Biển Đông - Quyết tâm cao nhất bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hải đảo - tập 5

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi GBlock, 22/06/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
3516 người đang online, trong đó có 189 thành viên. 06:11 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
Chủ đề này đã có 110727 lượt đọc và 2177 bài trả lời
  1. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Những bài báo 31.08.2009Tư liệuNhìn ra nước bạn: Tỉnh Vân Nam

    Vân Nam (chữ Hán phồn thể: 雲南; chữ Hán giản thể: 云南; pinyin: Yunnan) là một tỉnh ở phía tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, giáp biên giới với Việt Nam. Vân Nam có dân số 44.150.000 người, diện tích 394.100 km² (rộng hơn diện tích Việt Nam). Thủ phủ của tỉnh này là thành phố Côn Minh. Vân Nam là nơi bắt nguồn của sông Hồngsông Đà, sông Mê Kông cũng chảy qua Việt Nam.



    Các đơn vị hành chính

    Vân Nam được chia thành 16 đơn vị hành chính cấp địa khu, gồm 8 thành phố (địa cấp thị) và 8 châu tự trị:

    Thành phố Côn Minh (昆明) với 5 quận (khu), 1 thị xã (An Ninh), 5 huyện và 3 huyện tự trị.

    Thành phố Khúc Tĩnh (曲靖) với 1 quận, 1 thị xã (Tuyên Uy) và 7 huyện.

    Thành phố Ngọc Khê (玉溪) với 1 quận, 5 huyện và 3 huyện tự trị.

    Thành phố Bảo Sơn (保山) với 1 quận và 4 huyện.

    Thành phố Chiêu Thông (昭通) với 1 quận và 10 huyện.

    Thành phố Lệ Giang (丽江) với 1 quận, 2 huyện và 2 huyện tự trị.

    Thành phố Tư Mao (思茅) với 1 quận và 6 huyện tự trị.

    Thành phố Lâm Thương (临沧) với 1 quận, 4 huyện và 3 huyện tự trị.

    Châu tự trị dân tộc Thái-Cảnh Pha Đức Hồng (德宏傣族景颇族自治州) với 2 thị xã (Lộ Tây, Thụy Lệ) và 3 huyện.

    Châu tự trị dân tộc Lật Túc Nộ Giang (怒江傈僳族自治州) với 2 huyện và 2 huyện tự trị.

    Châu tự trị dân tộc Tạng Địch Khánh (迪庆藏族自治州) với 2 huyện và 1 huyện tự trị.

    Châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý (大理白族自治州) với 1 thị xã Đại Lý, 8 huyện và 3 huyện tự trị.

    Châu tự trị dân tộc Di Sở Hùng (楚雄彝族自治州) với 1 thị xã (Sở Hùng) và 9 huyện tự trị.

    Châu tự trị dân tộc Cáp Nê, Di Hồng Hà (红河哈尼族彝族自治州) với 2 thị xã (Cá Cựu, Khai Viễn), 8 huyện và 3 huyện tự trị.

    Châu tự trị dân tộc Choang-Miêu Văn Sơn (文山壮族苗族自治州) với 8 huyện.

    Châu tự trị dân tộc Thái Tây Song Bản Nạp (西双版纳傣族自治州) với 1 thị xã (Cảnh Hồng) và 2 huyện.

    Tổng cộng có 129 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 9 thị xã, 79 huyện, 29 huyện tự trị và 12 quận.

    Biểu tượng

    Camellia reticulata, một loài cây trà có nguồn gốc từ tỉnh Vân Nam, là biểu tượng của tỉnh này.

    Lịch sử

    "Người Nguyên Mưu" (元谋人), hóa thạch của người đứng thẳng (Homo erectus) được những người xây dựng đường sắt khai quật trong thập niên 1960, đã được xác định là hóa thạch người cổ nhất đã biết đến ở Trung Quốc. Vào thời kỳ đồ đá mới, ở đây đã có sự định cư của con người trong khu vực hồ Điền Trì (滇池). Những người nguyên thủy này sử dụng các công cụ bằng đá và đã xây dựng được các công trình đơn giản bằng gỗ.

    Vào khoảng thế kỷ 3 TCN, khu vực trung tâm của Vân Nam, xung quanh Côn Minh ngày nay đã được biết đến như là Điền. Năm 279 TCN một viên tướng nước Sở là Trang Giao hay Trang Kiệu (庄跤/庄峤) đã từ thượng nguồn sông Dương Tử tiến vào khu vực này, lập ra nước Điền và tự xưng là "vua nước Điền". Ông và những người kế nghiệp ông đã mang tới Vân Nam ảnh hưởng của người Hán, sự khởi đầu của một lịch sử lâu đời các cuộc di cư và sự mở rộng ảnh hưởng văn hóa.

    Năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc và mở rộng quyền lực của mình xuống phía nam. Các châu và huyện đã được thiết lập tại đông bắc Vân Nam. Đường giao thông đang có tại Tứ Xuyên đã được mở rộng về phía nam tới gần Khúc Tĩnh (曲靖) ngày nay, ở miền đông Vân Nam - được gọi là "Ngũ xích đạo" (đường 5 thước). Năm 109 TCN, Hán Vũ đế phái Vương Thiên Vũ đến đất Điền tuyên truyền sức mạnh của quân Hán nhưng Điền vương ỷ có mấy vạn binh sĩ lại có những bộ tộc cùng họ ở phía đông bắc là Lao Thâm, Mạc My ủng hộ nên không chịu quy phục. Năm 109 TCN Vũ đế điều động quân Ba Thục tấn công tiêu diệt Lao Thâm, Mạc My xua quân tiến sát đất Điền. Điền vương xin đầu hàng, nhà Hán giao quyền cho tướng Quách Xương đặt quận Ích châu với 24 huyện trực thuộc. Nơi đặt trụ sở của quận này là huyện Điền Trì (ngày nay là Tấn Ninh). Về sau lại hàng phục được Côn Minh sáp nhập vùng này vào quận Ích châu. Một huyện khác được gọi là "Vân Nam", có lẽ là lần sử dụng đầu tiên của tên gọi này. Để mở rộng quan hệ thương mại mới hình thành với Miến Điện và Ấn Độ, Hán Vũ Đế còn giao cho Đường Mông (唐蒙) nhiệm vụ bảo trì và mở rộng Ngũ xích đạo, đổi tên nó thành "Tây nam Di đạo" (西南夷道). Vào thời gian đó, kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp ở Vân Nam đã được cải thiện rõ rệt. Người dân địa phương sử dụng các công cụ và cày bừa bằng đồng thau cũng như chăn thả nhiều loại gia súc, như trâu, bò, ngựa, cừu, dê, lợn và chó.

