Biển Đông - Quyết tâm cao nhất bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hải đảo - tập 6

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi GBlock, 29/06/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
6478 người đang online, trong đó có 31 thành viên. 04:53 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 118004 lượt đọc và 2069 bài trả lời
  1. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118
    Nói bác cứ giận , bác giận mệt bác ! :))
    Nhiều người đến cả bản thân còn không tin thì họ biết tin ai ? :-??
  2. gacvuon

    gacvuon Thành viên gắn bó với f319.com Not Official

    Tham gia ngày:
    16/11/2009
    Đã được thích:
    6.543
    Bái phục bác ! Em ko có lòng tin như bác, vì sao , vì chúng nó đánh cắp lòng tin của em rồi. HS, TS, ... em nhường cho con cháu hơn 100 thèng to đầu đi trước 1 lần cho biết , em lo xây dựng bảo vệ hậu phương vững chắc.
  3. sactim

    sactim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    01/04/2010
    Đã được thích:
    35
    Mấy ông LĐ nhà ta trốn đâu rồi ?, để mấy bác TS, GS mần lên mần xuống với bọn phát xít TQ chỉ tổ tức lộn cổ ??? :-??:-??:-??
  4. trongvcbs

    trongvcbs Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    20/04/2010
    Đã được thích:
    70
    Pak Trong này hổm nay bận quá chưa đi thăm anh e được[r2)][r2)][r2)][r2)][r2)]
  5. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118
    Đúng ! Bảo họ cho con trai

    Lên đàng chiến đấu vì dân ...
    Vợ con gửi lại dân quân xã nhà ...
    Ai đi bảo vệ Trường Sa ...
    Gác vườn ở lại gác bà nhà bên !

    =))=))=))=))=))=))=))=))=))
  6. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118
    Khựa bằng với chó được sao ?
    Chó trung tín nghĩa , Tàu nào cũng gian !
    Tàu hèn giả giọng to gan ...
    Vào đây ta đánh cho tan máu bành !


    :-bd:-bd:-bd:-bd:-bd:-bd:-bd:-bd
  7. trongvcbs

    trongvcbs Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    20/04/2010
    Đã được thích:
    70
    Em nghiên cứu KINH DỊCH thâm niên 17 năm nay....Hôm nay gửi bài này của một tác giả để quý vị hiểu rỏ hơn về cội nguồn văn hóa Việt....[r2)][r2)][r2)]
    Kinh Dịch là của người Việt?
    17/03/2011 07:02:23

    Người Trung Hoa đã có 2000 năm để nói Kinh Dịch là của họ, có hơn vài ngàn tác giả với hơn mấy ngàn đầu sách luôn luôn khẳng định điều này khiến nó đã thành một sự thật hiển nhiên khó ai cãi lại được. Nhưng ngày nay đã có những chứng cứ cho chúng ta thấy rằng nguồn gốc của Kinh Dịch không thể tìm thấy ở Trung Hoa, mà Việt Nam mới chính là nơi khai sinh Kinh Dịch.

    Mặc dầu những người bày tỏ quan điểm này chỉ đếm được trên đầu ngón tay, quả là “mãnh hổ nan địch quần hồ”, nhưng chân lý không phải là dựa vào số đông.


    Một người làm khoa học chân chính chỉ nên đưa ý kiến phản biện sau khi đã đọc kỹ quan điểm đối lập, cân nhắc chính xác những bằng chứng họ đề ra xem chỗ nào mình đồng ý, chỗ nào không đồng ý, rồi chính mình phải trưng cho được những chứng cứ ngược lại để làm sáng tỏ vấn đề, không nên nói chung chung, nói theo cảm tính. Cho rằng Kinh Dịch là của Trung Quốc hay của Việt Nam là quyền của mỗi người, nhưng muốn bảo vệ niềm tin này phải dựa vào chứng lý.

    Người Trung Hoa nói về nguồn gốc Kinh Dịch dựa trên những chứng lý nào?

