Biển Đông - Quyết tâm cao nhất bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hải đảo - tập 6

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi GBlock, 29/06/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
3102 người đang online, trong đó có 84 thành viên. 01:29 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 113551 lượt đọc và 2070 bài trả lời
  1. toanthinhvuong

    toanthinhvuong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/04/2010
    Đã được thích:
    1
    Đã cống hiến thì cống hiến đến cùng. Kêu ca làm gì.

    Biet thế thì cầm súng làm gì để lại nổi khổ cho gia đình, cho quê hương và cả những nguoi lưu vong.
  2. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Mục đích cuộc tập trận chung trên Biển Đông giữa Nhật-Mỹ-Ôxtrâylia

    Thứ hai, 11 Tháng 7 2011 16:27 dinh tuan anh


    Theo tờ “Sankei” (Nhật Bản), nhân dịp tham gia một cuộc thao diễn quốc tế ở Brunây, tàu khu trục của Shimakaze của MSDF cùng một tàu khu trục của Hải quân Mỹ và một tàu tuần tra của Hải quân Ôxtrâylia tiến hành huấn luyện một số nội dung như tác chiến thông tin và vận động chiến thuật tại vùng biển nằm ở phía Nam quần đảo Trường Sa.



    Trong phiên họp Ngoại giao-Quốc phòng (2+2) cấp Bộ trưởng giữa Nhật Bản và Mỹ hồi tháng 6/2011, hai bên đã thống nhất mục tiêu chiến lược chung, trong đó khẳng định sẽ duy trì hợp tác an ninh trên biển và tăng cường hợp tác quốc phòng với Ôxtrâylia. Trước đây bộ ba Nhật-Mỹ-Ôxtrâylia vẫn thường tiến hành tập trận hải quân tại các vùng biển phía Tây Kyushu hoặc gần Okinawa, miền Tây Nam của Nhật Bản. Đây là lần đầu tiên ba nước tiến hành tập trận trên biển Đông, nơi hiện xảy ra các cuộc tranh cãi gay gắt về chủ quyền lãnh thổ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á. Do vậy, tuy cuộc tập trận lần này có quy mô không lớn nhưng nó được đánh giá cao vì là bước đi cụ thể hóa nội dung nói trên một cách nhanh chóng.
    Hiện nay, với tham vọng tiến ra biển, Trung Quốc không chỉ tăng cường hoạt động hải quân tại biển Hoa Đông - nơi có quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) đang tranh chấp - bằng các hoạt động khảo sát tại vùng biển Miyako của Nhật Bản mà còn “nhăm nhe” tiến ra Tây Thái Bình Dương. Trung Quốc đã lợi dụng Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) 1992 để đưa ra các tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Senkaku trên biển Hoa Đông và phần lớn chủ quyền trên biển Đông. Do vậy, các căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng như một số nước ASEAN về vấn đề này ngày càng căng thẳng.
    Cuộc tập trận hải quân lần này được coi là một động thái nhằm răn đe và kiềm chế Trung Quốc từ bỏ các tham vọng quá lớn của nước này. Việc lấy quan hệ đồng minh Nhật-Mỹ làm trung tâm trong quá trình hợp tác với Ôxtrâylia, Ấn Độ và các nước ASEAN nhằm kiềm chế và yêu cầu Bắc Kinh hành xử có trách nhiệm là một hướng đi đúng đắn của cả ba nước. Riêng với Mỹ, cùng với các cuộc tập trận liên tiếp trong thời gian gần đây với một số nước ASEAN, cuộc tập trận lần này cũng là động thái nhằm thể hiện sự hiện diện quân sự và ý đồ kiềm chế Trung Quốc theo phương thức “đa tầng” của quân đội Mỹ.
    Tuy Nhật Bản và Ôxtrâylia không phải đồng minh nhưng hai nước ngày càng tăng cường hợp tác quốc phòng mang tính chiến lược kể từ Tuyên bố chung về hợp tác an ninh giữa hai nước năm 2007. Trong năm 2010, hai nước cũng đã ký kết Hiệp định Thu nhận và Dịch vụ tương hỗ (ACSA) nhằm cung cấp, chia sẻ cho nhau thực phẩm, nhiên liệu, hợp tác hỗ trợ hậu cần, y tế trong các sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc (PKO) cũng như hoạt động cứu trợ nhân đạo quốc tế. Một số chuyên gia phân tích Nhật Bản cho rằng Chính quyền Thủ tướng Kan cần tiếp tục tăng cường hợp tác đa phương như các cuộc tập trận chung, trong đó lấy quan hệ đồng minh với Mỹ là trụ cột, để đối phó với tham vọng hải dương ngày càng trỗi dậy của nước láng giềng Trung Quốc. Chỉ có cách như vậy mới có thể nâng cao quyền lợi cũng như bảo đảm an ninh cho chính nước Nhật. Do vậy, việc tham gia cuộc tập trận lần này dường như cũng thể hiện những nhận thức trên của Chính phủ Nhật Bản về nguy cơ Trung Quốc và việc Tôkiô cần tăng cường các nỗ lực như vậy.

