1. BQT xin thông báo: Hiện tại diễn đàn đã xử lý xong lỗi chức năng tìm kiếm, quý thành viên và quý khách đã có thể sử dụng tính năng tìm kiếm như trước. Chúng tôi rất tiếc vì việc khắc phục diễn ra chậm trễ, rất mong nhận được sự thông cảm của quý thành viên và quý khách ghé thăm. Vẫn mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ của của tất cả các bạn!

Biển Đông - Quyết tâm cao nhất bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hải đảo - tập 6

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi GBlock, 29/06/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
3360 người đang online, trong đó có 85 thành viên. 01:47 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 3 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 3)
Chủ đề này đã có 113368 lượt đọc và 2070 bài trả lời
  1. tcdtcd

    tcdtcd Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    31/01/2010
    Đã được thích:
    394
    Bạn nói thế cũng có phần khập khiểng. Hàn Quốc thuần túy xây dựng sau khi chiến tranh kết thúc với Bác Hàn những năm 50, lại được Mỹ bảo trợ. Việt Nam thì chiến tranh liên miên. Chắc tính thời gian xây dựng phải tính từ những năm đầu thập kỷ 90 thì mới đúng, hết đánh Pháp rồi đánh Mỹ, hết đánh Mỹ lại đánh Pol pot, đánh phát xít Khựa. Người ta nói một năm chiến chanh bằng 10 năm xây dựng, xuất phát điểm của VN sau chiến tranh lại rất thấp vì chiến tranh đã tàn phá gần như hoàn toàn, các cơ sở sản xuất không có sau chiến tranh lại bị bao vây cấm vận. Bước chuyển mình hội nhập của VN, thêm bạn bớt thù có thể được coi chiến lược rất đúng đắn. Nhìn thằng Bắc Hàn các bác thấy người không ra người ma không ra ma mà nó lại kết thúc chiến tranh cách VN gần nữa thế kỹ, cả cuba cũng rất khó khăn. VN đã nhanh chóng bình thường hóa quan hệ với Mỹ và rất có thể nâng tầm quan hệ chiến lược trong một hai năm tới. Có thể thấy tư duy của Đ không phải trì trệ mà có điểm sáng, sẽ có những thay đổi để hợp thời thế thúc đẩy sự phát triển của dân tộc. Quan điểm của chủ tịch HCM năm xưa rất tiên tiến mà đến giờ vẩn còn nguyên giá trị: VN không phân biệt nước tư bản hay cộng sản đều hợp tác hết miễn là có lợi cho đất nước cho dân tộc. Các bạn nên nhớ đó là thời kỳ những năm 40s, khi sự phân biệt hệ tư tưởng rất lớn, có tính chất đối đầu mà Bác Hồ đã có những tư tuởng lớn đến như vậy.
  2. ThienAnh-HH

    ThienAnh-HH Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    19/03/2011
    Đã được thích:
    289
    Đài Loan thừa gió bẻ măng, chiếm đảo Ba Bình
    Ngày 21-1-2008, lần đầu tiên Đài Loan đã cho máy bay quân sự C-130 Hercules hạ cánh xuống đường băng vừa xây xong trên đảo Ba Bình, thuộc quần đảo Trường Sa, xâm phạm trắng trợn lãnh thổ Việt Nam!
    Trả lời báo chí quốc tế về sự kiện này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Lê Dũng, khẳng định: Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Vì sao Đài Loan chiếm đảo Ba Bình, lúc nào? Chúng tôi xin giới thiệu những tư liệu lịch sử của nhà sử học Nguyễn Nhã.

    Năm 1946, vào lúc Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra thì hạm đội của Trung Hoa Dân Quốc gồm bốn chiến hạm xuất phát từ cảng Ngô Tùng tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây ngày 29-11. Lúc này Trung Quốc còn gọi Hoàng Sa là Đoàn Sa, chưa phải mang tên Nam Sa.
    Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp trên của Trung Hoa Dân Quốc và ngày 17-10-1947, thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Trung Hoa Dân Quốc rút nhưng họ không rút. Pháp gửi một phân đội lính trong đó có cả quân lính "quốc gia Việt Nam" đến đóng một đồn ở đảo Pattle (Hoàng Sa).