    1/ Trước hết họ cho Phục Hy nhìn những hình đồ trên con long mã vẽ nên bát quái. Đây là chuyện hoang đường chỉ hợp với những người mê tín, ưa sự huyền hoặc, thế mà cũng được vô số người tin như thật. Nhưng Phục Hy dù là nhân vật huyền thoại vẫn không phải là thủy tổ chính thống của người Hoa hạ.

    Phục Hy là tổ của một tộc trong đại chủng Bách Việt phía Nam Trung Quốc, người Hoa mượn làm tổ của mình. Tư Mã Thiên không đồng ý nên đặt Hoàng Đế ở đầu Sử ký. Vậy nếu Phục Hy có làm ra Bát quái cũng không thể nói là của Trung nguyên. Thừa nhận Phục Hy chế ra Kinh Dịch là người Hoa đã nhận Kinh Dịch là của dân Bách Việt, vậy sao cứ nói mãi Kinh Dịch của Trung Hoa và gọi đó là niềm tin chính thống. Hoàng Tông Viêm (16161 0 1686) người ở cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh đã cực lực phủ nhận vai trò của Phục Hy trong Kinh Dịch, sao người Việt Nam vẫn cứ tin!
    2/ Sau Phục Hy, người Hoa tin là Văn Vương khi bị Trụ Vương cầm tù ở Dữu Lý đã nâng cấp 8 quẻ thành 64 quẻ và viết quái từ hào từ Kinh Dịch. Người đưa ra thuyết này Tư Mã Thiên, sử gia hàng đầu và uy tín của Trung Quốc. Chính vì Tư Mã Thiên có uy tín nên người ta đã theo đó mà tin không cần kiểm chứng.

    Từ Văn Vương đến Tư Mã Thiên cách nhau hơn nghìn năm trung gian có Khổng Tử cách mổi ông chừng 500 năm. Khổng Tử rất tôn sùng Văn Vương, thế mà chưa bao giờ nói với Văn Vương soạn Kinh Dịch. Ở đầu quyền Sử ký, lương tri Tư Mã Thiên còn ray rứt nên chỉ đưa ra giải thuyết “có lẽ Văn Vương diễn Dịch”, nhưng gần cuối sách thì lại xác định hẳn là Văn Vương diễn Dịch, và nhiều người hùa theo đó mà tin.

    Kinh Thi là sách đại tụng Văn Vương, kể rất nhiều công tích của văn Vương nhưng không hề đả động đến Kinh Dịch. Các con Văn Vương như Võ Vương, Chu Công dùng bói toán để cúng lễ Văn Vương nhưng chưa bao giờ nói Văn Vương bói Dịch chứ đừng nói đền chuyện Văn Vương soạn dịch.

    Chính nhóm Ngô Bá Côn đã xác định điều này: “Từ thời cận đại đến nay, cách nhìn nhận này đã bị các học giả phủ nhận” (Dịch học, Nxb Văn hóa – Thông Tin, Hà Nội, 2003, tr.90). Sách Tả truyện dẫn nhiều câu chuyện bói Dịch nhưng không hề nói Văn Vương soạn Dịch. Các nhà Dịch học Trung Quốc đầu thế kỷ XX đã có người muốn dứt bỏ Văn Vương khỏi vương quốc Kinh Dịch, nhưng có một số người nhiễu sự ưa chuyện huyễn hoặc cứ cố níu kéo Văn Vương, nhất là một số Dịch học người Việt.

    3/ Sau khi loại bỏ Phục Hy và Văn Vương, một số nhà Dịch học Trung Quốc lại cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ các nhà Vu Hịch là các quan coi việc bói toán (Có Hiệt Cương, Lý Kính Trì), Kinh Dịch có các từ phán đoán giống các từ bói toán: cát, hung, hối lận, cữu, vô cữu, nhiều lời hào trùng hợp với lời bói, nhưng quan điểm này không mấy thuyết phục vì hai cơ cấu Dịch và bói khác nhau, bốc từ là những câu hỏi sẵn đưa ra để hỏi về một vấn đề mà người hỏi thắc mắc, câu trả lời là nhận hoặc phủ nhận, có hay không, còn hào từ phải tùy thuộc vị trí của hào, bản chất của hào, thời của quẻ.

