1 63.0 62.0 -2.5 -3.88 63.5 61.0 62.0 86,900 5,390,970,000
    47 HPC 138.5 152.3 124.7 149.0 127.8 -5.7 -4.12 150.0 125.0 132.8 99,300 13,188,880,000
    48 HPC 138.5 152.3 124.7 149.0 127.8 -5.7 -4.12 150.0 125.0 132.8 99,300 13,188,880,000
    49 HPS 13.8 15.1 12.5 14.1 13.9 0.1 0.72 14.1 13.8 13.9 3,300 46,030,000
    50 HPS 13.8 15.1 12.5 14.1 13.9 0.1 0.72 14.1 13.8 13.9 3,300 46,030,000
    51 HSC 36.9 40.5 33.3 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    52 HSC 36.9 40.5 33.3 -- 36.9 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    53 HTP 21.1 23.2 19.0 22.5 23.0 1.7 8.06 23.0 22.5 22.8 4,500 102,550,000
    54 HTP 21.1 23.2 19.0 22.5 23.0 1.7 8.06 23.0 22.5 22.8 4,500 102,550,000
    55 ICF 29.6 32.5 26.7 30.9 29.6 -0.1 -0.34 31.5 29.0 29.5 101,400 2,995,380,000
    56 ICF 29.6 32.5 26.7 30.9 29.6 -0.1 -0.34 31.5 29.0 29.5 101,400 2,995,380,000
    57 ILC 32.0 35.2 28.8 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    58 ILC 32.0 35.2 28.8 -- 32.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    59 LTC 40.4 44.4 36.4 39.0 39.0 -1.4 -3.47 39.0 39.0 39.0 200 7,800,000
    60 LTC 40.4 44.4 36.4 39.0 39.0 -1.4 -3.47 39.0 39.0 39.0 200 7,800,000
    61 MCO 25.5 28.0 23.0 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    62 MCO 25.5 28.0 23.0 -- 25.5 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    63 MEC 29.1 32.0 26.2 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    64 MEC 29.1 32.0 26.2 -- 29.1 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    65 MPC 65.1 71.6 58.6 65.0 65.5 -0.3 -0.46 66.0 63.0 64.8 296,500 19,218,220,000
    66 MPC 65.1 71.6 58.6 65.0 65.5 -0.3 -0.46 66.0 63.0 64.8 296,500 19,218,220,000
    67 NBC 93.3 102.6 84.0 102.0 102.6 9.1 9.75 102.6 102.0 102.4 4,300 440,160,000
    68 NBC 93.3 102.6 84.0 102.0 102.6 9.1 9.75 102.6 102.0 102.4 4,300 440,160,000
    69 NLC 29.6 32.5 26.7 32.5 32.5 2.9 9.80 32.5 32.5 32.5 3,000 97,500,000
    70 NLC 29.6 32.5 26.7 32.5 32.5 2.9 9.80 32.5 32.5 32.5 3,000 97,500,000
    71 NPS 20.6 22.6 18.6 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    72 NPS 20.6 22.6 18.6 -- 20.6 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    73 NST 31.0 34.1 27.9 31.0 31.0 0.0 0.00 31.0 31.0 31.0 5,000 155,000,000
    74 NST 31.0 34.1 27.9 31.0 31.0 0.0 0.00 31.0 31.0 31.0 5,000 155,000,000
    75 NTP 226.1 248.7 203.5 248.5 226.0 4.7 2.08 248.5 219.0 230.8 63,400 14,630,150,000
    76 NTP 226.1 248.7 203.5 248.5 226.0 4.7 2.08 248.5 219.0 230.8 63,400 14,630,150,000
    77 PAN 122.3 134.5 110.1 133.0 116.0 0.4 0.33 134.0 111.0 122.7 27,200 3,337,090,000
    78 PAN 122.3 134.5 110.1 133.0 116.0 0.4 0.33 134.0 111.0 122.7 27,200 3,337,090,000
    79 PJC 33.3 36.6 30.0 32.5 32.5 -0.8 -2.40 32.5 32.5 32.5 1,700 55,250,000
    80 PJC 33.3 36.6 30.0 32.5 32.5 -0.8 -2.40 32.5 32.5 32.5 1,700 55,250,000
    81 PLC 87.3 96.0 78.6 96.0 85.0 3.4 3.89 96.0 85.0 90.7 12,400 1,124,920,000
    82 PLC 87.3 96.0 78.6 96.0 85.0 3.4 3.89 96.0 85.0 90.7 12,400 1,124,920,000
    83 POT 51.8 56.9 46.7 56.9 51.0 0.7 1.35 56.9 51.0 52.5 51,600 2,706,450,000
    84 POT 51.8 56.9 46.7 56.9 51.0 0.7 1.35 56.9 51.0 52.5 51,600 2,706,450,000
    85 PPG 31.5 34.6 28.4 34.2 30.0 0.2 0.63 34.2 30.0 31.7 500 15,840,000
    86 PPG 31.5 34.6 28.4 34.2 30.0 0.2 0.63 34.2 30.0 31.7 500 15,840,000
    87 PSC 45.9 50.4 41.4 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    88 PSC 45.9 50.4 41.4 -- 45.9 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    89 PTC 47.4 52.1 42.7 47.1 47.0 -1.0 -2.11 47.1 46.1 46.4 3,000 139,150,000
    90 PTC 47.4 52.1 42.7 47.1 47.0 -1.0 -2.11 47.1 46.1 46.4 3,000 139,150,000
    91 PTS 27.8 30.5 25.1 30.5 30.5 2.7 9.71 30.5 30.2 30.5 24,500 746,620,000
    92 PTS 27.8 30.5 25.1 30.5 30.5 2.7 9.71 30.5 30.2 30.5 24,500 746,620,000
    93 S55 26.2 28.8 23.6 -- 26.5 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    94 S55 26.2 28.8 23.6 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    95 S64 24.9 27.3 22.5 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    96 S64 24.9 27.3 22.5 -- 24.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    97 S91 19.3 21.2 17.4 19.4 20.0 0.6 3.11 20.0 19.4 19.9 1,100 21,940,000
    98 S91 19.3 21.2 17.4 19.4 20.0 0.6 3.11 20.0 19.4 19.9 1,100 21,940,000
    99 S99 39.9 43.8 36.0 40.5 40.5 0.6 1.50 40.5 40.5 40.5 2,100 85,050,000
    100 S99 39.9 43.8 36.0 40.5 40.5 0.6 1.50 40.5 40.5 40.5 2,100 85,050,000
    101 SAP 22.1 24.3 19.9 23.5 23.5 1.4 6.33 23.5 23.5 23.5 3,000 70,500,000
    102 SAP 22.1 24.3 19.9 23.5 23.5 1.4 6.33 23.5 23.5 23.5 3,000 70,500,000
    103 SCC 24.9 27.3 22.5 27.3 26.6 1.7 6.83 27.3 25.0 26.6 14,800 394,120,000
    104 SCC 24.9 27.3 22.5 27.3 26.6 1.7 6.83 27.3 25.0 26.6 14,800 394,120,000
    105 SD3 24.1 26.5 21.7 24.0 24.0 -0.1 -0.41 24.0 24.0 24.0 2,500 60,000,000
    106 SD3 24.1 26.5 21.7 24.0 24.0 -0.1 -0.41 24.0 24.0 24.0 2,500 60,000,000
    107 SD5 36.5 40.1 32.9 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    108 SD5 36.5 40.1 32.9 -- 36.5 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    109 SD6 26.0 28.6 23.4 25.0 25.0 -1.0 -3.85 25.0 25.0 25.0 2,000 50,000,000