    Năm 1950, quân Tưởng rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa

    Ngày 14-10-1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung phần là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa.

    Lợi dụng tình hình rối ren Nhật đầu hàng đồng minh, quân Tưởng Giới Thạch được giao phó giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc theo hiệp định Postdam đã lại chiếm giữ đảo Phú Lâm (Ile Boisée) cuối năm 1946 thuộc quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Sa vào đầu năm 1947.

    Đến năm 1950, khi quân Trung Hoa Dân Quốc đã rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa và hòa ước San Francisco buộc Nhật từ bỏ sự chiếm đóng hai quần đảo này, thì thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại đã tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam. Sau năm 1950, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không còn quân nước ngoài chiếm đóng ngoài lực lượng trú phòng Việt Nam của chính quyền Bảo Đại.

    Hiệp định Genève ký kết năm 1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam. Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra trong hai phần bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của hiệp định. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chính của phía chính quyền quản lý miền Nam.
    Như thế, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lý hành chính của chính quyền Việt Nam cộng hòa, lúc ấy hai quần đảo này chưa có sự chiếm đóng của bất cứ quân đội nước nào ngoài quân đội Pháp.

    Trung Quốc, Đài Loan cưỡng chiếm hai đảo lớn


    Họ đã thừa gió bẻ măng!

    Sau năm 1975 cho đến nay, Đài Loan vẫn chiếm giữ trái phép đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Chiếm giữ như thế là do lợi dụng hoàn cảnh Việt Nam đang lâm nạn, bị mất chủ quyền, thực dân đô hộ và chiến tranh, nhất là thời điểm quân Pháp rút khỏi Việt Nam. Để bố phòng khoảng trống lực lượng trên biển Đông, Đài Loan cùng một số nước bất chấp lẽ phải, bất chấp luật pháp quốc tế, chà đạp lên sự thật chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bất khả tranh nghị.

    "Cái gì của César phải trả lại cho César!". Đó cũng là lời nguyền và cũng là trách nhiệm của mọi con dân đất Việt, không phân biệt già trẻ, chính kiến, ở trong hay ở ngoài nước!

    Ngày 1-6-1956, ngoại trưởng chính quyền Việt Nam cộng hòa Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    Ngày 22-8-1956,
    lực lượng hải quân của chính quyền Việt Nam cộng hòa đã đổ bộ lên các hòn đảo chính của nhóm Trường Sa, dựng một cột đá và trương cờ. Tháng 10-1956, hải quân Đài Loan đến chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Cũng năm 1956, Trung Quốc chiếm đảo Phú Lâm, đảo lớn nhất trong quần đảo này.

    Sau khi Hoàng Sa thất thủ vào tháng 1-1974, đầu tháng 2-1974, chính quyền Việt Nam cộng hòa quyết định tăng cường phòng thủ các đảo ở quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng ở năm đảo thuộc Trường Sa. Qua đại sứ ở Philippines, chính quyền Sài Gòn khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

    Ngày 1-2-1974, đoàn đại biểu của Việt Nam cộng hòa ra tuyên bố tại hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Luật biển Caracas khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo, tố cáo Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa.

    Ngày 30-3-1974, đại biểu chính quyền Việt Nam cộng hòa khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội đồng kinh tài Viễn Đông họp tại Colombia.
    Ngày 14-2-1975, Bộ Ngoại giao chính quyền Việt Nam cộng hòa công bố Sách trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.

    Địa lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa


    Quần đảo Trường Sa trải dài từ vĩ độ 6O2 vĩ B tới 11O28 vĩ B, (1.4) từ kinh độ 112OĐ đến 115OĐ trong vùng biển, chiếm khoảng 160.000-180.000km2. Biển tuy rộng nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi lên khỏi mặt nước lại rất ít, tổng cộng chỉ khoảng 11km2, cách Vũng Tàu 305 hải lý, Cam Ranh 250 hải lý, đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan Thiết) 270 hải lý.