    4/ Phát hiện mới nhất là quan điểm của Trương Chính Lương khi cho rằng nguồn gốc của quẻ Dịch đến từ quẻ số khắc trên Giáp Cốt Văn và Kim Văn. Nhóm Chu Bá Côn cũng đã có ý kiến về vấn đề này “Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1,5,6,7,8 … không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong Kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biiệt quái” (Dịch học, tr.63).

    Sau cùng nhóm Chu Bá Côn kết luận: “Tóm lại, đối với việc tìm hiểu nguồn gốc của quái, hào, tượng tuy đã có một số ý kiến có ảnh hưởng nhất định trong mấy năm gần đây, nhưng những điều được đề cập tới đầu không ngoài loại tượng và số, vẫn chưa thể nói là đã có một đáp án được gọi là công nhận. Có lẽ trong tương lai gần, theo đà phát hiện tư liệu ngày càng nhiều, chúng ta sẽ có được một đáp án xác đáng.” (Dịch học, tr.63). Còn Vương Ngọc Đức thì bi quan hơn: “Cuộc tranh luận kéo dài hai ngàn năm vẫn không có câu giải đáp chính xác. Nếu vẫn theo phương thức tư duy của các học giả thời xưa, thì hai ngàn năm nữa vẫn chưa làm rõ được vấn đề". (Bí ẩn của Bát Quái – Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 1996, tr.27).

    Như vậy, đối với vấn nạn nguồn gốc Kinh Dịch, các học giả Trung Quốc đành chịu “bó tay” không truy vấn được. Vậy thì người Việt Nam hà cớ gì cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận, cứ trân trọng mãi cái họ đã ném đi.

    Vậy để xác định Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam, chúng ta có những chứng cứ gì?

    Năm 1970, Giáo sư Kim Định đã tuyên bố “Kinh Dịch là của Việt Nam” trong tác phẩm Dịch Kinh linh thế, tiếp sau đã có nhiều người mạnh dạn đề xuất những chứng cứ như Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trần Quang Bình, Hà Văn Thùy, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc Lâm …

    Riêng cá nhân tôi từ năm 1999, đến nay, tôi đã trình với công luận những chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên Việt Nam qua mấy điểm sau:

    Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn thì Việt tộc đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng Vương – Thanhnienonline).

    Chứng liệu của Việt tộc trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận từ số đến tượng như Trung Quốc. Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép trên đồ đồng Đông Sơn. Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn Lang – Anviettoancau.net).

    Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm của Việt Nam, Trung Quốc đã nối những chấm âm lại thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần – dạng thức nguyên thủy của hào âm dương – thanhnienonline).

    Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly, Tốn, Đoài chỉ là từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch – Dunglac.net).

    Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài của Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã được tổ tiên Việt Tộc sử dụng đễ viết quái, hào từ Kinh Dịch. Đồ này được tổ tiên Việt tộc giấu trong truyền thuyết, trên trống đồng, nên có thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh Kinh Dịch cũng như phân bố vị trí các quẻ. (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch đồ nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam – Thanhnienonline)

    Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh Dịch, như chuyện Con Rồng cháu tiên là chuyện của Trung thiên Đồ, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là chuyển kể lại từ những lời hảo quẻ Mông, người Trung Hoa chỉ cần thay đổi bộ thủy trong hai chữ “chất cốc” là đổi câu chuyện nói về lũ lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc tích của Kinh. Truyền thuyết được lưu giữ chính là để báo tồn Kinh Dịch (Các bài trên Anviettoancau.net – cùng tác giả).

    Trong một bài báo ngắn, chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc đại thức giả Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng cho tổ tiên. Thái độ thờ ơ của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay chua xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ huyền án này.

    Theo Nguyễn Thiếu Dũng (Tạp chí Xưa & Nay)
  8. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118
    [​IMG]


    Pak Trọng này chưa thăm anh em ...
    Mãi lo đeo kiếng ngắm chị em ...
    Em nào hàng bự lo mà giữ ...
    Kẻo pak Trọng đang trố mắt xem !
    Tay cầm bao thuốc , tay sờ vế ...
    Ra dáng đại ca , thấy mà thèm !
    Hỏi thăm nay pak bao xuân nhỉ ?
    Chắc còn sung sức nếm chả nem ?