    Theo Sankei
  3. xichlaidi

    xichlaidi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2010
    Đã được thích:
    0
    Trung Quốc: ngộ độc thực phẩm, hơn 300 người nhập viện
    TTO - Hai vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra ở các tỉnh Hồ Nam và Sơn Tây, Trung Quốc trong những ngày cuối tuần đã khiến hơn 300 người phải nhập viện, theo China Daily.

    [​IMG]
    Bệnh viện ở thành phố Trường Sa chật ních các bệnh nhân - Ảnh: China Daily Ở Trường Sa, thủ phủ tỉnh miền trung Hồ Nam, 286 người dân sống ở nông thôn đã được đưa vào bệnh viện, 91 người khác được chẩn đoán bị ngộ độc thực phẩm ngày 23-4 sau khi đi ăn tiệc cưới.
    Chất độc có trong thức ăn theo các xét nghiệm ban đầu có thể là clenbuterol, loại hóa chất dùng nuôi heo giúp thịt có nhiều nạc hơn, China Daily dẫn lời một y tá tại khoa cấp cứu Bệnh viện Xiangya số 3 thuộc Đại học Trung Nam ở Trường Sa, nói qua điện thoại. 15 trong số những bệnh nhân nhập viện đang trong tình trạng nguy kịch, bao gồm một số trẻ em và một phụ nữ đang mang thai. Những nạn nhân khác chỉ bị dấu hiệu nhiễm độc nhẹ, nhiều người đã được cho xuất viện.
    Trước đó tại tỉnh Sơn Tây, hàng loạt học sinh ở một trường học cũng phải nhập viện vì ngộ độc sữa.
    H.MINH
  4. toanthinhvuong

    toanthinhvuong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/04/2010
    Đã được thích:
    1
    Đừng bao giờ lấy Nga làm đối tác chiến luợc. Chơi với Nga thì OK.

    Đằng sau minh phải có thằng đỡ đầu. Lúc nào cũng ba phải đòi thân với Nga,TQ, Nhật, Mỹ , . . cùng 1 lúc thỉ chả thằng nào chơi.

    Em đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại, chơi với Mỹ được nhiều hơn mất (đó là sự thật, sorry các bác có g đình, nguoi thân thiệt hại trong cuoc chiến với us).

    Có thất trận, những nguoi cựu chiến binh của Mỹ năm xưa vẫn đuợc xuất HO, được hưởng cuộc sống an nhàn bên Mỹ. US bi giờ không còn là thiên đường như xua nhưng là nuoc luôn ủng hộ khuynh hướng Tự Do, Dân Chủ. Đó là nền tảng cho sự phát triển bền vững.


  5. toanthinhvuong

    toanthinhvuong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/04/2010
    Đã được thích:
    1
    [​IMG]
    [​IMG]
    Chuẩn đô đốc Tom Carney (bên phải) và một thủy thủ Hoa Kỳ đi trước tấm biểu ngữ chào mừng đến Việt Nam trước khi lễ đón chính thức diễ́n ra.
  6. toanthinhvuong

    toanthinhvuong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/04/2010
    Đã được thích:
    1
    Đề nghị Dân Đà Nẵng ngày mai xuống đuờng Welcome tàu Mỹ đến VN để chống cựa.

    Dân DN trúng đất nhiều quá nên dành chút ít thời gian quan tâm đến vận mệnh đất nước. Nếu duoc Mỹ bảo vệ lâu dài thì về sau an tâm buôn đất, làm du lịch.
  7. Facebook

    Facebook Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    30/03/2009
    Đã được thích:
    44
    Hình ảnh tàu Hải quân Mỹ thăm Việt Nam
    Cập nhật lúc :4:24 PM, 15/07/2011
    Hoạt động giao lưu giữa hải quân 2 nước bắt đầu từ ngày 15/7 nhằm kỷ niệm 16 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ.