    Các nhà nhân loại học đã xác định là những người này có quan hệ họ hàng gần với những người mà ngày nay gọi là người Thái. Họ sinh sống theo bộ tộc, đôi khi được những người Hán bị lưu đày đứng đầu.

    Trong thời kỳ Tam Quốc, lãnh thổ của Vân Nam ngày nay, Kiềm Tây (黔西) và miền nam Tứ Xuyên được gọi chung là "Nam Trung" (南中). Sự tan rã của quyền lực trung ương tại Trung Quốc đã làm gia tăng tính tự trị của Vân Nam cũng như tăng thêm quyền lực cho các bộ tộc địa phương. Năm 225, một chính trị gia nổi tiểng là Gia Cát Lượng (诸葛亮) đã dẫn quân đến Vân Nam để dẹp yên các bộ tộc này. Bảy lần bắt và tha Mạnh Hoạch (孟获), một thủ lĩnh địa phương, đã được huyền thoại hóa trong văn hóa dân gian Trung Quốc.

    Vào thế kỷ 4, miền bắc Trung Quốc chủ yếu bị những bộ tộc từ Trung Á tràn sang. Vào thập niên 320, thị tộc Thoán () đã di cư tới Vân Nam. Thoán Sâm (爨琛) tự xưng làm vua và duy trì quyền lực tại Điền Trì (khi đó gọi là Côn Xuyên 昆川). Từ đó trở đi, thị tộc này đã cai quản Vân Nam trên 400 năm. Năm 738, Bì La Các (皮罗阁), thủ lĩnh bộ lạc Mông Xá, đã thành lập vương quốc Nam Chiếu (南诏) tại Vân Nam với kinh đô tại thành Thái Hòa (nay là Đại Lý) lập ra năm 739. Ông được nhà Đường công nhận là "Vân Nam vương". Từ Đại Lý, mười ba đời vua Nam Chiếu đã cai trị trên 2 thế kỷ và đóng một vai trò quan trọng trong mối quan hệ luôn biến đổi giữa Trung Quốc và Tây Tạng. Năm 902, quyền thần của Nam Chiếu là Trịnh Mãi chiếm đoạt quyền hành, đổi tên nước thành Đại Trường Hòa. Năm 929, Triệu Thiện Chính diệt Đại Trường Hòa, lập ra nước Đại Thiên Hưng. Năm 930, tiết độ sứ Đông Xuyên là Dương Càn Hưng diệt Đại Thiên Hưng, đổi tên nước thành Đại Nghĩa Ninh. Năm 937, thủ lĩnh bộ tộc người Bạch là Đoàn Tư Bình (段思平) đã diệt Đại Nghĩa Ninh và thành lập Vương quốc Đại Lý, đóng đô tại Đại Lý. Vương quốc này khi đó bao gồm lãnh thổ ngày nay thuộc các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, tây nam Tứ Xuyên, bắc Miến Điện, bắc Lào và một số khu vực tại tây bắc Việt Nam. Năm 1253, vương quốc Đại Lý bị người Mông Cổ và quân đội của đại hãn Mông Kha tấn công. Năm 1276, Hốt Tất Liệt cho thành lập tỉnh Vân Nam. Năm 1381, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương phái các tướng là Phó Hữu ĐứcMộc Anh đem quân chiếm Vân Nam, diệt Lương vương của triều Nguyên. Cuối thời nhà Minh, hoàng đế Nam Minh (Quế vương) là Chu Do Lang (niên hiệu Vĩnh Lịch, 1646-1662) đã chạy tới Vân Nam. Năm 1659, nhà Thanh sai Bình Tây vương Ngô Tam Quế tấn công Vân Nam. Năm 1662, Ngô Tam Quế tấn công sang Miến Điện, bắt được Vĩnh Lịch bắt treo cổ chết. Giai đoạn từ 1856 tới 1873, người Hổi nổi dậy dưới sự chỉ huy của Đỗ Văn Tú. Sau khi thất bại thì số lượng người Hồi đã giảm mạnh. Trong thời kỳ này người Anh chiếm đóng Miến Điện còn người Pháp chiếm đóng Việt Nam nên cả hai đều có ảnh hưởng tới Vân Nam.

    Năm 1910, người Pháp cho xây dựng đường sắt Điền Việt nối Côn Minh với Hải Phòng, đoạn trong Vân Nam gọi là Côn Hà thiết lộ (đường sắt Côn Hà).

    Ngày 30 tháng 10 năm 1911, nhân dịp tết trùng dương, Thái Ngạc và Đường Kế Nghiêu nổi dậy thoát ly khỏi nhà Thanh. Ngày 25 tháng 12 năm 1915, hai ông này phát động phong trào phản đối Viên Thế Khải. Trong thời kỳ Trung Hoa dân quốc, tại Vân Nam hình thành một cục diện cát cứ, từ 1928 tới 1945 do Đường Kế Nghiêu và Long Vân thống lĩnh. Năm 1942, trên 10 vạn quân Trung Quốc tấn công sang Miến Điện, phối hợp cùng quân Anh chống lại quân đội Nhật Bản. Giai đoạn từ 1938 tới 1946, các trường đại học như đại học Bắc Kinh, đại học Thanh Hoa, đại học Nam Khai đã hợp nhất tại Côn Minh để lập ra Đại học Quốc gia Liên hợp Tây Nam.