    [r2)][r2)][r2)][r2)][r2)][r2)][r2)]

  9. viki

    viki Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/11/2004
    Đã được thích:
    0
    Dân trí người Việt còn thấp nên không hiểu cách CP đối phó với TQ đâu. Cụ thể là: Bộ trưởng Lê Doãn Hợp trả lời phỏng vấn đài hải ngoại PhoBolsaTV: Chưa cho phép báo tư nhân do...dân trí còn thấp?!
  10. trongvcbs

    trongvcbs Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    20/04/2010
    Đã được thích:
    70
    Hà đồ trong văn minh Lạc Việt

    Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh - NXB Văn Hóa Thông Tin
    Phát hành: 26/04/2008
    Đọc sách

    Nếu khiên cưỡng mà nói rằng: Từ Hà đồ vua Phục Hy làm ra Tiên thiên bát quái, mà Tiên thiên bát quái là cơ sở của Dịch, do đó: Hà đồ chính là đồ hình căn bản của Lý học Đông phương. Nhưng tại sao với một đồ hình khởi nguyên của nền Dịch học Đông phương, chúng ta lại không thể chỉ ra và chứng minh cho mối liên hệ (Dù chỉ tạm chấp nhận ở tính hợp lý cho mối liên hệ đó) từ một đồ hình nguyên lý của nền Lý học Đông phương - được gọi là Hà đồ - với tất cả mọi phương pháp ứng dụng của nó?

    Trải hàng thiên niên kỷ trôi qua trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại, con người không quên chiêm ngưỡng quá khứ. Nhưng trong sự phát triển của văn minh nhân loại, có cái gì đó không liên tục, mặc dù vẫn nằm trên một trục thời gian. Nó như bị ngắt quãng và giống như một sự chuyển dịch nhảy cóc từ không gian văn minh này sang một không gian văn minh khác, không hề có mối liên hệ chuyển tiếp. Hay nói một cách khác:

    Nó không có sự kế thừa giữa các nền văn minh trong lịch sử phát triển của nhân loại.

    Bởi vậy, trong nhận thức của nhân loại hiện đại, khi nhìn lại những không gian văn minh bị ngắt quãng ấy, đã không khỏi kinh ngạc trước những hiện tượng bí ẩn một cách kỳ vĩ trong quá khứ. Đó là: Kim Tự tháp ở Ai Cập, tượng khổng lồ ở đảo Phục Sinh, những di vật kỳ lạ về tri thức thiên văn của nền văn minh Maya… Người ta có thể sẽ không quan tâm đến tính huyền bí của tri thức tạo ra những kỳ quan đó. Vì hệ quả của những tri thức chưa biết đó là những di sản vật thể đang tồn tại trên thực tế. Cho nên di sản của những nền văn minh trên ít mang màu sắc huyền bí.

    Nhưng không gian của văn minh Đông phương cổ thì ngược lại, nó bị coi như là mang màu sắc huyền bí vì không có được sự may mắn đó. Ngoài những di sản văn hoá vật thể, văn minh cổ Đông phương đã để lại cho nhân loại hiện đại một di sản văn hóa phi vật thể rất đồ sộ, qua những tư duy tri thức có thể truyền thừa với những khái niệm mơ hồ, dường như là huyễn hoặc với tri thức hiện đại . Đó chính là những phương pháp ứng dụng của học thuật cổ Đông phương, tỏ ra rất hữu hiệu trên thực tế nhằm phục vụ con người: Từ Đông y, thiên văn lịch số, xây dựng (phong thuỷ) đến cả sự tiên tri đến chi tiết cho số phận của từng con người… Tính hiệu quả của các phương pháp ứng dụng trong học thuật cổ Đông phương và sự mơ hồ huyền ảo của nhữngkhái niệm trong học thuật này, đã tạo nên sự huyền bí và còn là sự thách đố tất cả những tri thức của nhân loại hiện đại. Trải hàng ngàn năm trôi qua, biết bao công sức của các nhà nghiên cứu đã bỏ ra mà vẫn không làm sáng tỏ được sự huyền bí trong học thuật cổ Đông phương.