    Dưới đây là một số hình ảnh các tàu Hải quân Mỹ cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng:

    [​IMG]

    Chiến hạm USS Chung-Hoon (DDG-93) dẫn đầu đoàn tàu Hải quân Mỹ tiến vào cảng Tiên Sa, Đà Nẵng.​

    [​IMG]
    Thủy thủ tàu USNS Safeguard làm lễ thượng cờ 2 nước.​

    [​IMG]
    Cờ 2 nước Việt Nam, Hoa Kỳ được treo trên tàu USNS Safeguard.​









    [​IMG]
    Lãnh đạo TP Đà Nẵng và đại diện Quân đội Nhân dân Việt Nam chụp ảnh lưu niệm cùng đại diện ĐSQ Mỹ và hạm trưởng các tàu Hải quân Mỹ.​






    >> Hải quân Mỹ chính thức thăm Việt Nam
  8. honghacuulong

    honghacuulong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/07/2011
    Đã được thích:
    0
    Ừ nhỉ. Chả mấy khi thấy dân Đà Nẵng anh hùng lên tiếng.
  9. honghacuulong

    honghacuulong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/07/2011
    Đã được thích:
    0
    Đề nghị Bộ Ngoại giao can thiệp vụ tàu bị bắt

    15/07/2011 19:33:47
    Bee.net - Ngày 15/7, UBND tỉnh Phú Yên đã có công điện khẩn đề nghị Bộ Ngoại giao kiểm tra vụ tàu cá PY 90368 TS bị tàu quân sự nước ngoài bắt giữ, tác động can thiệp sớm, giải quyết đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người và phương tiện, đưa ngư dân về nước theo nguyện vọng.



    UBND tỉnh Phú Yên cũng đã chỉ đạo Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh tiếp tục liên lạc với các phương tiện khác để tìm hiểu thêm về tình hình tàu cá PY 90368 TS.


    Theo thông tin đã đưa, tàu PY 90368 TS xuất bến từ Cảng cá phường 6 vào ngày 27/6, đến ngày 13/7, khi đang đánh bắt tại tọa độ 6059 N- 112040 E cách đảo An Bang 60 hải lý về phía Đông- Nam, bị tàu nước ngoài bắt giữ, cho tới giờ vẫn chưa thể liên lạc được.


    Theo lời kể của ông Võ Mưa, cha ruột của thuyền trưởng Võ Văn Tú: Mỗi ngày gia đình có liên lạc hai lần qua bộ đàm với tàu của Tú, nhưng chiều ngày 13/7 gia đình không liên lạc được nên rất lo lắng có chuyện gì xảy ra. Đến khoảng 19h cùng ngày, thuyền trưởng Võ Văn Sĩ của tàu PY 90369 TS báo qua bộ đàm về cho gia đình biết là anh Tú có thông báo qua bộ đàm bị tàu nước ngoài bắt sau đó mất thông tin liên lạc cho tới hôm nay.


    Trong 9 ngư dân bị tàu nước ngoài bắt vào chiều tối 13/7, có 2 ngư dân ở khu phố Lê Duẩn, phường 6 (TP Tuy Hòa) là thuyền trưởng Võ Văn Tú (SN 1980) và thuyền viên Võ Văn Cương (SN 1985); các thuyền viên Nguyễn Tấn Vinh (SN 1978); Trần Văn Tịnh (SN 1976); Trần Văn Châu (SN 1973); Đỗ Giỏi (SN 1964); Võ Văn Pháp (SN 1965); Mai Sơn (SN 1962) cùng ở thôn Long Thủy xã An Phú (TP Tuy Hòa) và Trần Minh Sang (SN 1981) ở thôn Xuân Dục xã An Phú (TP Tuy Hòa).

    ================

    Chúng ta càng nhân nhượng giặc Tàu càng lấn tới. Rõ ràng nhân nhượng với Tàu là một thất sách nghiêm trọng. Nó sẽ dẫn chúng ta đi từ sai lầm này tới sai lầm khác.
    Ôi ngư dân quê tôi sao cứ bị giặc Tàu bắt như ngóe thế này.
  10. lvlinh

    lvlinh Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    26/01/2008
    Đã được thích:
    33
    "Tái ngộ Mỹ-Việt", bài báo bị kiểm duyệt
    [​IMG]

    Tuấn Thảo / Đức Tâm
    Bài "Tái ngộ Mỹ-Việt" của Xavier Monthéard, được đăng trên nguyệt san Le Monde Diplomatique, tháng Sáu 2011, đã bị kiểm duyệt tại Việt Nam.