    Quần đảo bao gồm 137 đảo, đá, bãi, không kể năm bãi ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam (gồm bãi Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tư Chính).


    Căn cứ vào hải đồ vẽ năm 1979 của Cục Bản đồ quân sự Bộ Tổng tham mưu (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), quần đảo Trường Sa có thể chia làm chín cụm chính kể từ bắc xuống nam trong đó có cụm đảo Nam Yết hay Ti Gia gồm đảo Nam Yết (Namyit Island, 10O11 vĩ B, 114O217 kinh Đ), đảo Sơn Ca (Sand Cay, 10O227 vĩ B, 114O285 kinh Đ), đảo Ba Bình (Itu Aba Island, 10O228 vĩ B, 114O217 kinh Đ), cùng bãi Bàn Than (10O231 vĩ B, 114O245 kinh Đ), đá Núi Thị (Petley Reef, 10O247 vĩ B, 114O348 kinh Đ), đá Én Đất (Eldad Reef, 10O21 vĩ B, 114O41 kinh Đ), đá Lạc (10O102 vĩ B, 114O148 kinh Đ), đá Gaven (Gaven Reef, 10O127 vĩ B, 114O13 kinh Đ), đá Lớn (Great Discovery Reef, 10O045 vĩ B, 113O52 kinh Đ), đá Nhỏ (Small Discovery Reef, 10O015 vĩ B, 114O015 kinh Đ), đá Đền Cây Cỏ (Western or Flora Temple Reef, 10O147 vĩ B, 114O375 kinh Đ). Cụm này có đảo rộng nhất của Trường Sa là Ba Bình và cao nhất là đảo Nam Yết, có nhiều lùm cây cao lớn nhất.


    Đảo Ba Bình có độ cao chừng 4m, thấp hơn Nam Yết một chút, diện tích 489.600m2 (gần 50ha). Đảo này có điều kiện sinh hoạt tốt nhất, đất đai màu mỡ, trồng được khoai mì, rau cải, chuối... Xung quanh có san hô, mặt nước khá yên tĩnh, tàu nhỏ có thể cập bến khá tốt.


    Năm 1933, với danh nghĩa "bảo hộ" Việt Nam, Pháp đã cho quân chiếm đóng, thiết lập đài quan trắc khí tượng mang số hiệu 48919, do World Meteorological Organisation cấp phát cùng với đài quan trắc ở Hoàng Sa (Pattle) mang số hiệu 48860 và Phú Lâm mang số hiệu 48859. Ngày 20-5-1956, Đài Loan đã xây dựng cơ sở quân sự kiên cố tại đây. Hiện ở đây có một sân bay nhỏ và cầu tàu cho các chiến hạm cặp bến.


    Phía tây nam cụm Nam Yết có hòn Đá Chữ Thập (Fiery Cross or N.W, Kagilingan Reef, 9O353 vĩ B, 114O542 kinh Đ), là chỗ cao nhất của một bãi cạn dài 25km, rộng tối đa 6km, bị quân Trung Quốc chiếm đóng, biến nơi đây là cơ sở quân sự quan trọng.


    Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, chế độ bảo hộ Pháp có viên khâm sứ đứng đầu Trung kỳ chịu trách nhiệm quản lý quần đảo Hoàng Sa. Trong khi Nam kỳ quản lý quần đảo Trường Sa, lại ở dưới chế độ thuộc địa Pháp, song thực chất tất cả đều thuộc chế độ đô hộ kiểu trực trị của Pháp. Mọi quyền hành trong tay Pháp. Chính quyền Nam triều chỉ có trên danh nghĩa. Song trên thực tế chính quyền thuộc địa Pháp cũng đã có những hành động cụ thể củng cố, khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.