    110 SD6 26.0 28.6 23.4 25.0 25.0 -1.0 -3.85 25.0 25.0 25.0 2,000 50,000,000
    111 SD7 41.5 45.6 37.4 -- 41.5 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    112 SD7 41.5 45.6 37.4 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    113 SD9 34.2 37.6 30.8 34.5 33.9 -0.7 -2.05 34.5 32.0 33.5 49,400 1,655,540,000
    114 SD9 34.2 37.6 30.8 34.5 33.9 -0.7 -2.05 34.5 32.0 33.5 49,400 1,655,540,000
    115 SDA 89.6 98.5 80.7 98.5 98.5 8.9 9.93 98.5 98.5 98.5 7,000 689,500,000
    116 SDA 89.6 98.5 80.7 98.5 98.5 8.9 9.93 98.5 98.5 98.5 7,000 689,500,000
    117 SDC 47.8 52.5 43.1 47.8 48.2 0.4 0.84 48.5 47.8 48.2 4,300 207,120,000
    118 SDC 47.8 52.5 43.1 47.8 48.2 0.4 0.84 48.5 47.8 48.2 4,300 207,120,000
    119 SDT 82.1 90.3 73.9 85.0 81.5 -0.1 -0.12 85.0 81.0 82.0 23,800 1,950,600,000
    120 SDT 82.1 90.3 73.9 85.0 81.5 -0.1 -0.12 85.0 81.0 82.0 23,800 1,950,600,000
    121 SDY 32.5 35.7 29.3 29.7 29.7 -2.8 -8.62 29.7 29.7 29.7 1,700 50,490,000
    122 SDY 32.5 35.7 29.3 29.7 29.7 -2.8 -8.62 29.7 29.7 29.7 1,700 50,490,000
    123 SGD 38.7 42.5 34.9 34.9 35.0 -3.7 -9.56 35.2 34.9 35.0 3,000 105,080,000
    124 SGD 38.7 42.5 34.9 34.9 35.0 -3.7 -9.56 35.2 34.9 35.0 3,000 105,080,000
    125 SIC 31.7 34.8 28.6 34.8 33.0 0.4 1.26 34.8 29.1 32.1 24,300 779,840,000
    126 SIC 31.7 34.8 28.6 34.8 33.0 0.4 1.26 34.8 29.1 32.1 24,300 779,840,000
    127 SJE 36.0 39.6 32.4 35.9 36.5 0.3 0.83 36.5 35.9 36.3 800 29,030,000
    128 SJE 36.0 39.6 32.4 35.9 36.5 0.3 0.83 36.5 35.9 36.3 800 29,030,000
    129 SNG 45.0 49.5 40.5 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    130 SNG 45.0 49.5 40.5 -- 45.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    131 SSI 223.5 245.8 201.2 227.0 218.0 0.5 0.22 235.0 210.0 224.0 304,400 68,183,630,000
    132 SSI 223.5 245.8 201.2 227.0 218.0 0.5 0.22 235.0 210.0 224.0 304,400 68,183,630,000
    133 STC 60.2 66.2 54.2 -- 60.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    134 STC 60.2 66.2 54.2 -- 60.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    135 STP 27.1 29.8 24.4 28.8 28.0 0.7 2.58 28.8 27.0 27.8 8,000 222,600,000
    136 STP 27.1 29.8 24.4 28.8 28.0 0.7 2.58 28.8 27.0 27.8 8,000 222,600,000
    137 SVC 120.2 132.2 108.2 120.0 125.0 1.6 1.33 126.0 120.0 121.8 90,800 11,059,740,000
    138 SVC 120.2 132.2 108.2 120.0 125.0 1.6 1.33 126.0 120.0 121.8 90,800 11,059,740,000
    139 TBC 48.1 52.9 43.3 52.9 48.0 3.6 7.48 52.9 48.0 51.7 198,600 10,267,220,000
    140 TBC 48.1 52.9 43.3 52.9 48.0 3.6 7.48 52.9 48.0 51.7 198,600 10,267,220,000
    141 TKU 31.7 34.8 28.6 34.8 34.8 3.1 9.78 34.8 34.8 34.8 51,800 1,802,640,000
    142 TKU 31.7 34.8 28.6 34.8 34.8 3.1 9.78 34.8 34.8 34.8 51,800 1,802,640,000
    143 TLC 77.9 85.6 70.2 80.0 78.0 0.9 1.16 84.5 77.0 78.8 64,200 5,061,930,000
    144 TLC 77.9 85.6 70.2 80.0 78.0 0.9 1.16 84.5 77.0 78.8 64,200 5,061,930,000
    145 TLT 41.9 46.0 37.8 45.0 45.1 2.9 6.92 45.1 42.0 44.8 15,500 694,060,000
    146 TLT 41.9 46.0 37.8 45.0 45.1 2.9 6.92 45.1 42.0 44.8 15,500 694,060,000
    147 TPH 27.0 29.7 24.3 29.0 28.0 1.6 5.93 29.0 28.0 28.6 4,100 117,300,000
    148 TPH 27.0 29.7 24.3 29.0 28.0 1.6 5.93 29.0 28.0 28.6 4,100 117,300,000
    149 TXM 23.5 25.8 21.2 25.8 25.8 2.3 9.79 25.8 25.8 25.8 24,800 639,840,000
    150 TXM 23.5 25.8 21.2 25.8 25.8 2.3 9.79 25.8 25.8 25.8 24,800 639,840,000
    151 VBH 44.7 49.1 40.3 40.3 40.3 -4.4 -9.84 40.3 40.3 40.3 2,400 96,720,000
    152 VBH 44.7 49.1 40.3 40.3 40.3 -4.4 -9.84 40.3 40.3 40.3 2,400 96,720,000
    153 VC2 73.9 81.2 66.6 73.5 73.1 -0.7 -0.95 74.0 72.5 73.2 31,000 2,269,210,000
    154 VC2 73.9 81.2 66.6 73.5 73.1 -0.7 -0.95 74.0 72.5 73.2 31,000 2,269,210,000
    155 VFR 41.4 45.5 37.3 42.5 43.0 1.1 2.66 45.0 41.0 42.5 75,000 3,185,160,000
    156 VFR 41.4 45.5 37.3 42.5 43.0 1.1 2.66 45.0 41.0 42.5 75,000 3,185,160,000
    157 VMC 64.7 71.1 58.3 64.7 62.5 -3.3 -5.10 64.7 58.3 61.4 20,800 1,277,350,000
    158 VMC 64.7 71.1 58.3 64.7 62.5 -3.3 -5.10 64.7 58.3 61.4 20,800 1,277,350,000
    159 VNC 32.0 35.2 28.8 33.0 35.2 2.3 7.19 35.2 32.5 34.3 66,400 2,275,190,000
    160 VNC 32.0 35.2 28.8 33.0 35.2 2.3 7.19 35.2 32.5 34.3 66,400 2,275,190,000
    161 VNR 104.7 115.1 94.3 109.0 104.0 1.3 1.24 109.5 103.0 106.0 15,700 1,663,710,000
    162 VNR 104.7 115.1 94.3 109.0 104.0 1.3 1.24 109.5 103.0 106.0 15,700 1,663,710,000
    163 VSP 88.7 97.5 79.9 97.5 97.5 8.8 9.92 97.5 97.5 97.5 11,800 1,150,500,000
    164 VSP 88.7 97.5 79.9 97.5 97.5 8.8 9.92 97.5 97.5 97.5 11,800 1,150,500,000
    165 VTL 30.0 33.0 27.0 29.0 29.0 -1.0 -3.33 29.0 29.0 29.0 1,200 34,800,000
    166 VTL 30.0 33.0 27.0 29.0 29.0 -1.0 -3.33 29.0 29.0 29.0 1,200 34,800,000
    167 VTS 22.3 24.5 20.1 24.0 24.5 2.1 9.42 24.5 24.0 24.4 8,700 212,650,000
    168 VTS 22.3 24.5 20.1 24.0 24.5 2.1 9.42 24.5 24.0 24.4 8,700 212,650,000
    169 VTV 30.0 33.0 27.0 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    170 VTV 30.0 33.0 27.0 -- 30.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    171 YSC 50.4 55.4 45.4 -- -- 0.0 0.00 -- -- -- -- --
    172 YSC 50.4 55.4 45.4 -- 50.0 0.0 0.00 -- -- -- -- --