    Năm 1894, George Ernest Morrison, một phóng viên người Úc làm việc cho The Times, đã du hành từ Bắc Kinh tới Miến Điện, khi đó bị người Anh chiếm đóng, thông qua Vân Nam. Cuốn sách của ông An Australian in China (Người Úc tại Trung Quốc) đã miêu tả chi tiết những thử thách ông đã trải qua.

    Từ năm 1916 đến năm 1917, Roy Chapman AndrewsYvette Borup Andrews đã dẫn đầu đoàn thám hiểm động vật châu Á thuộc Viện bảo tàng tự nhiên Hoa Kỳ đi suốt phần lớn khu vực miền tây và miền nam Vân Nam, cũng như các tỉnh khác của Trung Quốc. Cuốn sách Camps and Trails in China đã ghi chép lại những thử thách của họ.

    Địa lý

    Vân Nam là tỉnh cực tây nam của Trung Quốc, với đường Bắc chí tuyến chạy ngang qua phần phía nam của tỉnh. Tỉnh này có diện tích khoảng 394.000 km², chiếm 4,1% tổng diện tích Trung Quốc. Tỉnh này có ranh giới với Khu tự trị người Choang Quảng Tây và tỉnh Quý Châu ở phía đông, tỉnh Tứ Xuyên ở phía bắc, Khu tự trị Tây Tạng ở phía tây bắc. Tỉnh này cũng có biên giới dài 4.060 km với Myanma ở phía tây, Lào ở phía nam, Việt Nam ở phía đông nam.

    Ranh giới-Biên giới

    Các tỉnh, khu tự trị có ranh giới là Khu tụ trị Tây Tạng, Tứ Xuyên, Quý ChâuQuảng Tây. Các quốc gia có biên giới với tỉnh này là Việt Nam (các tỉnh Việt Nam tiếp giáp gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang; các đơn vị hành chính của Vân Nam tiếp giáp với Việt Nam gồm châu Hồng Hà, Văn Sơn, địa cấp thị Phổ Nhị; cửa khẩu chính qua biên giới theo đường bộ và đường sắt là tại Hà Khẩu - Lào Cai), Lào (tại Boten) và Myanma (với cửa khẩu biên giới chính tại Thụy Lệ, đây cũng là của khẩu biên giới bộ duy nhất được phép đi lại đối với những người không có quốc tịch Trung Quốc hay Myama).

    Cao độ

    Điểm cao nhất ở phía bắc là đỉnh Kawagebo tại huyện Đức Khâm trên cao nguyên Địch Khánh, nó cao khoảng 6.740 m; và điểm thấp nhất là thung lũng Hồng Hà tại huyện Hà Khẩu, với cao độ 76,4 m.

    Sông ngòi

    Tỉnh này được 6 hệ thống sông lớn chính tưới tiêu:

    Dương Tử (长江; Trường Giang), tại đây được biết dưới tên gọi Kim Sa Giang (sông cát vàng), tưới tiêu cho phần phía bắc của tỉnh.

    Châu Giang, với thượng nguồn của nó gần Khúc Tĩnh, tưới tiêu cho khu vực miền đông.

    Mê Kông (澜沧江; Lan Thương Giang), chảy từ Tây Tạng tới miền Nam Việt Nam để đổ ra biển Đông, tạo thành biên giới tự nhiên giữa Lào và Myanma, giữa Lào và Thái Lan, qua Campuchia để tới Việt Nam.

    Hồng Hà (红河/元江; Hồng Hà/Nguyên Giang) có thượng nguồn tại các dãy núi ở phía nam Đại Lý và đổ ra biển Đông sau khi chảy qua Hà Nội, Việt Nam.

    Nộ Giang/Salween (怒江; nù jiāng), chảy ra vịnh Martabanbiển Andaman sau khi chảy qua Myanma.

    Sông Irrawaddy có một số sông nhánh nhỏ ở miền viễn tây Vân Nam, cũng như Độc Long Giang và các sông trong châu tự trị Đức Hoành.

    Các nguồn lực tự nhiên

    Vân Nam giàu các nguồn lực tự nhiên. Tỉnh này được biết đến như là vương quốc của thực vật, động vật và các kim loại màu cũng như các loài cây thuốc.

    Tỉnh này không những có các loài thực vật nhiệt đới, cận nhiệt đới, ôn đới, hàn đới nhiều hơn so với các tỉnh khác tại Trung Quốc, mà còn có nhiều loài thực vật cổ, cũng như các loài được đưa từ nước ngoài vào. Trong số khoảng 30.000 loài thực vật tại Trung Quốc thì có thể tìm thấy khoảng 18.000 loài tại Vân Nam. Vân Nam cũng là nơi có nhiều loài động vật quí hiếm trên thế giới sinh sống, nổi bật nhất là hổ, voibò tót khổng lồ.

    Trên 150 loại khoáng sản đã được phát hiện tại Vân Nam. Giá trị tiềm năng của các loại khoảng sản này tại Vân Nam vào khoảng 3 nghìn tỷ nhân dân tệ ( khoảng 350 tỷ USD), 40% trong số đó là từ các loại khoảng sản cung cấp nhiên liệu, 7,3% từ khoáng sản kim loại và 52,7% từ các khoáng sản phi-kim loại.

    Vân Nam đã được xác nhận là có trầm tích của 86 loại khoáng sản tại 2.700 khu vực. Khoảng 13% trong số các loại khoáng sản trầm tích này có trữ lượng lớn nhất trong số các mỏ khoáng sản tại Trung Quốc, và 2/3 các trầm tích có trữ lượng lớn nhất tại lưu vực sông Dương Tử và miền nam Trung Quốc. Vân Nam đứng đầu Trung Quốc về các loại khoáng sản chứa kẽm, chì, thiếc, cadmi, indi, tali và crocidolit.