    Phải chăng , vì những thực tại mà nền văn minh Đông phương cổ nhận thức được và phản ánh những thực tại đó bằng những khái niệm của nó, nằm ngoài những tri thức của nền văn minh hiện đại? Bởi vậy, tri thức hiện đại đã mơ hồ và cảm thấy huyền bí, khó hiểu trước những khái niệm phản ánh một thực tại chưa được biết đến.

    Phải chăng tính thất truyền và những sai lệch qua những thăng trầm của lịch sử, đã khiến cho những tri thức của nền văn minh này ngày càng trở nên bí ẩn và xa lạ và tri thức hiện nay của con người bất lực trong việc khám phá nó?

    Nhưng dù huyền bí khó hiểu; dù bị nhân loại giải thích sự tồn tại của văn minh Đông phương bằng đủ thứ phương pháp luận; từ thần quyền , huyền bí , mê tín dị đoan đến phương pháp luận khoa học ….thì nền văn hóa Đông phương vẫn hiện hữu trên thực tế, sừng sững một cách kỳ vĩ thách đố trí tuệ của con người. Chính hiệu quả của các phương pháp ứng dụng trong học thuật cổ Đông phương trên thực tế, là sự bảo đảm cho khả năng tồn tại của nó trải hàng ngàn năm trong ã hội Đông phương cổ.Điều này cũng chứng tỏ rằng:

    Đằng sau hiệu quả thực tế đã trải qua hàng ngàn năm ấy là một chân lý đang tồn tại. Hay nói một cách khác:

    Tri thức của học thuật cổ Đông phương với hiệu quả thực tế của nó, không thể từ trên trời rơi xuống, nó phải phản ánh một thực tại đã được người Đông phương cổ nhận thức và tổng hợp thành lý thuyết và từ đó tạo ra phương pháp ứng dụng .

    Bởi vậy, việc đi tìm những thực tại nằm ngoài sự nhận thức của tri thức khoa học hiện đại trong nguyên lý học thuật cổ Đông phương là một việc hoàn toàn có cơ sở khoa học, khi mà hiệu quả những phương pháp ứng dụng của học thuật cổ Đông phương đã chứng tỏ trên thực tế trải hàng thiên niên kỷ.

    Khi tìm hiểu phương pháp luận của học thuật cổ Đông phương, tất cả những nhà nghiên cứu đều nhận thấy nó gắn liền với một học thuyết vũ trụ quan rất mơ hồ là thuyết âm dương ngũ hành. Có thể nói rằng: Cho đến tận lúc này hàng ngàn năm đã trôi qua - các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể tìm thấy tính hoàn chỉnh và nhất quán của học thuyết này. Có người còn cho rằng đó là hai học thuyết có nguồn gốc riêng biệt không liên quan đến nhau. Thậm chí, có người còn cho rằng thuyết âm dương là chính thống và phủ nhận thuyết ngũ hành trong ứng dụng vì tính huyễn ảo và mơ hồ của nó. Sự mâu thuẫn trong những luận điểm của các học giả về học thuật cổ Đông phương trải hàng ngàn năm đã cho thấy một sự thất truyền và sai lệch ngay trong những di sản còn lại của nó.

    Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai

    Muốn tìm hiểu giá trị của tri thức cổ Đông phương thì chúng ta phải phục hồi lại nguyên lý đích thực của nó và thực tại nào đã làm nên nhận thức để tạo ra nguyên lý đó. Có thể ai cũng biết điều này, nhưng vấn đề còn là phương pháp tiếp cận và một hướng đúng cho việc khám phá những giá trị huyền vĩ của nền văn minh này.

    Vấn đề được đặt ra trong tiểu luận “Hà đồ trong nền văn minh Lạc Việt”, là hướng tiếp cận để tìm chiếc chìa khoá mở cánh cửa huyền bí của nền văn minh Đông phương . Đồng thời cũng là sự tiếp tục của những cuốn sách chuyên đề đã xuất bản có nội dung liên quan (*). Đó là:

    - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại

    - Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp

    - Tìm về cội nguồn Kinh Dịch

    - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam

    - Bản chất của ý thức (Định mệnh có thật hay không?)