    (Hướng dẫn cách đọc bảng)
  5. newceovn

    newceovn Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Đã được thích:
    327

    http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=73146&ChannelID=3

    VN-Index lại lập kỷ lục mới

    TP - Tại phiên giao dịch hôm qua (15/1) chỉ số giá chứng khoán VN-Index lại thiết lập kỷ lục mới: Tăng một mạch lên mức 947.15 điểm (+ 32.36). Trong đó có 64 loại cổ phiếu tăng giá; 26 loại giảm giá và 18 loại đứng giá.

    Chỉ số giá chứng khoán lại lập kỷ lục mới - Ảnh: Hồng Vĩnh

    Năm loại cổ phiếu tăng giá mạnh nhất gồm: FPT thêm 26 ngàn đồng/cổ phiếu; PVD tăng 11 ngàn đồng; SAM: 10 ngàn đồng/CP; KDE và BMI.

    Trong khi đó, các loại cổ phiếu giảm giá mạnh nhất trên thị trường gồm có: HAX, MCP, HDB, SF1... với mức từ 3-5 ngàn đồng/cổ phiếu.

    Tại TTGDCK Hà Nội, chỉ số HASTC phiên đóng cửa cũng tăng mạnh. HASTC ?" Index đã chính thức lên mức 323.24 (+13.96); đặc biệt giá trị giao dịch đạt tới 328.477.670.000 VND với số khối lượng cổ phiếu giao dịch đạt 3.182.100.

    Tại các phiên giao dịch gần đây đã xảy ra một hiện tượng ngược chiều: Đó là giao dịch bán ra của các nhà đầu tư nước ngoài tăng lên mạnh; còn nhà đầu tư trong nước lại mua vào.

    Thời gian gần đây, nhiều chuyên gia cũng đã bắt đầu lên tiếng cảnh báo về việc chỉ số P/E (mức định giá được tính bằng tổng tài sản trên giá trị lợi nhuận) của TTGDCK TP HCM đã cao xấp xỉ 40 lần, hơn cả mức 23 lần của Bombay (Ấn Độ) và 35 lần của TTCK Thượng Hải.

    Trên thị trường OTC, giá các cổ phiếu của các Cty vẫn tăng mạnh bởi các thông tin sốt dẻo về tăng vốn điều lệ, chia cổ tức, chốt sổ cổ đông hay sắp lên sàn.

    Theo dự đoán của giới đầu tư, tuần này các giao dịch sẽ diễn ra mạnh. Tại thời điểm này, một lượng tiền không nhỏ từ vốn huy động tiền gửi đang ?ochảy? từ các NHTM vào thị trường chứng khoán.

    Khánh Huyền


    Các bác chú ý, Tienphong còn cấp phép niêm yết cho 3 cổ phiếu giao dịch phiên đầu tiên vào hôm nay.
  6. tgbach68

    tgbach68 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/01/2007
    Đã được thích:
    0
  7. tgbach68

    tgbach68 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/01/2007
    Đã được thích:
    0
    Quỹ đầu tư nước ngoài lựa chọn cổ phiếu như thế nào? CẬP NHẬT: 15/01/2007 02:01:59 (GMT+7)
     TS. Phan Minh Ngọc
    Có lẽ không mấy người biết đến cách thức lựa chọn cổ phiếu của các quỹ đầu tư nước ngoài.