    Vân Nam có nhiều mưa và sông hồ. Tổng lưu lượng nước hàng năm chảy trong tỉnh này là khoảng 200 km³, ba lần lớn hơn lưu lượng của sông Hoàng Hà. Các sông chảy vào tỉnh này bổ sung thêm 160 km³, có nghĩa là có trên 10.000 m³ khối nước cho mỗi người dân trong tỉnh trong một năm. Con số này cao gấp 4 lần so với trung bình toàn Trung Quốc. Lượng nước lớn này tạo điều kiện cho việc phát triển thủy điện.

    Vân Nam còn hấp dẫn với nhiều địa điểm du lịch, bao gồm nhiều vùng phong cảnh đẹp, các tập quán dân tộc đa dạng và một khí hậu dễ chịu.

    Dân cư

    Tổng dân số: 43,33 triệu (năm 2002)

    Tỷ lệ tăng dân số: 1,06%

    Tuổi thọ (trung bình): 65,1 năm (nam) và 67,7 năm (nữ) (dữ liệu năm 1995)

    Dân tộc

    Vân Nam đáng chú ý vì sự đa dạng sắc tộc cao. Tỉnh này có nhiều dân tộc hơn tất cả các tỉnh và khu tự trị khác của Trung Quốc. Trong số 56 dân tộc được công nhận tại Trung Quốc, người ta thấy tại Vân Nam là 25. Khoảng 38,07% dân số trong tỉnh này là các nhóm sắc tộc thiểu số như người Di, Bạch, Cáp Nê (Hà Nhì), Tráng (Choang), Thái, Miêu (H'Mông), Lật Túc, Hồi, Lạp Hỗ (La Hủ), Ngõa (Va), Nạp Tây, Dao, Tạng, Cảnh Pha, Bố Lãng, Phổ Mễ, Nộ, A Xương, Cơ Nặc, Mông Cổ, Độc Long, Mãn, Thủy và Bố Y. Một vài dân tộc khác cũng có đại diện, nhưng hoặc là họ không sống trong các khu dân cư đông đúc hoặc số lượng không đạt tới ngưỡng quy định là 5.000 người để có thể được công nhận có địa vị một cách chính thức là tồn tại trong tỉnh. Một số nhóm sắc tộc, chẳng hạn người Ma Toa, đã được công nhận chính thức như là một phần của người Nạp Tây, trong quá khứ đã từng yêu cầu có địa vị chính thức như là một dân tộc thiểu số, và hiện nay được công nhận là dân tộc Ma Toa.

    Các nhóm sắc tộc phân bổ rộng khắp trong tỉnh. Khoảng 25 các dân tộc thiểu số sống trong các khu dân cư đông đúc, mỗi cộng đồng có số dân trên 5.000 người. Mười dân tộc thiểu số sống tại khu vực biên giới và thung lũng các sông, bao gồm người Hồi, Mãn (người Mãn, dấu vết còn lại của thời kỳ chính quyền nhà Thanh, không sống trong các khu dân cư đông đúc và trong nhiều khía cạnh thì không khác gì người Hán), Bạch, Nạp Tây, Mông Cổ, Tráng, Thái, A Xương, Bố Y và Thủy, với tổng dân số khoảng 4,5 triệu; những người sống trong các khu vực núi thấp là người Hà Nhì, Dao, Lạp Hỗ (La Hủ), Va, Cảnh Pha, Bố Lãng và Cơ Nặc, với tổng dân số khoảng 5 triệu; còn những người sống trong các khu vực núi cao là người Miêu, Lật Túc, Tạng, Phổ Mễ và Độc Long, với tổng dân số khoảng 4 triệu.

    Câu truyện thường được nhắc lại kể về chuyện ba anh em khi sinh ra đã nói các thứ tiếng khác nhau: Tạng, Nạp TâyBạch. Mỗi người sống trong các khu vực khác nhau của Vân Nam và Tây Tạng, tương ứng với các vùng cao, vùng trung và vùng thấp.

    Ngôn ngữ

    Các phương ngữ chủ yếu trong tiếng Trung được nói tại Vân Nam thuộc về nhánh tây nam của nhóm Quan Thoại, và vì thế là tương tự như các phương ngữ láng giềng ở các tỉnh Tứ XuyênQuý Châu. Các đặc trưng đáng chú ý trong nhiều phương ngữ Vân Nam là việc mất đi một phần hay toàn bộ khác biệt giữa /n/ và /ŋ/, cũng như không có /y/.

    Sự đa dạng sắc tộc của Vân Nam được phản ánh trong sự đa dạng ngôn ngữ của nó. Các thứ tiếng được nói tại Vân Nam bao gồm nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến chẳng hạn như Bạch, Di, Tạng, Hà Nhì, Cảnh Pha, Lisu, Lạp Hỗ, Nạp Tây; Thái hay Tráng, Bố Y, Đồng, Thủy, Thái LựThái Nüa cũng như nhóm ngôn ngữ Mông-Miến.

    Cụ thể là tiếng Nạp Tây sử dụng hệ thống chữ viết Đông Ba, là hệ thống chữ viết dùng biểu tượng (hình ý văn tự) duy nhất hiện nay trên thế giới. Văn tự Đông Ba đã được các thầy cúng Đông Ba sử dụng là chủ yếu với các chỉ dẫn về nghi thức hành lễ của họ. Ngày nay văn tự Đông Ba chủ yếu là để đáp ứng sự tò mò của khách du lịch. Học giả nổi tiếng nhất về văn hóa Đông Ba có lẽ là Joseph Rock.

    Giáo dục

    Vào cuối năm 1998, trong số dân số của tỉnh thì 419.800 người có trình độ từ cao đẳng trở lên, 2,11 triệu người đã tốt nghiệp phổ thông trung học, 8,3 triệu người tốt nghiệp trung học cơ sở, 18,25 triệu người đã tốt nghiệp tiểu học và 8,25 triệu người trên 15 tuổi hoặc là mù chữ hoặc một phần biết đọc, biết viết.