    36 năm sau chiến tranh: Tái ngộ Mỹ - Việt
    Bản báo cáo bí mật mang tựa đề ‘‘Quan hệ Mỹ-Việt, 1945 – 1967’’, vốn tiết lộ những lời giả dối của chính quyền Mỹ trong việc đưa quân tham chiến Việt Nam, vừa được giải mật để cho công chúng được quyền tham khảo. Về phía mình, chính quyền Hà Nội đã lật qua trang sử. Hơn thế nữa, mùa hè vừa qua, các cuộc tập trận hỗn hợp Mỹ-Việt diễn ra ngay tại nơi mà những người lính GI đầu tiên đã đổ bộ cách đây hơn 40 năm…
    * *
    Bán đảo Cam Ranh, ở miền trung Việt Nam (*). Trời gió lộng làm nhấp nhô cụm sóng trên biển « Hoa Nam » mà người Việt gọi là « Biển Đông ». Bị thu hẹp bởi hàng rào kẽm gai, một con đường ngoằn ngoèo dẫn đến căn cứ hải không quân mà quân đội Hoa Kỳ đã dựng lên trong thời chiến tranh Việt Nam. Các đồn lính cũ kỹ, tựa như một lớp áo, được khoác lên mảnh đất khô cằn trơ trụi. Binh lính và nhân viên hải quan thơ thẩn qua lại. Bến cảng quân sự không tiếp đón khách thăm viếng, mà họ có đến thì để làm gì ? Từ nhiều năm qua, hoạt động ở vịnh Cam Ranh diễn ra chầm chậm.
    Tháng 10 năm 2010, Cam Ranh như thể bừng tĩnh sau giấc ngủ uể oải : Thủ tướng *************** đã tuyên bố mở cảng Cam Ranh để tiếp đón tàu thuyền của tất cả các nước. Hoa Kỳ là ứng viên. Kể từ năm 2003, khoảng một chục chiến hạm Mỹ đã ghé vào các cảng của quốc gia cựu thù. Lần này, những người lính của Chú Sam, không vũ khí cũng như không hành trang, đã thực sự trở lại xứ sở của Bác Hồ - với tư các là thượng khách. Mọi chuyện diễn ra như thể những năm tháng chiến tranh, do 5 vị chủ nhân Nhà Trắng (1) liên tục tiến hành không còn nằm trong ký ức Việt Nam. 20 năm xung đột khốc liệt, ghê rợn kết thúc vào tháng Tư năm 1975 với việc chiếm được Sài Gòn, như thể bị lãng quên, người ta dường như cũng quên cả thái độ sau đó của chàng khổng lồ bị làm nhục, quyết tâm phong toả viện trợ quốc tế đối với một chú lùn đã đánh bại mình và cấm vận thương mại đã được duy trì cho đến năm 1994.
    Khu trục hạm « USS John S. McCain » ghé cảng Đà Nẵng
    Vào tháng 8 năm 2010, cuộc đối thoại quốc phòng Mỹ-Việt đầu tiên diễn ra tại Hà Nội. Trong cùng tháng, ở ngoài khơi Đà Nẵng – ngay tại nơi mà những người lính Mỹ đầu tiên đổ bộ vào năm 1965 – các sĩ quan cao cấp của Việt Nam ra biển tham quan tàu Mỹ USS George Washington, biểu tượng hàng đầu của hạm đội Bẩy và là một trong 11 hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Trong khi đó, khu trục hạm USS John S. McCain thì thả neo ở Đà Nẵng. Tại Hà Nội, tên của ông John McCain, ứng viên đảng Cộng Hoà ra tranh cử tổng thống Mỹ năm 2008, không còn làm chói tai. Nguyên là phi công oanh tạc cơ, và như vậy bị xem như là ‘‘một tội phạm chiến tranh’’, theo như lời ông nói sau nay, ông John McCain đã bị cầm tù trong vòng 5 năm rưỡi tại Việt Nam. Được trao tặng huân chương chiến công vì những nỗi thống khổ phải chịu đựng trong lúc bị bắt, ông trở thành một vị anh hùng đối với một bộ phận công luận Mỹ.
    Tính chính đáng này đã giúp cho ông John McCain thuyết phục được phe bảo thủ, giúp cho tổng thống đảng Dân Chủ Bill Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Không thù oán, phía Việt Nam quan tâm đến giai đoạn sự nghiệp sau này của ông McCain. Và các bức ảnh chụp tổng thống Bill Clinton nhân chuyến viếng thăm Việt Nam lần đầu tiên vẫn được treo tại cửa hàng bán thức ăn nhanh tại thành phố Hồ Chí Minh…Còn giờ đây, vợ của vị tổng thống này, bà Ngoại trưởng Hillary Clinton thì hoan nghênh về chặng đường mà hai nước đã trải qua: « Thay vì là cựu thù, chúng ta đã biết coi nhau như là những đối tác, đồng nghiệp và bạn hữu. Chính quyền Obama sẵn sàng nâng quan hệ Mỹ-Việt lên một tầm mức cao hơn (2) ».