    Người ta thường chỉ đồ rằng họ làm ăn có bài bản, chiến lược đầu tư rõ ràng, đặc biệt là dựa vào các nghiên cứu sâu về thị trường và công ty niêm yết, nhờ có một lực lượng chuyên gia lành nghề và giàu kinh nghiệm, để chọn ra được cổ phiếu nào có giá trị lớn/nhỏ hơn giá thực tế đang lưu hành trên thị trường và xác định được thời điểm chính xác để mua hoặc bán.

    Điều này có thể đúng đối với một số quỹ, nhưng đối với nhiều quỹ, quy trình ra quyết định đầu tư lại đơn giản và có tính hệ thống (máy móc) hơn nhiều, dựa trên hệ thống máy tính tự động tính toán và lựa chọn ra những cổ phiếu tối ưu trong số những cổ phiếu tham khảo.

    Cụ thể hơn, nó sẽ tự động lựa chọn và đầu tư vào 10, 20 (hoặc hơn, tùy thuộc vào quy mô quỹ) các cổ phiếu dẫn đầu thị trường. Nó sẽ điều chỉnh tỷ trọng đầu tư vào cổ phiếu của từng công ty trong danh sách này, tùy thuộc vào triển vọng của các cổ phiếu đó.

    Có hai lý do chính cho việc dựa vào máy tính. Lý do thứ nhất là trình độ chuyên môn của chuyên gia trong các quỹ đầu tư nước ngoài thực ra không phải ?ocao siêu? như thiên hạ vẫn tưởng, làm cho việc lựa chọn cổ phiếu của họ mang tính cảm tính là nhiều hơn.

    Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng ngay cả các quỹ đầu tư ở các nước tiên tiến như nước Anh, nhiều chuyên gia không hề có bằng cấp chuyên môn gì về tài chính, và càng ít người có chuyên môn về phân tích/môi giới chứng khoán (xem, ví dụ, cuốn ?oFear, Greed and Panic ?" The Psychology of the Stock Market? của TS. tâm lý học David Cohen). Tất cả những kỹ năng mà họ có là những kỹ năng mà họ sẽ phải học qua công việc.

    Một tác giả khác tính rằng chỉ có khoảng 20% các nhà chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán là có một loại chứng chỉ nào đó liên quan đến một lĩnh vực tài chính cụ thể. Không ít chuyên gia chứng khoán có tiếng ở Anh có xuất thân là giáo viên dạy ngoại ngữ, luật, hoặc kinh tế, và nhiều người đến với nghề môi giới hoặc kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp hoàn toàn tình cờ.

    Nhiều nhà môi giới hoặc đầu tư khác có chứng chỉ kế toán nhưng kế toán và môi giới là hai nghề hoàn toàn khác biệt, đòi hỏi những kỹ năng khác nhau, mặc dù đều dính dáng đến con số. Một số khác thì chẳng có lấy một loại bằng cấp nào cả.

    Lý do thứ hai là với những quỹ lớn, có danh mục đầu tư dàn trải vào cổ phiếu của nhiều công ty thì việc so sánh và xử lý một lượng quá lớn thông tin không chỉ liên quan đến các công ty có trong danh mục hiện tại và tương lai, mà còn các thông tin chung về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc tế v.v... (dính dáng ít nhiều đến hoạt động của các công ty, các thị trường trong và ngoài nước), là một việc làm quá sức người, không thể tránh sai và sót, và dẫn đến những quyết định đầu tư gây thua lỗ.

    Các nhà tâm lý học đã chứng minh rằng trước khối lượng thông tin quá lớn so với khả năng hấp thụ của con người như vậy, người ta có xu hướng rơi vào trạng thái stress và mắc sai lầm, mà trong hoàn cảnh bình thường thì không xảy ra.

    Các nhà quản lý quỹ phải đưa ra quyết định hầu như trong khoảnh khắc khi các chỉ số liên quan trên thị trường thay đổi. Nếu mắc sai lầm trong một thời điểm ngắn ngủi, bề dầy thành tích trước đó của anh ta có thể tan thành mây khói. Bởi vậy, các nhà quản lý quỹ luôn hoạt động trong tình trạng bị áp lực. Thí nghiệm tâm lý học cho thấy một chút áp lực sẽ làm cho chất lượng hoạt động của chủ thể tốt hơn, nhưng áp lực quá lớn sẽ dẫn đến hậu quả ngược lại.

    Nghiên cứu của Cohen cũng cho thấy nhiều chuyên gia trên thị trường chứng khoán luôn cảm thấy áp lực lớn, và áp lực này càng trở nên lớn hơn khi các thị trường tài chính biến động nhanh hơn như trong thời đại ngày nay.

    Nhờ sử dụng hệ thống máy tính tự động phân tích và lựa chọn như vậy, người ta có thể tránh được vấn đề quá tải thông tin và có được những quyết định chính xác hơn, vì đã có bằng chứng cho thấy máy tính chuẩn đoán được các ?obệnh tật? của một loại cổ phiếu nào đó tốt hơn là của những chuyên gia trên thị trường, mà đến một nửa trong số đó là không được đào tạo bài bản về tài chính như ở Anh.

    Tuy vậy, việc hầu như các quỹ đều sử dụng hệ thống máy tính để phân tích thị trường sẽ dẫn đến hậu quả là thị trường bị bóp méo, và đem thêm đến một biến số mới trên thị trường. Sự dựa vào máy móc như thế này chính là một lý do tại sao các công ty lớn lại hấp dẫn hơn nhiều các công ty nhỏ trên thị trường.

    Nếu một quỹ sử dụng hệ thống máy tính lựa chọn cổ phiếu như thế này, và trong danh mục lựa chọn đó có cổ phiếu của một công ty lớn là A thì hầu như chắc chắn quỹ đó sẽ mua cổ phiếu của A. Như vậy, nhu cầu cổ phiếu A bị đẩy lên cao và giá của nó sẽ phải tăng, bất chấp việc mức giá cao đó có thể không phản ánh giá trị thực của nó.

    Ngược lại, cổ phiếu các công ty nhỏ không được xác định và đưa vào danh mục lựa chọn, và do đó coi như bị quên lãng trên thị trường. Và danh mục đầu ?otối ưu? tư do máy tính lựa chọn ra chính là một biến số mới trên thị trường, biến động định kỳ theo chương trình lập sẵn, với các thông số đầu vào mới.