    Theo Tuổi Trẻ

    Đảo
    Ba Bình (tên quốc tế: Itu Aba, tên Trung Quốc:太平島, Thái Bình Đảo) (toạ độ 10° 23’ bắc, 114° 22’ đông) là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa hiện đang thuộc sự kiểm soát của Đài Loan. Đảo có chu vi 2,8 km, diện tích 43,2 ha và có một vòng đá san hô bao chung quanh. Chiều dài đảo là 1470m, chiều rộng 500m, có độ cao trung bình 2,8m. Trên đảo có mọc các loại cây dừa, chuối, đu đủ, cây cọ cao khoảng 7m và nhiều bụi rậm.
    Trước thế chiến thứ hai người Pháp đã xây dựng một nhà quan trắc khí tượng trên đảo. Trong thế chiến tứ hai, Nhật chiếm đóng đảo này
    Pháp nhận đảo Ba Bình năm 1887, và sau đó chiếm đảo năm 1932, như một phần của Việt Nam để phản ứng lại tuyên bố chủ quyền của Trung Hoa Dân Quốc (ROC - ta quen gọi là Đài Loan) trên quần đảo Trường Sa. Trong Chiến tranh thế giới 2, Nhật xâm chiếm nó làm căn cứ tàu ngầm, dưới bộ chỉ huy đặt ở Cao Hùng giữa Đài Loan. Năm 1946, Nhật chiếm lại đảo này rồi trả lại cho ROC (Đài Loan). Tháng 12 năm 1946, đảo này đặt dưới chủ quản tỉnh Quảng Đông. Sau khi Trung Cộng chiếm đại lục, Dân Quốc chạy ra Đài Loan, thì đảo này dưới chủ quản của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Hiện tại Đài Loan biến đảo thành một pháo đài với nhiều công sự phòng thủ kiên cố và một sân bay cho phép máy bay vận tải C130 lên xuống.
    Theo học giả Vương Hồng Sển, tên của nó có thể bắt nguồn từ việc một vị quan cai trị người Pháp phải đặt mật hiệu cho hòn đảo này nhưng còn chưa nghĩ ra. Sau đó ông đặt tên cho nó theo hai người hầu ở trong nhà ông là Chị Tư và Chị Ba. Vì người Pháp không đọc âm "h" nên thành Itu Aba[1].
    Tuy nhiên đó chỉ là một chuyện vui vì cái tên Itu Abaer rồi Itu Aba đã có từ giữa thế kỷ 19 theo sách vở ghi lại là tên của đảo do những ngư dân Hải Nam nói với đoàn thám hiểm. "Widuabe" là cách phát âm 黃山馬峙, Hoàng Sơn Mã Trĩ của người Hải Nam. Điều này trái ngược hoàn toàn với cách giải thích rằng tên hòn đảo bắt nguồn từ tiếng Malaysia là "cái gì đây?" hay tiếng Indonesia có nghĩa là "người Cha".
    Đảo Thái Bình được đặt tên theo con tàu của Đài Loan đến chiếm đóng đảo này năm 1946. Còn Ba Bình thì là tên của tiến sĩ Nguyễn Nhã đặt cho đảo này.
  3. caominhhuy

    caominhhuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/07/2010
    Đã được thích:
    5
    Tôi không đồng ý với quan điểm của bác này. Việt Nam ta đã cố gắng từ khi thống nhất nước nhà bao nhiêu năm qua. Sự cố gắng đó theo bác chỉ để hơn Bắc Hàn và Cu Ba. Sao bác không so sánh với các nước khác ví dụ mhư Nam Hàn.......Nam Hàn nó cũng bị thằng Bắc Hàn nó phá cho đến ngày hôm nay.
    Theo tôi nhận định. Các nước phát triển ở xung quanh ta như Nam Hàn, Đài Loan, Singapo, kể cả Thái Lan. Muốn phát triển tốt, ngoài sự nỗ lực của người dân, còn phải có chính sách nhất quán của nhà nước. Nghĩa là nhà nước phải có những chính sách tốt và không thay đổi. Cái điều kiện này thì tôi rất bức xúc. Chúng ta những thành viên hoạt động đầu tư CK và chém gió ở f319 đều thấy rằng chính sách hiện nay của nhà nước đối với CK như thế nào. Thì đó là câu trả lời chung cho cả nền kinh tế VN.
    Còn một điều kiện này rất quan trọng. Muốn phát triển tốt, rất cần có bạn để giúp ta đi lên. Bạn tốt của VN ngoài Khựa bẩn ra. Có bác nào chỉ thêm cho tôi đó là ai với ? Buồn quá.
  4. buonbanCP