    Trong nguyên lý học thuật cổ Đông phương thì Hà đồ vốn được coi như cội nguồn huyền vĩ , thiêng liêng đầu tiên của tạo hóa ban tặng cho nhân loại. Người ta cho rằng: kỳ lân – một linh vật thiêng liêng trong tứ linh thuộc huyền thoại Đông phương – nổi lên ở trên sông Hoàng Hà đã mang Hà đồ đến cho vị thánh nhân đầu tiên của con người và khởi đầu cho nguyên lý học thuật cổ Đông phương huyền bí:

    “Phục Hy tắc Hà đồ hoạch quái.”

    Huyền thoại về Hà đồ xuất phát từ cách hiểu về một câu trong Kinh Dịch. Dịch viết: “Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tác chi”. Hà đồ chính là sự khởi nguồn của Kinh Dịch, một kỳ thư nền tảng của Lý học Đông phương. Sự huyền bí đến kỳ vĩ của Hà đồ không chỉ ở huyền thoại tạo ra nó, mà còn bởi chính sự mâu thuẫn trong nội dung của nó, đã thách đố trí tuệ của nhân loại trải qua hàng thiên niên kỷ cho đến tận bây giờ: Căn nguyên của thuyết âm dương trong Kinh Dịch lại chính là Hà đồ mang nội dung ngũ hành; nhưng cho đến bây giờ, các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm thấy sự thống nhất của thuyết âm dương và ngũ hành trong các bản văn cổ chữ Hán?

    Như vậy, ngay từ nguyên lý căn bản của Lý học Đông phương là Hà đồ – khi tự thân nó đã chứa đựng nội dung của âm dương ngũ hành – nên nó đã tạo ra mâu thuẫn hoàn toàn mang tính phủ định mọi luận điểm và hiện tượng trong lịch sử phát triển của học thuật cổ Đông phương, xét trong các bản văn chữ Hán. Đó chính là nguyên nhân quan trọng của sự bí ẩn kỳ vĩ đến huyền bí của một nền văn minh đã chìm sâu trong quá khứ.

    Trải hàng thiên niên kỷ, đã bao nhiêu giấy mực viết về Hà đồ . Theo thống kê của tác giả Dương Ngọc Dũng và Lê Anh Minh – trong cuốn Kinh Dịch - Cấu hình tư tưởng của Trung Quốc – thì tính từ thời Tiên Tần đến nay đã có hơn 150 đầu sách viết về Hà đồ bằng tiếng Hán. Thậm chí người Hoa Hạ đã có hẳn một môn học gọi là: “Hà đồ học”, nhưng cho đến nay, người ta vẫn chưa biết gì về bản chất của Hà đồ. Nói theo cách nói của Giáo sư Nguyễn Hữu Lượng trong cuốn Kinh Dịch – vũ trụ quan Đông phương:

    “Bí ẩn vẫn hoàn bí ẩn”.

    Điều kỳ lạ là hầu hết những bản văn cổ chữ Hán khi nói đến Hà đồ thì có vẻ như nó là đồ hình căn bản của nguyên lý học thuật cổ Đông phương. Ngay từ sách Thượng Thư, thiên Cổ Mệnh cũng ghi: “Vách bên trái cung điện của Văn Vương có vẽ Hà đồ”. Khi luận về Kinh Dịch thì từ thời Tiền Hán cho đến nay, hầu hết các học giả và nhà nghiên cứu trên thế giới đều biết vị vua huyền thoại nổi tiếng trong lịch sử Đông phương, đã từ Hà đồ để khởi nguồn cho nền văn minh kỳ vĩ này : “Phục Hy tắc Hà đồ hoạch quái” . Những quái hoạch đầu tiên của Kinh Dịch – gọi là Tiên thiên bát quái - bắt đầu từ Hà đồ.

    Hà đồ huyền vĩ và quan trọng như vậy, nhưng trong tất cả các phương pháp ứng dụng trong học thuật cổ Đông phương từ cổ thư chữ Hán thì người ta lại không hề tìm thấy tính ứng dụng liên quan đến Hà đồ?