    Nhìn từ phía Hà Nội, việc xích lại gần Hoa Kỳ trước hết là theo logic kinh tế. Từ khi hiệp định thương mại song phương có hiệu lực vào năm 2001, trao đổi mậu dịch giữa hai nước gia tăng đều đặn. Vào năm 2000, trao đổi thương mại ở mức 1 tỷ đô la, đến năm 2010, thì đã lên đến 18,3 tỷ đô la. Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam, bà Jocelyn Trần, nhắm tới mục tiêu 35 tỷ đô la từ đây cho đến năm 2020 (3). Cán cân thương mại nghiêng hẳn về phía Hà Nội, các xuất khẩu sang Hoa Kỳ, - chủ yếu là hàng may mặc và giầy dép – mang về cho Việt Nam 14,8 tỷ đô la năm 2010, tương đương hơn một phần năm tổng thu nhập từ bên ngoài.
    Mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Washington giúp cho Việt Nam hội nhập vào hệ thống thương mại quốc tế. Vào năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Từ đó trở đi, mức bình quân thu nhập hàng năm tính theo đầu người vượt qua ngưỡng một ngàn đô la. Theo cách tính của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam được xếp vào danh sách các quốc gia có mức thu nhập trung bình.
    Cái giá phải trả của sự khởi đầu phồn thịnh này là cần phải lật qua trang sử với 3 triệu người chết trong chiến tranh, các khu vực đất đai bị tàn phá, các gia đình bị tan nát. Để làm việc này, cần phải suy nghĩ kỹ và viết lại ký ức. Theo nhà sử học Wynn W. Gadkar-Wilcox, « Sau năm 1990, các nhà nghiên cứu Việt Nam bắt đầu giảm nhẹ tầm quan trọng của thời kỳ 1954-1975, trong quan hệ với Mỹ, và ưu tiên đề cập đến giai đoạn 1941-1945. Trong giai đoạn này, Hoa Kỳ đã hợp tác với *********, và nhiều thành viên của cơ quan tình báo OSS (Office of Strategic Services, tiền thân của CIA) đã có quan hệ gắn bó cá nhân với ông Hồ Chí Minh. (…) Dựa vào các tập nghiên cứu của ông Robert Hopkins, mang tựa đề Hoa Kỳ và Việt Nam, 1787-1941, chuyên gia Phạm Xanh đã nhấn mạnh đến sự quan tâm của tổng thống Mỹ Thomas Jefferson (1801-1809) đối với các vụ lúa tại miền nam Việt Nam, cũng như nhiều cuộc thám hiểm mà Mỹ đã thực hiện tại Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XIX (4). »
    Một nửa dân số Việt Nam dưới 26 tuổi. Quá khứ chiến tranh đối với họ rất xa vời và hình ảnh của Hoa Kỳ tạo trong tâm trí của họ niềm say mê. Sức quyến rũ đó không chỉ xuất phát từ đồng đô la xanh, mà còn nảy sinh từ « Giấc mơ kiểu Mỹ »: ai cũng có thể làm giàu nếu chịu khó và quyết tâm làm việc. 13 ngàn du học sinh - một kỷ lục đối với các nước Đông Nam Á - đã ghi tên vào một trường đại học ở phía bên kia bờ Thái Bình Dương.
    Thỏa thuận đang thai nghén trong lĩnh vực hạt nhân dân sự
    Miền nam Việt Nam, do lịch sử, rất sẵn sàng đón tiếp các đầu tư bằng đô la. Việc tập đoàn khổng lồ Intel chuyên sản xuất mạch vi xử lý đặt một nhà máy ở ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh (trước kia là Sài Gòn) có giá trị biểu tượng : đó là cơ sở lắp ráp và kiểm tra lớn nhất của tập đoàn này trên thế giới, với tổng đầu tư ước tính 1 tỷ đô la. Trên một blog của website thuộc doanh nghiệp này, ngay từ tháng 9 năm 2009, người ta có thể đọc thấy hàng chữ « We are back in Saigon ! » (« Chúng tôi trở lại Sài Gòn »)…