    buonbanCP Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2007
    Đã được thích:
    955
  5. honghacuulong

    honghacuulong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/07/2011
    Đã được thích:
    0
    Có một ai đó đã nói rằng tại sao Việt nam lại "trao thân gửi phận" (từ nguyên văn) cho kẻ thù ngàn đời của dân tộc. Ý học giả này nói đến việc Việt nam là chọn Trung quốc là đồng minh chiến lược trong khi mộng bành trướng, bá quyền, phát xít của chúng luôn nhất quán. Các cụ nói câu rất đơn giản "chọn bạn mà chơi" có vậy thôi nhưng nhìn lại bạn của Việt nam ngoài đồng minh Trung quốc số 1, Cu Ba, Lào, Libi, Campuchia thì lại không chơi thực sự với các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức. Chơi theo kiểu đu dây thì còn lâu mới khá được. Tưởng bọn nó không biết là mình lợi dụng nó chắc. Chừng nào còn đu dây chừng đó còn chưa thể khá được.
  6. SINH-TU

    SINH-TU Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    01/06/2010
    Đã được thích:
    73
  7. Hoang_Viet

    Hoang_Viet Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/06/2011
    Đã được thích:
    0
    Ảnh rất đẹp, rất chân thực!
  8. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142

    T­­hương quá, đồng bào ơi!!!!!!!
  9. lefan_1

    lefan_1 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/07/2011
    Đã được thích:
    221
    Dân chủ không tự nhiên mà có