    Một kết quả rất logic cho thực tế này là hầu như các quỹ (có sử dụng hệ thống máy tính kiểu này) sẽ có một danh mục đầu tư khá tương tự nhau. Vốn sẽ đổ ngày càng nhiều hơn vào các blue-chip do máy tính lựa chọn ra, và giá của chúng sẽ tăng không ngừng.

    Điều này có lẽ phần nào lý giải tại sao giá của một số blue-chip ở thị trường chứng khoán Việt Nam có giá cao ngất ngưởng, mà không thể lý giải được từ các cơ sở kinh tế thông thường.

    Vneconomy
  8. rulebreaker

    rulebreaker Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    23/01/2006
    Đã được thích:
    33
    Phản hồi của CTCP Cao su Hoà Bình về bài báo: ?oNhiều nhà đầu tư cá nhân lỗ nặng?

    (Theo DĐDN) Sau khi báo chí nêu lên những hoài nghi về dự báo tăng trưởng và lợi nhuận của HBC, mới đây DĐDN nhận được phản hồi của ông Phan Ngọc Thạnh - GĐ tài chính HBC.

    Rất tiếc, trên bản tin "HBC - Cơ hội cho nhà đầu tư" chúng tôi đã không lý giải một cách cặn kẽ những con số dự báo được cho là "không thể tin nổi". Có lẽ sự thiếu sót này đã gây nên những thắc mắc, hoài nghi nhằm xây dựng một môi trường đầu tư lành mạnh trong lĩnh vực chứng khoán.

    Nhằm giải thích cặn kẽ, chúng tôi xin cung cấp bảng liệt kê các chỉ tiêu kinh tế đã thực hiện từ 2001 - 2010 và dự báo từ 2007 - 2010, trong đó doanh thu, tỷ lệ lợi nhuận và tỷ lệ tăng trưởng là những chỉ tiêu quan trọng cho việc lập kế hoạch của chúng tôi (biểu đồ).

    Căn cứ bảng liệt kê này, có thể thấy rõ mức tăng trưởng (tốc độ tăng doanh thu) trong suốt 6 năm qua của Hòa Bình là rất cao, bình quân trên 50% năm. Riêng năm 2004 do có sự biến động rất lớn về giá cả thị trường, đặc biệt là vật tư xây dựng chủ yếu (sắt, thép, kim loại, nhựa...) đã ảnh hưởng lớn đến doanh thu và cả lợi nhuận của Cty, Trong năm này, doanh thu giảm 25%, lợi nhuận chỉ đạt 2,24% doanh thu (thấp nhất trong 6 năm). Chủ trương có tính chiến lược của Cty trong thời kỳ này là hạn chế nhận thầu trọn gói (vật tư, nhân công) nhằm tránh rủi ro, bảo toàn nguồn vốn và nhân lực. Do hợp đồng thi công thường có thời hạn không dưới 10 tháng nên doanh số và lợi nhuận của năm 2005 cũng bị ảnh hưởng. Nếu không có sự biến động bất thường thì doanh số, lợi nhuận và tốc độ tăng trưởng của Hòa Bình trong giai đoạn này còn cao hơn rất nhiều.

    Dự báo cho giai đoạn kế tiếp từ 2007 - 2010 tỷ lệ tăng trưởng bình quân chỉ ở mức 46%, tức tương đương khoảng 90% tốc độ tăng trưởng của giai đoạn đầu. Trong khi nếu tính theo sản lượng thì năm 2006 Hòa Bình đạt trên 300 tỷ chứ không phải bằng doanh số (200). Sở dĩ giá trị sản lượng cao hơn doanh số rất nhiều bởi vì, trong năm qua, Hòa Bình đã có nhiều hợp đồng không bao gồm cung ứng vật tư chủ yếu. Điển hình là công trình mở rộng Nhà ga sân bay Tân Sơn Nhất và công trình Trung tâm Hội nghị quốc gia. Trong khi đó, những năm tới Hòa Bình xác định chỉ tập trung cho những công trình bao thầu trọn gói.

    Về sản lượng của năm 2007, cho đến nay Hòa Bình đã có những dự án lớn trong tay bao gồm: công trình Horizon (211 tỷ), tầng hầm cụm chung cư Phú Mỹ (81,5 tỷ), chung cư Sài Gòn Residences (73 tỷ), văn phòng Unilever (54 tỷ), chung cư Sao Mai (25 tỷ ), trường Anh ngữ quốc tế (17 tỷ )... với điều kiện hợp đồng là nhận thầu trọn gói (bao gồm vật tư và nhân công). Ngoài những dự án trên, còn có những công trình khác đang thực hiện dở dang, nhiều dự án đang dự thầu cùng với doanh số của các công ty con, vì vậy kế hoạch doanh số 450 tỷ đồng của năm 2007 là hoàn toàn khả thi.

    Về tỷ lệ lợi nhuận trên doanh số của các năm 2007 - 2010 được xác định căn cứ chủ yếu vào tỷ lệ lợi nhuận của năm 2006 và có xem xét cả những năm trước. Trong đó, có xét đến sự giảm tỷ lệ lợi nhuận vì những lý do bất thường. Năm 2003 lợi nhuận không cao do có sự sắp xếp lại các công ty con mới được thành lập. Năm 2004 và năm 2005 có sự biến động quá lớn vè giá cả vật tư như đã nói trên. Tỷ lệ lợi nhuận bình quân của các năm 2007 - 2010 tăng 12% so với bình quân của các năm 2001, 2002, và 2006 (những năm tình hình kinh doanh tương đối ổn định). Tức là từ 4,75 lên đến 5,3% tỷ lệ lơi nhuận được tính tương đối cao bởi vì trong giai đoạn này Cty có những lợi thế rất lớn, đó là:

    1. Năm 2007 và 2008 được giảm 50% thuế TNDN do tham gia TTCK.

    2. Niêm yết chứng khoán tạo điều kiện tốt hơn cho việc tiếp cận các dự án qui mô lớn, giải quyết vốn đầu tư đổi mói công nghệ cũng như quản lý.

    3. Phương thức thầu trọn gói sẽ mang lại hiệu quản kinh tế cao hơn.

    4. Khi tham gia đầu tư trong lĩnh vực địa ốc, giá trị gia tăng mà Hòa Bình đưa vào không chỉ ở khâu thi công xây dựng, sản xuất vật liệu mà còn ở khâu đầu tư địa ốc. Vì vậy tỷ lệ lợi nhuận được tính cao hơn.