    Sự huyền bí của Hà đồ cũng không phải chỉ dừng ở đấy. Nguyên ủy xuất xứ của Hà đồ là một đồ hình huyền bí xuất hiện trên lưng con long mã trên sông Hoàng Hà, vua Phục Hy thấy được và căn cứ vào đó để hoạch quái, tạo ra tiền đề cho môn dịch học kỳ vĩ của văn minh Đông phương. Điều huyền bí và kỳ lạ này trải đã hàng ngàn năm và cho đến tận ngày hôm nay, như một tiên đề của Lý học Đông phương. Khi các nhà nghiên cứu viết về Kinh Dịch, hoặc những vấn đề liên quan đến nó thì đều nhắc tới sự huyền bí khó tin này, như sự chấp nhận một thực tế đã tồn tại !?

    Từ cái đồ hình trên long mã này, liên quan gì đến các phương pháp ứng dụng của học thuật Đông phương?

    Trong phong thủy chăng? Không thấy nói đến! Vì phi tinh, phân cung thảy đều căn cứ vào Lạc thư?

    Trong bói Dịch chăng ? Không thấy ứng dụng thực tế ! Vì 64 quẻ Hậu thiên căn cứ vào đồ hình Hậu - thiên theo bản văn chữ Hán thì đồ hình căn bản của nó là Hậu thiên bát quái chỉ liên hệ với Lạc thư.

    Trong Tử Vi chăng ? Không hề nhắc tới . Ngay cả trong Thái Ất phân cung, tính sao, tìm cục đều liên hệ với số Lạc thư. Vậy Hà đồ đóng vai trò gì trong nguyên lý học thuật cổ Đông phương và có liên hệ như thế nào với thực tế ứng dụng của nó? Một câu hỏi xuyên suốt hàng thiên niên kỷ .

    Nếu khiên cưỡng mà nói rằng: Từ Hà đồ vua Phục Hy làm ra Tiên thiên bát quái, mà Tiên thiên bát quái là cơ sở của Dịch, do đó: Hà đồ chính là đồ hình căn bản của Lý học Đông phương. Nhưng tại sao với một đồ hình khởi nguyên của nền Dịch học Đông phương, chúng ta lại không thể chỉ ra và chứng minh cho mối liên hệ (Dù chỉ tạm chấp nhận ở tính hợp lý cho mối liên hệ đó) từ một đồ hình nguyên lý của nền Lý học Đông phương - được gọi là Hà đồ - với tất cả mọi phương pháp ứng dụng của nó?

    Tiểu luận “Hà đồ trong văn minh Lạc Việt” là một sự tiếp tục của những cuốn sách mà người viết đã xuất bản và đi sâu vào một chuyên đề để tìm bản chất của Hà đồ trong nguyên lý học thuật cổ Đông phương . Đồng thời, tiểu luận này sẽ là sự minh chứng rõ nét hơn cho cuốn “Đức Phật khai ngộ về tính thấy”. Nxb Tôn giáo 2006 - Tức “Định mệnh có thật hay không?”.

    Chính vì là sự tiếp tục này và để thuận lợi trong việc minh chứng, người viết xin được lặp lại không ít những luận điểm đã trình bày trong các sách đã xuất bản. Đây là điều cần thiết nhằm chứng tỏ tính hoàn chỉnh và nhất quán của một luận điểm và là sự tiện lợi chung cho tất cả những bạn đọc lần đầu tìm hiểu một luận điểm mới về cội nguồn và bản chất nguyên lý học thuật cổ Đông phương, qua cuốn sách này. Bởi vậy, người viết hy vọng rằng: Tuy có sự lặp lại một số luận điểm đã trình bày, nhưng sẽ được các bạn đọc quan tâm đã xem những bài viết hoặc những sách đã xuất bản trước vui lòng lượng thứ.
    Trong tiểu luận này: Phần trích dẫn được thể hiện bằng chữ Vni–Helve. Chính văn của người viết thể hiện bằng chữ Vni – Time. Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do tài trí còn kém cỏi so với ước vọng thực hiện đề tài, người viết rất hy vọng những cao nhân trí giả quán xét và cho ý kiến đóng góp quí báu.
    Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này