    Với nhan đề như trên, tôi muốn nói đến ba điều: một, dân chủ là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử; hai, dân chủ là kết quả của những nỗ lực không ngừng nghỉ của nhiều người và nhiều thế hệ; và ba, dân chủ là kết quả của việc học tập.
    Mệnh đề thứ nhất tương đối dễ hiểu và dễ thấy. Tuy khái niệm “dân chủ” đã ra đời ở Hy Lạp cách đây đã 2500 năm, nhưng, thứ nhất, đó chỉ là dạng phôi thai của dân chủ với nhiều hạn chế nhất định; và thứ hai, cái dạng phôi thai ấy đã bị bóp chết một cách tức tưởi suốt cả hai ngàn năm sau đó, trong suốt thời kỳ trung cổ và Trung Đại, khi mọi quyền lực đều nằm hẳn trong tay của giới tu sĩ hoặc giới quý tộc. Hình thức dân chủ mà chúng ta đang đề cập chỉ mới xuất hiện từ hơn một trăm năm nay, và càng ngày càng hoàn thiện dần.
    Mệnh đề thứ hai cũng rõ: Mọi nền dân chủ đều ra đời sau những cuộc tranh đấu dai dẳng, có khi còn đẫm máu. Dân chủ không phải là món quà cho không biếu không của ai cả. Đó là thứ mà người ta phải giành giật và đánh đổi bằng cả xương máu của chính mình.
    Tuy nhiên, trong bài này, tôi chỉ muốn tập trung vào mệnh đề thứ ba: Dân chủ là điều người ta phải học tập.
    Trước hết, cần lưu ý: dân chủ không phải chỉ là vấn đề cơ chế. Không phải cứ có bầu cử, có Quốc Hội, có luật pháp, có truyền thông, dù là truyền thông tự do, là có dân chủ. Bên cạnh cơ chế, có khi còn quan trọng hơn cơ chế, là con người. Dù cơ chế có hoàn hảo đến mấy nhưng thiếu những con người có ý thức dân chủ thì cái cơ chế ấy cũng sẽ bị vô hiệu hóa và không sớm thì muộn thế nào cũng bị sụp đổ. Lý do là: một trong những điều kiện quan trọng của cơ chế dân chủ là sự tham gia của dân chúng. Tham gia bằng nhiều cách và với nhiều mức độ khác nhau, từ việc bầu cử đến việc ứng cử, từ việc góp ý đến việc sinh hoạt, v.v… Thiếu ý thức dân chủ, những sự tham gia ấy nhất định sẽ bị hạn chế và có nguy cơ bị lệch hướng: thay vì phát huy dân chủ, chúng lại củng cố độc tài.
    Nhưng ý thức dân chủ không phải là thứ bẩm sinh. Nó không được sinh ra. Nó phải được thụ đắc. Thụ đắc trong hai môi trường chính: giáo dục và xã hội.
    Trong giáo dục, ngoài kiến thức, hai mục tiêu quan trọng cần được nhấn mạnh là việc đào luyện cho học sinh và sinh viên khả năng suy nghĩ một cách độc lập và sáng tạo. Thiếu hai khả năng ấy, người ta chỉ là những con vẹt, thậm chí, những công cụ. Sự độc lập phải được hiểu là độc lập từ chính thầy cô giáo, từ sách giáo khoa, và xa hơn nhưng cũng thiết yếu hơn, độc lập từ các giáo điều. Khi xã hội còn nặng tư tưởng giáo điều, cứ mở miệng ra là “Tử viết” hoặc “Marx nói”, “Lênin nói” hay “Bác Hồ nói”, trẻ em, và từ đó, dân chúng không thể có sự độc lập trong tư duy được. Mà đã không có độc lập thì không thể sáng tạo. Nền tảng của độc lập và sáng tạo, do đó, là sự tin tưởng vào sự thật và sự tự tin là chính mình, bằng những nỗ lực riêng của mình, có thể tiếp cận được sự thật ấy. Có được niềm tin tưởng và sự tự tin ấy, người ta mới có thể hành xử như một con người tự do. Có hành xử như những con người tự do, người ta mới có dân chủ.
    Nhưng nhà trường không, chưa đủ. Ý thức dân chủ còn cần phải được đào luyện trong môi trường xã hội nữa. Những gì được học trong nhà trường cần phải được thực tập ngay trong đời sống hàng ngày, ở đó, người ta được thoát ra khỏi áp lực của tập quán và giáo điều và được có quyền phát biểu những ý kiến riêng của mình dù chúng đi ngược lại với đám đông và với quyền lực. Việc hành xử như một con người tự do – điều kiện của dân chủ - do đó, chỉ có thể thực hiện được trong môi trường tự do.
    Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục và xã hội trong việc đào luyện ý thức cũng như thói quen dân chủ sẽ dẫn đến hệ luận này: Để xây dựng một nền dân chủ tại Việt Nam, người ta phải bắt đầu, trước hết, từ hai điểm: giáo dục và xã hội. Khi giáo dục và xã hội chưa thay đổi, sự thay đổi về cơ cấu quyền lực, nếu có, không có gì bảo đảm sẽ dẫn đến dân chủ cả. Có khi đó chỉ là thay thế một hệ thống độc tài này bằng một hệ thống độc tài khác.
    Nhưng nhìn cả hai phương diện giáo dục và xã hội ở Việt Nam, liên quan đến vấn đề dân chủ, chúng ta không thể không bi quan. Nền giáo dục Việt Nam, cho đến nay, sau bao nhiêu lời hứa hẹn cải cách, vẫn không hề thay đổi theo chiều hướng phát huy tinh thần độc lập và sáng tạo. Học sinh vẫn phải nhồi nhét kiến thức để trả bài. Thầy cô giáo vẫn tự đóng vai trò trung tâm phân phối kiến thức. Hệ thống thi cử vẫn dựa trên việc kiểm tra ký ức. Việc nhồi nhét ấy dẫn đến hệ quả khác: sự giả dối. Trẻ thì giả dối trong cách học tủ và học vẹt. Lớn thì giả dối trong việc mua bán bằng giả và bằng dỏm. Khi giả dối lên ngôi, mọi bảng giá trị, từ truyền thống đến hiện đại, đều bị đảo lộn. Không có nền dân chủ nào có thể được xây dựng trên những sự đảo lộn như vậy cả.
    Sinh hoạt xã hội Việt Nam hiện nay cũng không phải là mảnh đất tốt để nuôi dưỡng dân chủ. Luật pháp không rõ ràng, để sống còn, người ta phải mánh mung. Xin trường học cho con cái: mánh mung. Xin việc làm: mánh mung. Để tăng lương hoặc tăng chức: mánh mung. Ở đâu cũng có và cũng cần có mánh mung cả. Thói mánh mung ấy, một mặt, giết chết luật pháp, mặt khác, giết chết cả niềm hy vọng vào dân chủ.
    Để thay đổi môi trường xã hội như thế, người ta không chỉ cần củng cố hệ thống pháp luật như một số người đã nói; người ta cần phải, quan trọng và khẩn thiết hơn, xây dựng cho được một xã hội dân sự lành mạnh.