    5. Môi trường kinh doanh thuận lợi sau khi VN gia nhập WTO.

    Tuy có những điều kiện rất thuận lợi trên nhưng mức tăng trưởng dự báo chỉ tính tương đương 90% so với giai đoạn trước. Mức gia tăng tỷ lệ lợi nhuận chỉ 12% so với những năm có điều kiện kinh doanh tương đối ổn định. Chúng tôi cho rằng doanh thu và lợi nhuận dự báo nói trên không phải là quá cao. Xây dựng là một ngành luôn chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế của một quốc gia đang phát triển. Doanh số của Hòa Bình đến năm 2010 là 1.400 tỷ đồng (tương đương 87,5 triệu USD) lợi nhuận 76 tỷ đồng (tương đương 4,75 triệu USD) so với các tập đoàn xây dựng lớn trên thế giới có doanh thu lên đến hàng chục tỷ USD/năm thì vẫn còn rất nhỏ).

    Vấn đề mua cổ phiếu quỹ của Cty hoàn toàn nằm trong kế hoạch chứ không phải khi thấy cổ phiếu giảm giá mới đưa ra. Trước khi niêm yết chính thức ngày 27/12/2006, chúng tôi đã xin phép và được UBCKNN cấp phép vào ngày 19/12/2006. Theo quy định, DN chỉ được mua vào cổ phiếu quỹ sau năm phiên giao dịch (tức là ngày 04/01/2007 - lúc cổ phiếu HBC có chiều hương sụt giảm). Rõ ràng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.

    Về năng lực của Cty trong việc triển khai các dự án

    Mỗi công trình chất lượng cao, hoàn thành an toàn và đúng hạn đều là kết quả của nỗ lực và thiện chí rất lớn của toàn thể các thành viên Hòa Bình. Quá trình phấn đấu vượt qua bao gian nan thử thách đã tạo nên một văn hóa Hòa Bình đặc sắc, thấm vào máu thịt của từng cán bộ - công nhân viên, cũng như tạo nên một thương hiệu Hòa bình đã đi vào lòng khách hàng và công chúng. Văn hóa này bao gồm: môi trường làm việc lành mạnh, trong sạch, thái độ phục vụ văn minh, nhiệt tình, tinh thần hòa bình trong hợp tác và cạnh tranh, tinh thần phấn đấu không mệt mỏi vươn đến Chân - Thiện - Mỹ, sự khát khao chinh phục đỉnh cao trong mọi hoạt động của mình vì những sứ mệnh đã xác định... Đương nhiên, sự thành công còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Nhưng những yếu tố nói trên là nền tảng để Hòa Bình tin tưởng vào sự thành công trong việc thực hiện những kế hoạch của mình. Sự phát triển mạnh mẽ sẽ giúp cho những giá trị văn hóa DN tốt đẹp mà Hòa Bình đã tạo nên được lan tỏa rộng hơn nữa. Điều này chắc chắn sẽ mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư cũng như cho xã hội.

    Hi vọng, phần trình bày này giải tỏa được một số thắc mắc của các bạn. Chúng tôi rất sẵn sàng trao đổi thêm để làm sáng tỏ mọi vấn đề.

    Liên hệ:
    Phan Ngọc Thạnh - Giám đốc Tài chính HBC
    Điện thoại: 08.9325030 (ext. 241) - 09
    Email: pnthanhh@yahoo.comPhản hồi của CTCP Cao su Hoà Bình về bài báo: ?oNhiều nhà đầu tư cá nhân lỗ nặng?

    Email: pnthanhh@yahoo.co

    (tiếp)

    Bùng nổ cơn sốt săn lùng cổ phiếu
    Cập nhật: 3:07 PM, 23/01/2007
    Cổ phiếu của Công ty chứng khoán ACB.
    Lợi nhuận từ việc kinh doanh cổ phiếu (CP) trên thị trường đạt từ 20% đến 100% trên số vốn bỏ ra trong thời gian qua đã làm cho nhiều người đổ xô vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, do nguồn cung không đáp ứng đủ cầu nên đã diễn ra việc thu tóm, săn lùng CP bằng mọi cách.

    Đấu bằng mọi giá!

    Phải mất thời gian khá lâu sau khi thị trường chứng khoán nước ta đi vào hoạt động, phương thức đưa cổ phiếu ra thị trường thứ cấp bằng hình thức đấu giá mới được thực hiện.

    Đó là ngày 17-2-2005, tại Dinh Thống Nhất (TPHCM), Công ty cổ phần Vinamilk tiến hành bán đấu giá 1.827.000 CP VNM với giá khởi điểm 220.000 đồng/CP. Kết quả bất ngờ đã xảy ra khi giá trúng thầu bình quân lên đến 313.000 đồng/CP.

    Làm lợi cho Nhà nước gần 400 tỷ đồng, đồng thời xóa bỏ việc ban phát quyền mua CP bằng hình thức cổ phần khép kín. Phương thức đấu giá trở nên hấp dẫn giới đầu tư khi Tổng công ty Vinaconex tổ chức đấu giá ở hai đầu Hà Nội và TPHCM vào tháng 10-2006.

    Từ giá khởi điểm 11.000 đồng/CP, giá thắng thầu bình quân đã đạt mức 26.029 đồng/CP. Mức giá này một số nhà đầu tư cho là cao ở thời điểm ấy nhưng chỉ một tuần sau, giá giao dịch ở thị trường tự do (OTC) của Vinaconex tăng lên đến 35.000 đồng/CP. Và đến tháng 12-2006 đã đẩy lên mức 60.000 đồng/CP. Đến thời điểm này, cổ phiếu trên được chào mua bán ở mức 90.000 đồng/CP!

    Lợi nhuận mà người thắng thầu thu được từ giá đấu giá và giá thị trường quá lớn đã tạo ?ochất men? kích thích mọi người, mọi giới vào cuộc. Cộng với sự sôi động của thị trường chứng khoán trong 3 tháng qua và việc giá cổ phiếu thay đổi liên tục với chiều đi lên đã làm cho sàn đấu giá trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết.