    Đại học và cao đẳng

    Đại học Khoa học Công nghệ Côn Minh

    Đại học Vân Nam

    Đại học Kinh tế Tài chính Vân Nam

    Đại học Nông nghiệp Vân Nam

    Đại học dân tộc Vân Nam

    Đại học Côn Minh

    Học viện Lâm nghiệp Tây Nam

    Học viện Y học Côn Minh

    Học viện Đông y Vân Nam

    Học viện Cảnh quan Vân Nam

    Đại học Sư phạm Vân Nam

    Đại học Hồng Hà

    Kinh tế

    Vân Nam là một tỉnh tương đối chậm phát triển của Trung Quốc với tỷ lệ dân số lâm vào cảnh nghèo khổ cao hơn các tỉnh khác. Năm 1994, khoảng 7 triệu người sống dưới mức nghèo khổ với thu nhập bình quân hàng năm thấp hơn 300 nhân dân tệ trên đầu người. Họ được phân bổ trong 73 huyện của tỉnh, chủ yếu sống nhờ nguồn hỗ trợ tài chính của chính quyền trung ương. Với số tiền trợ cấp 3,15 tỷ nhân dân tệ (NDT) năm 2002, dân số nông thôn nghèo trong tỉnh đã giảm từ 4,05 triệu năm 2000 xuống 2,86 triệu. Kế hoạch xóa đói giảm nghèo bao gồm 5 dự án lớn với mục tiêu nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Các kế hoạch này bao gồm chương trình cải tạo đất, bảo tồn nước, cung cấp điện năng, đường xá và xây dựng "vành đai xanh". Cho đến khi các dự án này được hoàn thành thì Vân Nam sẽ giải quyết được vấn đề thiếu ngũ cốc, nước, điện, đường xá và cải thiện các điều kiện sinh thái.

    Bốn ngành kinh tế cột trụ của Vân Nam là: sản xuất thuốc lá, các chế phẩm sinh học, khai thác mỏ và du lịch. Vân Nam có quan hệ thương mại với trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Vân Nam cũng thành lập khu thương mại biên giới Muse (nằm tại Thụy Lệ) dọc theo ranh giới của tỉnh này với Myanma[1]. Vân Nam xuất khẩu chủ yếu là thuốc lá, máy móc và thiết bị điện, các sản phẩm hóa học và nông nghjiệp, cũng như các kim loại màu. Năm 2002, kim ngạch thương mại song phương (nhập và xuất khẩu) đạt 2,23 tỷ đô la Mỹ. Năm 2002, tỉnh này đã ký các hợp đồng FDI với số vốn 333 triệu đô la Mỹ, trong đó 112 triệu đô la Mỹ đã được đầu tư trên thực tế trong cùng năm. Tỷ lệ thất nghiệp tại Vân Nam là 4% (năm 2002).

    GDP danh định năm 2004 là 295,9 tỷ nhân dân tệ (36,71 tỷ đô la Mỹ), và tốc độ tăng trưởng hàng năm là 8,1%. GDP trên đầu người là 5.630 NDT (680 USD). Tỷ lệ trong GDP của các ngành công nghiệp sơ cấp (nông-lâm-ngư nghiệp và khai khoáng), thứ cấp (sản xuất công nghiệp và xây dựng) và tam cấp (dịch vụ) lần lượt là 21,1%; 42.8%; 36,1%.

    Vận tải

    Đường sắt

    Vân Nam được nối bằng đường sắt lần đầu tiên không phải là với phần còn lại của Trung Quốc mà là với cảng Hải Phòng bằng đường sắt khổ hẹp (1,1 m) do người Pháp xây dựng và hoàn thành năm 1910. Phải 50 năm sau thì tỉnh này mới được nối với phần còn lại của Trung Quốc bằng đường sắt sau khi tuyến đường sắt Thành Đô-Côn Minh hoàn thành. Sau đó, tuyến đường sắt nối Côn Minh với Quý Dương cũng được đưa vào khai thác. Hai tuyến đường sắt mới được đưa vào sử dụng gần đây: tuyến đường phía nam nối tới Nam Ninh và tuyến đường đông bắc nối tới Tứ Xuyên.

    Vào thời điểm 2006, sự kéo dài của tuyến đường sắt hiện nay cũng liên kết Côn Minh với Đại Lý, với đoạn kéo dài tới Lệ Giang cũng gần hoàn thành. Người ta cũng có kế hoạch mở rộng tuyến đường sắt cổ nhất trong tỉnh tới Việt Nam, trong khi một kế hoạch mới và rất nhiều tham vọng để liên kết Đại Lý với Thụy Lệ cũng đã được thông báo trong năm 2006.

    Đường bộ

    Việc xây dựng đường bộ tại Vân Nam vẫn tiếp tục không suy giảm: trong những năm qua tỉnh này đã xây dựng được thêm nhiều tuyến đường mới hơn bất kỳ tỉnh nào của Trung Quốc. Hiện nay, tuyến đường cao tốc nối Côn Minh, qua Đại Lý tới Bảo Sơn, Côn Minh tới Mặc Giang (trên đường tới Cảnh Hồng), Côn Minh tới Khúc Tĩnh, Côn Minh tới Thạch Lâm (rừng đá). Kế hoạch chính thức là tới năm 2010 sẽ nối toàn bộ các thành thị chính và thủ phủ của các tỉnh láng giềng bằng đường cao tốc và dự định hoàn thành hệ thống đường cao tốc vào năm 2020.

    Tất cả các thị trấn hiện nay đều có thể tới được bằng các tuyến đường có bề mặt cứng trong mọi thời tiết, từ Côn Minh, tất cả các thị tứ đều có đường liên kết (thị tứ cuối cùng được nối vào là Dương Lạp, ở xa về phía bắc của tỉnh, nhưng Độc Long Giang vẫn bị cô lập trong vòng khoảng 6 tháng mỗi năm), và khoảng một nửa các làng quê có đường đi tới.