    Mối diễm tình này không có nghĩa là không còn một vài tỵ hiềm, bởi vì Hoa Kỳ ngay lập tức đã tự coi mình là những người bảo vệ nhân quyền. Trong năm 2010, 80 người đã bị bắt – trong số này 14 người bị kết án – vì đã bày tỏ quan điểm trái ngược với đường lối của đảng Cộng sản. Nhiều nhà báo và viết blog nằm trong số này. Trong một cuộc họp báo được tổ chức tại Hà Nội, ngày 10/12/2010, đại sứ Mỹ Michael W. Michalak đã nhẹ nhàng tuyên bố « rất tiếc, trong ba năm nhiệm kỳ của tôi, những tiến bộ trong lĩnh vực nhân quyền còn không đồng đều ».
    Ở mặt đối lập, kỷ niệm sống động về sự dính líu của các tổ chức Mỹ trong các « cuộc cách mạng mầu » tại Đông Âu, nuôi dưỡng sự nghi kỵ. Phải chăng chính quyền Mỹ sẽ không khuyến khích một kịch bản « diễn biến hòa bình », mà đối với Hà Nội, đồng nghĩa với ý đồ gạt bỏ chế độ và bản sắc văn hóa Việt Nam ?
    Thế nhưng, những đụng chạm này chỉ là một sự phản ánh nhạt nhòa những thù hận trong quá khứ. Thậm chí, năm 2011 có thể sẽ chứng kiến hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Một thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực hạt nhân dân sự đang được hoàn tất. Bản thỏa thuận liên quan đến việc chuyển giao công nghệ và phát triển các cơ sở hạ tầng, mở cửa cho các doanh nghiệp Mỹ tiếp cận với một thị trường hứa hẹn : Việt Nam mong muốn xây dựng 13 nhà máy điện hạt nhân, với tổng công suất là 16 000 MW, trong 20 năm tới. Các điều khoản của bản thỏa thuận không cấm việc làm giàu uranium – cho phép, về mặt lý thuyết, thực hiện một chương trình hạt nhân quân sự - trong khi Hoa Kỳ thường xuyên gây sức ép buộc các nước khác từ bỏ quyền được làm giàu uranium như vậy. Nhiều nhà bình luận đã so sánh các điều khoản này, có lợi cho Việt Nam, với các điều khoản của bản thỏa thuận Ấn Độ - Hoa Kỳ về hạt nhân năm 2007 (5).
    Tuy nhiên, ông Brahma Chellaney (6), giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính trị New Delhi cũng giảm thiểu những điểm đồng nhau này : « Do Ấn Độ không phải là thành viên hiệp ước không phổ biến hạt nhân (TNP), nước này phải chịu nhiều hạn chế đặc biệt chiếu theo luật lệ của Mỹ. Do vậy, chính phủ Mỹ cần phải có được một sự miễn trừ đặc biệt từ phía Quốc hội. Trong trường hợp của Việt Nam, nước ký kết TNP, một sự đòi hỏi như vậy không cần thiết. Vả lại, vì Ấn Độ là một quốc gia có vũ khí nguyên tử, thỏa thuận song phương cần phải được xây dựng một cách chuyên biệt. »
    Như vậy, hai thỏa thuận này gần giống nhau là do mục đích của chúng chứ không phải do bản chất. Ông Chellaney thẩm định : « Hoa Kỳ sử dụng các thỏa thuận hạt nhân ký với Ấn Độ và Việt Nam như một công cụ chiến lược để xây dựng một sự hợp tác thân thiết ». Do đó, Việt Nam chắc chắn sẽ có được một thỏa thuận tốt nhất trong nhóm « các quốc gia hạt nhân trỗi dậy », đó là những nước vừa mới bắt đầu thực hiện một chương trình hạt nhân dân sự. Ngược lại với trường hợp Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, ví dụ thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất năm 2009 ghi rõ Tiểu vương quốc này từ bỏ quyền làm giàu uranium trên lãnh thổ của mình. Phải chăng « nhất bên trọng, nhất bên khinh ? » Khi còn là phát ngôn viên bộ Ngoại giao, ông Philip J.Crowley đành phải nói rằng « Hoa Kỳ đàm phán những hiệp định như vậy theo từng trường hợp, đối với từng nước, từng vùng (7) ».