    Một cuộc đấu giá bây giờ có từ 2.000 đến trên 7.000 nhà đầu tư tham gia! Việc đặt giá trở nên khó đoán hơn bao giờ hết do nhà đầu tư gần như không còn dựa vào kết quả kinh doanh cũng như tiềm năng tương lai của doanh nghiệp mà cứ đấu bằng mọi giá để được sở hữu cổ phiếu. Giá đấu thắng của Công ty cổ phần (CTCP) Vận tải dầu khí lên đến 81.237 đồng/CP, Công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí 160.250 đồng/CP!

    Tuy nhiên, những kỷ lục này bị giá trúng của Khu công nghiệp (KCN) Hiệp Phước làm lu mờ khi giá CP đấu lên đến 225.569 đồng/CP. Tỷ lệ người trúng giá thường chỉ chiếm khoảng 5% số người tham gia, thậm chí như lượng nhà đầu tư thắng trong phiên đấu giá KCN Hiệp Phước chỉ chiếm khoảng 0,4%. Điều này cho thấy mức độ khốc liệt của phương thức đấu giá doanh nghiệp.

    Không đấu vẫn thắng (?!)

    Không thể bỏ qua lợi nhuận béo bở từ kinh doanh CP, những nhà đầu tư không thắng thầu đã sử dụng nhiều phương cách để có được CP mà họ muốn. Ai cũng biết công nhân, nhân viên các công ty cổ phần được mua CP của chính công ty họ ở mức giá dưới giá thắng thầu khoảng 30%.

    Ngay sau khi có kết quả trúng thầu, giới đầu tư liền tiếp xúc ngay với đối tượng trên để gạ mua cổ phiếu với mức giá trên giá trúng thầu từ 1.000 đến 5.000 đồng/CP.

    Hiện nay, đang có đợt bùng phát thu gom CP ở các doanh nghiệp cao su Tây Ninh, Thống Nhất, Đồng Phú? Một hình ảnh trở nên quen thuộc khi những xe hơi mang bảng số TPHCM chạy bon bon trong các lô cao su ở các tỉnh miền Đông Nam bộ để tiếp cận với công nhân. Việc mua tận gốc này còn diễn ra ở các đơn vị dệt may như Nhà Bè, Việt Thắng...

    Ngoài ra, một số người không trực tiếp tham gia đấu thầu mà tiến hành mua lại CP từ những nhà đầu tư trúng thầu ?obán lúa non?. Và thường mức giá này cao hơn giá trúng thầu khoảng 5.000-10.000 đồng/CP, xem ra vẫn hời hơn nếu đặt hớ giá trong phiên đấu thầu chính thức.

    Nghề mới: Cò cổ phiếu

    Nhà đầu tư hiện nay cũng dễ dàng tìm ra nguồn cung cũng như bán lại CP từ đội quân ?ocò? chứng khoán. Đội quân này xuất thân từ nhiều thành phần và xuất hiện nhiều nhất kể từ giữa 2006 đến nay tại các công ty chứng khoán.

    Ở Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) không dưới 50 ?ocò? có mặt thường xuyên để tìm nguồn khách. Hưởng phần trăm từ mua và bán CP, có ?ocò? kiếm được trên 30 triệu đồng/ngày.

    Có sự liên kết giữa những nhóm ?ocò?, thậm chí đường dây này có thể thực hiện giao dịch từ Hà Nội vào TPHCM và ngược lại. Đây cũng là đội quân tung tin thất thiệt khiến thị giá nhiều CP tăng giảm vô căn cứ. Khi có trong tay một mã chứng khoán nào đó, họ hết lời ca ngợi hoặc thêu dệt những kế hoạch kinh doanh mà đến những vị giám đốc của chính các công ty ấy cũng không nghĩ ra được.

    Chỉ với mục đích bán và đẩy giá CP đó lên thật cao đã làm cho người đầu tư vào CP của TDH, SDN, SFN? thời gian qua thành nạn nhân. Những cổ phiếu trên được kích giá lên khá cao trước khi được niêm yết, song đến khi giao dịch chính thức trên TTGDCK đã có một sự đều chỉnh giá, làm không ít nhà đầu tư mất đi một khoảng tiền không nhỏ.

    Nguy hiểm hơn nữa, trong đội quân này còn có nhân viên của các công ty chứng khoán nên họ dễ dàng gây được lòng tin của giới đầu tư. Nhưng qua họ, nhà đầu tư thường thua nhiều hơn là thắng trong việc đầu tư vào một loại CP nào đó. Riêng họ thì dễ dàng hốt bạc mà không cần bỏ vốn.

    Rủi ro trong việc săn lùng CP không phải là nhỏ. Khi một số nhà đầu tư hết ?osay? và bình tĩnh lại, thị trường đã xuất hiện tình trạng bỏ cọc sau khi thắng thầu. Kết quả bỏ thầu ở Công ty CP Cao su Đồng Phú và Công ty TNHH Một thành viên Cao su Tây Ninh là một ví dụ cụ thể.

    Số lượng cổ phần nhà đầu tư từ chối mua cổ phần của Cao su Đồng Phú là 11.212 cổ phần và Cao su Tây Ninh là 16.006 cổ phần. Như vậy, có nghĩa là họ chấp nhận mất đi số tiền cọc tương đương 498.089.400 đồng chỉ cho hai loại CP trên. Xem ra có được CP cũng quá chua cay. Chiến thắng ở cuộc chơi này là không dễ.

    ---
    Ông báo DDDN lại nhầm HBC thành cao su Hòa Bình, còn ông SGGP thì lại bảo bỏ cọc gần 500 triệu trong khi mất cọc chỉ khoảng 50 triệu thôi. Tin mấy bác nhà báo thì có ngày chít.
  9. pinkdayforyou

    pinkdayforyou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/04/2006
    Đã được thích:
    0
    Tình cờ đọc được qua bài báo đăng trên ngoisao.net:


    Thứ tư, 24/1/2007, 15:23 GMT+7

    TTCK cần có sự can thiệp

    Kết thúc phiên giao dịch ngày 19/1, tại Trung tâm giao dịch chứng khoán TP HCM, chỉ số VN-Index đạt hơn 1.023 điểm, tăng gần 40 điểm, có 64 cổ phiếu tăng giá. Giá tăng cao chủ yếu ở các mã cổ phiếu đại gia FPT, Sam, Ree...

    Tuy giá chứng khoán tăng cao nhưng khối lượng giao dịch cổ phiếu trên toàn thị trường lại giảm đến gần 40%, giá trị giao dịch cổ phiếu chỉ đạt hơn 800 tỷ đồng (phiên trước đạt hơn 1.200 tỷ đồng).