    Tổng độ dài của đường quốc lộ cấp II là 958 km, cấp III là 7.571 km và cấp IV là 52.248 km. Tỉnh này cũng đã thành lập một mạng lưới liên lạc viễn thông từ Côn Minh tỏa ra tới Tứ Xuyên, Quý Châu, Quảng Tây, Tây Tạng, cũng như xa hơn sang tới tận Myanma, Lào, Việt Nam và Thái Lan.

    Đường thủy

    Nói chung, các sông là trở ngại đối với giao thông vận tải của Vân Nam. Chỉ một phần rất nhỏ trong hệ thống sông ngòi ở Vân Nam là có thể phục vụ cho giao thông đường thủy.

    Năm 1995, tỉnh này đã đầu tư 171 triệu NDT để bổ sung thêm 807 km đường giao thông thủy mới. Người ta đã xây dựng 2 cầu tàu với năng lực xếp dỡ mỗi năm đạt 300.000-400.000 tấn/cầu tàu và 4 cầu tàu với năng lực xếp dỡ 100.000 tấn/cầu tàu. Khối lượng xếp dỡ hàng hóa mỗi năm khoảng 2 triệu tấn và luân chuyển hành khách khoảng 2 triệu người.

    Sân bay

    Tỉnh này có 20 tuyến đường bay từ Côn Minh tới Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thành Đô, Hải Khẩu, Trùng Khánh, Thẩm Dương, Cáp Nhĩ Tân, Vũ Hán, Tây An, Lan Châu, Hàng Châu, Hạ Môn, Nam Ninh, Thâm Quyến, Quý Dương, Trường Sa, Quế Lâm, LhasaHồng Kông; tám tuyến đường bay nội tỉnh từ Côn Minh tới Cảnh Hồng, Mông Tự, Lệ Giang, Đại Lý, Hương Cách Lý Nạp (Shangri-la hay Trung Điện), Chiêu Thông, Bảo SơnTư Mao; cũng như 8 đường bay quốc tế từ Côn Minh tới Bangkok, Chiang mai, Yangon, Singapore, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Kuala LumpurViêng Chăn.

    Sân bay quốc tế Vu Gia Bá ở Côn Minh là sân bay hạng nhất cấp quốc gia còng các sân bay khác là các nhà ga hạng hai. Một sân bay mới cho Côn Minh, được xây ở phía đông thành phố, tại Đại Bản Kiều đã bắt đầu năm 2006, nhưng chỉ hoàn thành theo dự kiến vào năm 2015.

    Dân cư

    Vân Nam được biết đến như là tỉnh có số lượng sắc tộc lớn nhất tại Trung Quốc, và hiện nay người ta đã và đang tích cực trong công việc bảo tồn văn hóa, các di sản cùng ngôn ngữ của các dân tộc này:

    A Xương (Đức Hoành)

    Bạch (Đại Lý)

    Bố Lãng

    Cảnh Pha

    Cơ Nặc

    Cáp Nê (hoặc Akha)

    Dao

    Di

    Hán (chủ yếu)

    Hồi (người Trung Quốc theo Hồi giáo)

    Lisu (傈僳)

    Ma Toa (Lệ Giang)

    Miêu (hay H'mong)

    Nạp Tây

    Ngật Lão

    Phổ Mễ (Lệ Giang)

    Tạng (hoặc Kham

    người Thái

    người Tráng(hoặc Bố Y)

    Va (Lâm Thương)

    Tất cả các dân tộc ít người này được phân loại theo phân loại chính thức của nhà nước CHND Trung Hoa, tuy nhiên, trong mỗi nhóm sắc tộc lại tồn tại các phân nhóm hoàn toàn khác biệt về tập quán, ngôn ngữ khi so sánh với các phân nhóm khác trong cùng nhóm.

    Văn hóa





    Một trong những sản phẩm nổi tiếng của Vân Nam là Phổ Nhị trà, được đặt tên theo thị trấn kinh doanh chè thời cổ là Phổ Nhị, cũng như trà kim vàng Vân Nam.

    Du lịch

    Các trung tâm du lịch tại Vân Nam bao gồm:

    Đại Lý, trung tâm lịch sử của các vương quốc Nam Chiếu và Đại Lý.

    Cảnh Hồng, trung tâm và thủ phủ châu tự trị Tây Song Bản Nạp của người Thái Vân Nam.

    Lệ Giang, một thành phố của người thiểu số Nạp Tây. Nó đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới từ năm 1997.

    Shangri-La (trước đây gọi là Trung Điện), một thị trấn của dân tộc thiểu số là người Tạng, nằm ở vùng núi cao tây bắc Vân Nam.

    Thạch Lâm, một loạt các carxtơ lộ thiên ở phía đông Côn Minh.

    Nguyên Dương, một khu định cư của người Hà Nhì với các ruộng bậc thang rộng lớn.

    Thể thao

    Các đội thể thao chuyên nghiệp tại Vân Nam có:

    Hiệp hội Bóng rổ Trung Quốc

    Vân Nam Hồng Hà bôn ngưu (云南红河奔牛)
  2. longtt88

    longtt88 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Đã được thích:
    0
    Đi để cảm nhận “Sức sống Trường Sa”

    Ngày 16/6, tại Hà Nội, khi Hội Nhà báo Việt Nam công bố Giải báo chí Quốc gia, bộ ảnh Sức sống Trường Sa của nữ phóng viên Phương Hoa đoạt giải B (không có giải A) thể loại ảnh báo chí, cũng là lúc cô phóng viên nhỏ bé đang trên tàu HQ 996 ra đảo An Bang thuộc quần đảo Trường Sa.

    Nhận được điện từ đất liền, trên tàu chỉ có những người lính hải quân, trong đó có cả Thượng tá Ngô Duy Đỗ, nhân vật trong bộ ảnh của cô, thân nhân những người lính đảo ôm lấy cô chúc mừng. Bao nhiêu cảm xúc của chuyến đi Trường Sa thực hiện bộ ảnh lại ùa về trong cô, nguyên vẹn và tươi mới.