    « Một hoàn cảnh mong manh như vỏ trứng »
    Đối với Washington, việc củng cố các quan hệ quân sự và hợp tác hạt nhân có một mục tiêu : đó là duy trì sự ưu thế của Mỹ tại Thái Bình Dương. Do vậy, trong năm 2010, Hoa Kỳ đã bán 6 tỷ đô la thiết bị quân sự cho Đài Loan ; thông báo nối lại mối quan hệ với lực lượng đặc biệt Indonesia (Kopassus), cho dù lực lượng này có dính líu đến những vụ tàn sát ở Timor, Aceh và Papua ; bảo vệ quyền tự do lưu thông ở Biển Đông và coi đây là lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ, theo lời bà Ngoại trưởng Clinton ; tiến hành các hoạt động quân sự chung với Hàn Quốc ở Hoàng Hải ; khi xẩy ra va chạm tại vùng quần đảo Điều Ngư/Senkaku mà Trung Quốc và Nhật Bản đều coi thuộc chủ quyền của mình, Hoa Kỳ đã nhắc lại rằng Nhật Bản sẽ được hậu thuẫn nếu cần thiết, theo tinh thần hiệp ước phòng thủ chung.
    Đa số các biện pháp này, nếu không nói là tất cả, đều nhằm đối phó với sự lớn mạnh của Trung Quốc : sự bật dậy của đế chế Trung Hoa tất đương nhiên dẫn đến việc Hoa Kỳ nâng cao giá trị chiến lược của các quốc gia láng giềng với Trung Quốc. Tạp chí Mỹ về Quốc phòng 2010, bốn năm ra một lần (US Quadrennial Defense Review 2010) nói đến Indonesia, Malaysia và Việt Nam như là những đối tác tiềm tàng trong lĩnh vực an ninh. Ông Kurt Campbell, trợ lý Ngọai trưởng phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương còn nói rõ hơn : « Khi nhìn vào tất cả những quốc gia bạn bè của chúng ta ở Đông Nam Á, tôi nghĩ rằng chính với Việt Nam mà chúng ta sẽ có những triển vọng tốt đẹp nhất » (8). Đối với cường quốc Hoa Kỳ, lại một lần nữa, đất nước này là một con tốt cần thiết, nhưng lần này, không phải để chống chủ nghĩa cộng sản, mà chống lại cái gọi là chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc.
    Mối ám ảnh này có được sự đồng thanh. Từ nhiều thế kỷ qua, Việt Nam xoay trong quỹ đạo của đế chế Trung Hoa đồng thời tìm cách thoát ra khỏi sức hút của nó. Sự phụ thuộc về kinh tế của Việt Nam vẫn còn rất lớn – nhập khẩu từ láng giềng phương Bắc chiếm một tỷ lệ cực kỳ cao. Do vậy, ông Carlyle Thayer, giáo sư danh dự tại đại học Souh New Wales, Canberra, chuyên gia về Việt Nam, đánh giá rằng « không một nước nào có thể tự tin và có ảnh hưởng như Trung Quốc trong quan hệ với Hà Nội (9) ». Về cơ bản, ngoại giao Việt Nam tìm cách hòa thuận với càng nhiều nước càng tốt để thoát ra khỏi Bắc Kinh, nhưng đồng thời lại muốn duy trì quan hệ ưu tiên với nước láng giềng lớn – đây là mối bận tâm mà ngoại giao Việt Nam chia sẻ với nhiều nước Đông Nam Á. Cựu đại sứ Đinh Hoàng Thắng không coi nhẹ những khó khăn : « Nếu Việt Nam có thể thuyết phục được Trung Quốc rằng việc cải thiện quan hệ Mỹ-Việt sẽ không ảnh hưởng đến các quyền lợi của nựớc thứ ba, thì đó sẽ là một thành công lớn (10) ».