    Thị trường chứng khoán Việt Nam tăng trưởng quá nóng khiến không ít chuyên gia bày tỏ thái độ lo ngại. Vì vậy, nhà nước cần phải có biện pháp can thiệp ngay để hạ nhiệt thị trường chứng khoán.

    Đầu cơ chứ không phải đầu tư

    Theo nhà đầu tư Nguyễn Thị Huyền, có mặt tại sàn giao dịch của Công ty chứng khoán ACBS, thị trường diễn biến trong những ngày qua là không thể chấp nhận được khi một số mã cổ phiếu như Sacombank mới chỉ bắt đầu tăng giá kịch trần có một phiên, ngay lập tức phiên sau lệnh mua cao gấp sáu lần lệnh bán. Như vậy chứng tỏ rằng thị trường đang xuất hiện sự đầu cơ của một nhóm người nào đó.

    Theo Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đăng Dờn, Phó Trưởng khoa Ngân hàng Đại học Kinh tế TP HCM, thị trường chứng khoán đang bất bình thường, sự nghịch lý bởi vì giá cổ phiếu chỉ tăng ở một số mã cổ phiếu giá cao. Trong khi đó, khối lượng giao dịch trên toàn thị trường lại giảm. Điều này chứng tỏ có sự "làm giá" của một nhóm các nhà đầu tư với nhau để đẩy giá cổ phiếu lên cao.

    Một vị đại diện của công ty quản lý quỹ đầu tư có tiếng hàng đầu cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam đang rơi vào trạng thái đầu cơ chứ không phải còn là đầu tư nữa. Thị trường chứng khoán đang rối loạn bởi vì đã xuất hiện quá nhiều tin đồn để tung hỏa mù, đẩy giá cổ phiếu tăng cao trong nhiều phiên liên tiếp. Việc làm này của các nhà đầu cơ đang phát huy tác dụng khi đã thu hút được nhiều nhà đầu tư đổ tiền mua cổ phiếu. Trong thời gian vừa qua, các nhà đầu cơ đã bán ra cổ phiếu để kiếm lời và chỉ số VN-Index trong mấy phiên sau cũng đã sụt giảm.

    Tin đồn về lãi tiền tỷ

    Thị trường chứng khoán đang có sức hút rất lớn đối với công chúng. Bởi lẽ nhiều tin đồn về siêu lợi nhuận có được từ đầu tư chứng khoán đã trở nên như những câu chuyện ly kỳ về sự đổi đời mà nhiều người thích nghe hơn bất cứ một tin nào khác.

    Theo Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Dờn, đó là những tin đồn nhằm thu hút được nhiều người dân chưa hiểu biết về chứng khoán nhưng bị hấp dẫn bởi lợi nhuận mà bỏ tiền mua chứng khoán. Mặc dù mọi người vẫn biết là đầu tư chứng khoán rủi ro cao nhưng rủi ro thế nào thì chưa thấy ai kể.

    Một chuyên gia chứng khoán cho rằng đầu tư chứng khoán không thể siêu lợi nhuận là từ tiền triệu sau một, hai tháng kiến được tiền tỷ. Vị chuyên gia này cũng làm phép tính giả sử một người có một triệu rưỡi đồng, đem mua 100 cổ phiếu A với giá là 15.000 đồng/cổ phiếu (giá cổ phiếu thấp nhất thị trường). Mỗi phiên giá của cổ phiếu này tăng kịch trần thì cũng chỉ tăng 5% (tương đương mức lời 3.000 đồng/phiên). Nếu cổ phiếu này tăng kịch trần trong suốt một tháng (điều không thể xảy ra), nhà đầu tư cũng chỉ lời chưa đến 80.000 đồng.

    Dư luận báo chí tuần qua cũng đưa nhiều thông tin phát đi từ các cơ quan nhà nước cảnh báo thị trường chứng khoán đang có sự tăng trưởng nóng, đang có "bàn tay ma thuật" đứng đằng sau để thao túng thị trường. Những thông tin đó cũng không giúp thị trường chứng khoán giảm nhiệt mà trái lại các mã chứng khoán lại sốt hơn.

    Các nhà chuyên môn cũng đang rất lo ngại bởi tình hình thị trường chứng khoán quá nóng và cần có sự can thiệp ngay lập tức từ phía Ủy ban Chứng khoán nhà nước. Nhiều chuyên gia chứng khoán cho rằng nhà nước cần can thiệp để hạ nhiệt bằng cách tạm thời đóng cửa thị trường khoảng ba phiên giao dịch để các nhà đầu tư lấy lại bình tĩnh.
    Đồng thời, Trung tâm chứng khoán cũng phải có nhiệm vụ công bố cho dư luận biết đầy đủ các thông tin mà dư luận đang nghi ngờ, sau đó mới mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư giao dịch trở lại. Việc làm này hay được các trung tâm chứng khoán lớn trên thế giới sử dụng.

    (Theo Pháp Luật TP HCM)

    ------------------

    Đến chết mất thôi. Bài viết toàn đưa ý kiến của các "chuyên gia".

    Cả bài viết thì cảm tính, nhận xét linh tinh, cóp nhặt, vô giá trị, không được một câu ra hồn.

    Ví dụ thì ngớ ngẩn. Lại còn một chuyên gia chứng khoán..., vị chuyên gia này cũng làm phép tính .... Ối giời ơi, chuyên gia không biết tính 5% của 1.500.000 là bao nhiêu, cũng không biết tính lũy kế.

    Không biết hàng ngày có bao nhiêu bài báo ngớ ngẩn kiểu thế này.
  10. KTS12

    KTS12 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/12/2006
    Đã được thích:
    0
    --------------------------------

    Thật là hết nói nổi trình độ nhận thức, văn chương và cả phép tính % mà các bác nhà báo này cũng không có một căn bản nào....điều nhà nước cần làm lúc này là không phải việc can thiệp vào TTCK, phát biểu cảnh báo inh ỏi cả lên mà nên mở các khóa đào tạo kiến thức CK cho các bác nhà báo lá cải và các "chuyên gia" chuyên phát biểu linh tinh này, bên cạnh đó cũng nên có các lớp phổ cập tóan học cơ bản ( + - x / ) đêm cho họ trước khi cấp bằng để viết về Ck các bác nhẩy.....

Chia sẻ trang này