    1. Phương Hoa thực hiện bộ ảnh Sức sống Trường Sa trong chuyến đi công tác cùng lữ đoàn 146, hải quân vùng 4. Chuyến đi thay quân đồng thời tặng quà Tết cho chiến sĩ đang làm nhiệm vụ trên quần đảo Trường Sa vào tháng 1/2010 khi Tết Nguyên đán đã cận kề. Tàu rời Cam Ranh ngày mồng 5 tháng Chạp, chuyến đi kéo dài 22 ngày, ngày 28 Tết, Hoa mới trở về đất liền kịp ăn Tết.

    Lần đầu ra Trường Sa, cô phóng viên trẻ rất háo hức. Chuyến tàu làm nhiệm vụ thay quân của Bộ Tư lệnh Hải quân vùng 4 duy nhất có 1 phóng viên nữ.

    Khi đăng ký ra đảo, Hoa mới biết, vì thời tiết xấu mùa này biển động nhiều, nên Bộ Tư lệnh Hải quân đã ra chỉ thị chỉ có phóng viên nam mới được tham gia hành trình. Hoa vì vậy được sắp xếp đi các đảo gần bờ. Vậy mà Hoa đã xin bằng được Ban Chỉ huy vùng 4 Hải quân “cho em một lần được đến Trường Sa” với cam kết “đủ sức khỏe để chịu sóng gió ”.

    [​IMG]
    Thượng tá Ngô Duy Đỗ, Phó Tham mưu trưởng Lữ đoàn 146 chụp ảnh chia vui cùng phóng viên Phương Hoa trên tàu ra đảo An Bang khi hay tin cô đoạt giải báo chí


    Sau rất nhiều công văn đi, công văn lại từ Lữ đoàn 146 về Bộ Tư lệnh Hải quân, cuối cùng với sự quyết tâm, nhiệt tình Hoa cũng được cấp trên cho phép đi Trường Sa trên tàu HQ436. Một quyết định mà Thượng tá Ngô Duy Đỗ nói với cô rằng: “rất khó khăn và phải cân nhắc mãi”. Khi tàu rời quân cảng, biển đang có áp thấp.

    Dù đã xác định tinh thần, nhưng khi lên tàu, Hoa mới thấy say sóng mới đáng sợ thế nào. Cô nôn thốc nôn tháo và không thể ăn uống được gì vì ăn vào lại nôn ra. Tàu lắc dữ dội, khi sóng to nó cứ lật nghiêng bên này, bên kia. Các buồng trên tàu nhường cho phóng viên, ở ngoài boong tàu những người lính vẫn điềm nhiên, sóng mạnh hắt lên cả mạn tàu, những người lính ngủ đêm ngoài boong tàu ướt hết.

    Trên tàu, các chiến sĩ trong đợt thay quân hết lòng lo cho cô phóng viên trẻ, thức ăn kiểu lương khô họ đều chọn những thứ ngon nhất cho cô ăn. Người mang cháo ăn liền đậu xanh, rồi vào dỗ dành ăn bằng được, người lấy dầu, người giã nước gừng cho cô uống. Sự quan tâm của người lính giản dị từ đáy lòng.

    Chuyến đi 22 ngày. Sau 3 ngày 2 đêm lênh đênh trên biển, tàu đến đảo Song Tử Tây, ở đảo này, bãi san hô dốc, đang áp thấp nên sóng rất nguy hiểm. Tàu cứ neo ở đấy mà người không được đặt chân lên đảo. 5 ngày liền, người trong đảo nhìn ra, ngoài tàu nhìn vào, anh em muốn lên lắm nhưng sóng lớn nên chỉ huy chưa cho phép. Bao nhiêu háo hức ra đảo bị dồn nén, thời gian trên tàu rất dài một ngày ví như cả tháng trên đất liền. Mỗi ngày cứ lúc nào sóng êm, ban chỉ huy lại có lệnh thả xuồng bán tải từ tàu xuống nước, thử đi thử lại như thế cho đến ngày thứ 9 trên biển, sóng bớt gay gắt một chút, mọi người mới được “tăng bo” lên đảo. Hoa là nữ phóng viên duy nhất, nên được ưu tiên hơn.

    2. Khi Hoa đặt chân lên đến đảo, cảm giác khác hẳn. Trời nắng, khí hậu trong lành, sự mệt nhọc tan đi rất nhanh. Cảm giác trước kia hình dung đảo khô cằn chỉ toàn cát, đá sỏi thôi, thì nay điều đầu tiên đập vào mắt cô trên Song Tử Tây là hàng cây xanh, cây phong ba, bão táp, cây bàng vuông. Vào sâu một chút nữa là đàn bò rất đông đúc, rồi những ngôi nhà của người dân ngăn nắp, sạch sẽ, có trẻ em, có ngôi chùa lớn, những vườn rau xanh. Đảo không khác so với đất liền là mấy. Cô có cái nhìn khác hẳn về quần đảo Trường Sa. Và bộ ảnh đã thực hiện trên 11 điểm đảo, cả đảo chìm, đảo nổi.

    [​IMG]
    Đồng chí Ngô Duy Đỗ (khi đang là đảo trưởng kiêm Chủ tịch xã đảo Song Tử Tây) vui mừng đón cháu Hồ Song Tất Minh, công dân đầu tiên được sinh trên đảo.


    Những đảo chìm, xung quanh chỉ có bãi san hô, người lính tận dụng mọi ô, mọi khoảnh để có thể trồng rau. Họ nâng niu từng hạt nước, từng nhúm đất quê hương, tắm xong thì trút nước vào cái hố để tưới rau.

    Hoa xin đoàn công tác cho ở lại một đêm ở đảo chìm Đá Thị. Khi thủy triều xuống, cả bãi san hô nổi lên, rộng lớn và tươi đẹp nhưng bình thường, đảo chìm chỉ là một điểm nhỏ nhoi trên biển. Nhìn từ điểm đảo chìm, cô mới cảm thấy hết sự dũng cảm của những người lính ở đây, từ một điểm chốt nhỏ, họ canh giữ từng tấc biển khơi cho quê hương.