    Công việc này cũng không phải là dễ dàng đối với Mỹ. Ông Brantly Womack, giáo sư Quan hệ Quốc tế tại đại học Virginia Hoa Kỳ (11) nhắc lại rằng « sự xa cách giữa Hoa Kỳ và châu Á và mối quan hệ song song của Mỹ vừa với Trung Quốc vừa với Việt Nam tiếp tục làm biến dạng sự hiểu biết về mối quan hệ song phương này ». Phía Trung Quốc cũng đưa ra những mệnh lệnh đôi khi mạnh mẽ : « Việt Nam phải hiểu rằng, bị kẹp giữa hai cường quốc, họ đang chơi một trò chơi nguy hiểm, với hoàn cảnh vừa bấp bênh vừa mong manh như vỏ trứng », người ta có thể đọc thấy những dòng này trên Nhân dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc (…) « Nếu Trung Quốc và Việt Nam thực sự dẫn đến đối đầu quân sự với nhau, thì không có một tàu chở sân bay nào, của bất kỳ một nước nào, có thể bảo đảm an ninh cho Việt Nam ».(12)
    Một cuộc tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông liên quan đến quần đảo Hoàng Sa – Paracels và Trường Sa – Spratleys đã tích tụ vào cuối thế kỷ XX (13). Cho dù vừa qua đã củng cố hạm đội của mình, Hà Nội không thể tranh đua với hải quân Trung Quốc. Do vậy, theo phân tích của ông Richard Bitzinger, chuyên gia về các vấn đề quốc phòng tại châu Á-Thái Bình Dương, « Việt Nam muốn thấy có nhiều quốc gia hơn nữa can thiệp vào Biển Đông. Đối với Việt Nam, đây sẽ là một sự bảo vệ. Việt Nam cũng muốn nhận được sự hỗ trợ để mở rộng và hiện đại hóa các cơ sở hạ tầng của cảng trong vịnh Cam Ranh. Tôi nghĩ rằng hải quân Mỹ sẽ tranh thủ vị trí chiến lược này, hải quân các nước khác cũng sẽ làm như vậy – đương nhiên, chỉ có hải quân Trung Quốc là sẽ vắng mặt !»
    Cuộc xung đột 1979 với Bắc Kinh bị bỏ qua
    Liệu một ngày nào đó, người ta sẽ thấy Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam chống lại đế chế Trung Hoa ? Quả sẽ là trớ trêu quá mức, nếu như người ta nhớ lại rằng sau khi tuyên bố độc lập ngày 2/09/1945, Trung Quốc của Mao Trạch Đông là nước đầu tiên công nhận nền dân chủ cộng hòa non trẻ này, vào tháng Giêng năm 1950, trước Liên Xô khoảng 12 ngày… Giữ cân bằng giữa hai nước bảo trợ cộng sản, mà 2 nước này sau đó lại trở thành đối thủ của nhau, là một phương trình mà Hồ Chí Minh và những người kế tục ông đã giải quyết thành công trong 25 năm. Viện trợ của Liên Xô đã biến mất khi chiến tranh lạnh kết thúc. Cuộc xung đột công khai giữa Việt Nam và Trung Quốc vào cuối những năm 1970, đã trở thành vấn đề húy kỵ nhất trong chính sách đối ngoại. Hơn 30 năm sau khi xẩy ra cuộc xung đột, vẫn không thể nào nói đến cuộc chiến tranh ngắn ngủi trong tháng Hai tháng Ba năm 1979 đã làm hàng chục ngàn người thiệt mạng. Báo chí cũng như sách giáo khoa không nói đến cuộc chiến tranh này. Về mặt chính thức, tất cả mọi việc đều tốt đẹp với Bắc Kinh.
    Lịch sử đã cho thấy những nguy hiểm đối với Việt Nam khi nước này rơi vào những tính toán địa-chính trị của những siêu cường láng giềng. Ỏ Hà Nội, liệu có ai sẽ quên điều này ? Nhà ngoại giao Hoàng Anh Tuấn vừa nhắc lại rằng Việt Nam « là nước duy nhất trên thế giới đã tiến hành những cuộc đàm phán dồn dập và kéo dài với Hoa Kỳ (…) Cho dù lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau đã có những tiến triển đáng kể, nhưng không có gì bảo đảm là những hiểu nhầm chiến lược lại không xuất hiện (…) Do vậy, quan hệ song phương chỉ có thể được thiết lập một cách bền vững trên cơ sở bình đẳng nếu như mối bang giao này được xây dựng nhằm phục vụ các lợi ích quốc gia của Việt Nam cũng như của Hoa Kỳ, chứ không chỉ nhằm phục vụ các lợi ích địa – chính trị của một bên.(14) ». Hiện nay, có nhiều điềm tốt. Thế nhưng « sự hung dữ của vị trí địa lý (15) » có thể vẫn chưa thôi định hướng số phận quốc gia Việt Nam.








    .
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này