    E coppy trên blog Nguyễn Quốc Hưng để các pák tham khảo.
  10. hoadang22

    hoadang22 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    06/07/2009
    Đã được thích:
    52
    BÁC GỐC SẬY BẢO BÀI NÀY HAY QUÁ, NÊN ĐỌC

    GS Carlyle A. Thayer và Thạc sĩ Hoàng Việt tại Hội nghị quốc tế về Biển Đông. Ảnh: Mai Kỳ

    Nhà cháu mới đọc bài: The South China Sea: Chinese Hegemony or Peaceful Settlement? của GS Carlyle A. Thayer viết từ hôm 10/6/ 2011.Thấy có phần cuối HAY quá, các bác đọc chưa nhỉ?

    If you were a Vietnamese, what would you do now?
    - Nếu là một người Việt Nam ông sẽ làm gì lúc này?

    ANSWER: If I were a Vietnamese citizen I would want to express my concern to the government about the threat to national sovereignty posed by Chinese actions.
    Nếu là một người Việt Nam tôi sẽ bày tỏ sự lo ngại với chính phủ Việt Nam về nguy cơ về chủ quyền quốc gia do hành vi của Trung Quốc gây ra.

    I would want my government to provide reassurance that it has a strategy to defend Vietnam’s sovereignty and to gain the sympathy and support of the world community.
    Tôi muốn chính phủ đưa ra bảo đảm rằng họ đã có một chiến lược bảo vệ chủ quyền của Việt Nam và nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng thế giới.

    I would like to see the Prime Minister, Foreign Minister and Defence Minister give public speeches in the major cities outlining their views. These should be broadcast on television and radio and printed in the media.
    Tôi muốn thấy Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng có các bài phát biểu công khai về quan điểm của họ tại các thành phố lớn. Những bài phát biểu ấy cần được phát trên các đài phát thanh, truyền hình và in trên báo chí.

    As a Vietnamese citizen I would keep myself as fully informed on developments in the South China Sea by reading as much as possible. I would want my government to provide information. Because this is a complex issue I would want to know the pros and cons of various policy options.
    Nếu là một công dân Việt Nam tôi sẽ luôn tự giác nắm bắt đầy đủ thông tin về các diễn biến trên biển Đông và cố gắng đọc càng nhiều càng tốt. Tôi muốn chính phủ tôi cung cấp thông tin. Bởi vì đây là một vấn đề phức tạp, tôi muốn biết mặt lợi và mặt bất lợi của các chọn lựa chính sách.

    If I were a student, I would want my lecturers to discuss this issue. I would like to know the views of leading Vietnamese and foreign scholars.
    Nếu tôi là một sinh viên tôi sẽ muốn các thầy cô cho thảo luận vấn đề này. Tôi muốn biết quan điểm của các học giả hàng đầu của Việt Nam và nước ngoài.

    If I had friends overseas I would want to exchange views with them. Above all I would want to know what is motivating China and how a peaceful resolution to this issue can be achieved.
    Nếu có bạn bè ở nước ngoài tôi sẽ trao đổi quan điểm với họ. Quan trọng hơn, tôi muốn biết động cơ thực sự của Trung Quốc và làm thế nào để có thể đạt được một giải pháp hòa bình cho vấn đề này .

    * Xin cảm ơn bác GỐC SẬY, và xin giới thiệu để cùng đọc.

    .
    Được đăng bởi Nguyễn Xuân Diện vào lúc 11:53
    Gửi email bài đăng này
    BlogThis!
    Chia sẻ lên Twitter
    Chia sẻ lên Facebook
    Chia sẻ lên Google Buzz
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này