    Có một kỷ niệm mà cô ân hận mãi, khi ra đảo Đá Thị, sau nhiều ngày không có rau xanh để ăn, buổi trưa, lúc ăn cơm cô chỉ buột miệng nói: “Ôi, thèm rau quá!”. Đến buổi tối, mâm cơm có 2 đĩa rau xanh rất to, ai cũng hả hể ăn. Sáng hôm sau, mình Hoa tỉnh dậy, nhìn ra vườn rau thanh niên, những ô nhỏ trồng rau đã biến mất. Lúc ấy cô tự trách mình, bởi biết phần rau mình ăn là phần rau của những người lính trong những ngày tới.

    3. Bộ ảnh được chắt lọc từ khoảng trên một ngàn bức ảnh tạo nên một cái nhìn tổng quan nhất về cuộc sống của người lính đảo trên quần đảo Trường Sa. Họ có cảm xúc lúc vui, lúc buồn, lúc hứng khởi khi thực hiện nhiệm vụ, và sự mạnh mẽ trong tập luyện sẵn sàng chiến đấu.

    Bức ảnh mà cô ấn tượng nhất là ảnh thượng tá Ngô Duy Đỗ, đảo trưởng đảo Song Tử Tây bế cháu Hồ Song Tất Minh, cháu bé được sinh ra đầu tiên trên đảo.

    Trong chuyến đi ra đảo tháng 6 này, Hoa gặp lại anh Đỗ khi anh là Phó Tham mưu trưởng Lữ đoàn 146. Anh rất bất ngờ khi gặp lại cô phóng viên dáng người bé nhỏ. Anh nói: “Cuộc đời đi biển hiếm khi người ta gặp lại ai 2 lần”. Anh chính là người đầu tiên chúc mừng cô khi hay tin cô đoạt giải báo chí trên chuyến tàu ra đảo An Bang.

    Hoa tâm sự: “Điều mình mơ ước nhất là tìm ra một cách nào đấy để người lính Trường Sa có thể trồng rau xanh được dễ dàng, nó sẽ làm cho cuộc sống người lính đỡ vất vả hơn. Một đảo mấy chục người chỉ có 1 nắm rau, thái nhỏ ra để nấu một nồi canh gọi là canh toàn quốc để cho có vị rau thôi”.

    Giữa cái nắng Trường Sa chói chang, hình ảnh cô gái tóc ngắn và chiếc ba lô máy ảnh trên vai sải bước chân theo đoàn thân nhân chiến sĩ ra thăm đảo, len vào từng góc đảo chụp ảnh khiến nhiều chiến sĩ vô cùng cảm động. Ít ai biết rằng, bộ máy ảnh nặng hơn 10kg Hoa đeo trên lưng miệt mài. Vai và lưng đau ê ẩm sau những lần ghi hình, Hoa đã từng nằm thiếp đi vì mệt ngay trên chiếc ghế tại đảo Trường Sa lớn, giọt mồ hôi còn đọng lại trên gò má thiếu nữ, nhìn sao mà đáng yêu đến thế.

    Nguồn: TT&VH
  3. longtt88

    longtt88 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Đã được thích:
    0
    Đất Đảo có những hùng binh


    Phim tài liệu
  4. quangtuyen007vn

    quangtuyen007vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2010
    Đã được thích:
    0
    vua tự đức mÀ bác ko biết ah, ông ấy là ông vua đó.
  5. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118
    :-o:-o:-o:-o:-o

    Ý bác là Bắc Triều Tiên ?
    TQ nắm chặt chú này rồi , không hi vọng gì người anh em Chí Phèo này đâu ! [-X
  6. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118
    Huề vốn ! Trớt quớt !

    Bác vui tính thật ! :)):)):))
  7. hoasua82

    hoasua82 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/04/2009
    Đã được thích:
    2.537

    Hoan hô chị T. Chính xác đấy các bạn ạ.
  8. hoasua82

    hoasua82 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/04/2009
    Đã được thích:
    2.537

    Đừng có chụp mũ ông nhé. sặc mùi vớ vẩn của lờ đờ VN.
  9. roschildvn

    roschildvn Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    25/09/2008
    Đã được thích:
    697
    Tình hình hiện nay rất căng
    Nếu múc nhau thì nhóm PVxyz liệu có thành giấy lộn không các bác?
  10. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Xâm lượt VN tạo ra nguy cơ bùng phát bạo loạn tại Trung Quốc , Vụ Thiên a Môn chỉ mới 22 năm qua thế hệ con cháu cũng trưởng thành để đủ đông để trả oán , vụ Tân Cương cũng đang nhức nhối , các khu tự trị như thẩm quyến , hồng kông chẳng ưa gì lãnh đạo TQ cả mà chỉ đổ dầu thêm vào cho nó mau chết hoặc chí ít cũng yếu đi nhằm giảm sức cắn bậy của nó , ngay cả dân Đài Loan cũng ghét TQ như con chó thì thử hỏi sao bạo loạn lại không xảy ra cái chính là khi bạo loạn TQ được xẻ ra làm mấy phần , ai sẽ giữ chiếc bánh to nhất , dự trữ ngân khố và vàng tại Trung Quốc ?
    TQ rất nhiều sắc dân , thập cẩm , tư tưởng khổng ( thằng nào cũng là bố đời cả ) chỉ cần có cơ hội là ra tay cướp cờ , vụ cướp các kho muối khi nhật bị rò rỉ phóng xạ vừa qua là một minh chứng rõ nét về bản chất TQ ngày nay cũng thế , do vậy để thắng được thằng Trung Quốc thì Việt Nam chỉ cần chuẩn bị kế sách lâu dài , không nên nôn nóng , bảo toàn binh lực , đánh chúng vào lúc hỗn loạn và suy kiệt thì tất thắng ;))
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này