Biển Đông trong trái tim chúng ta - Nóng trong ngày tập 3.

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi ptkh, 22/02/2012.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
4373 người đang online, trong đó có 306 thành viên. 18:09 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 28798 lượt đọc và 1016 bài trả lời
  1. gialongVT

    gialongVT Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/03/2008
    Đã được thích:
    1
    Luận thuyết của Trung Quốc và Đài Loan

    Do Trung Quốc và Đài Loan sử dụng các luận cứ tương tự cho yêu sách của mình đối với hai quần đảo, chúng tôi sẽ trình bày chung các luận cứ này trong phần dưới đây.

    1. Luận thuyết của Trung Quốc dựa trên quyền phát hiện đầu tiên và chiếm cứ hữu hiệu đối với lãnh thổ vô chủ (terra nullius)

    Trung Quốc khẳng định họ đã phát hiện ra các quần đảo sớm nhất, từ thời Hán Vũ Đế (thế kỷ II trước CN). Tuy nhiên, để chứng minh cho luận cứ này, Trung Quốc đưa ra các tài liệu không phải là chính sử được viết bởi các cơ quan nhà nước. Theo Nguyễn Hồng Thao, “phần lớn chúng là những ghi chép về các chuyến đi, các chuyên khảo và các sách hàng hải thể hiện những nhận biết địa lý của người xưa liên quan không chỉ tới lãnh thổ Trung Quốc mà còn tới lãnh thổ của các nước khác.” Hơn nữa, phần lớn các tài liệu nói đến các quần đảo với những tên gọi rất khác nhau, làm cho mọi xác minh không được chắc chắn.



    Mặt khác, tác giả Phạm Hoàng Quân cho biết, theo Cổ kim đồ thư tập thành, bộ bách khoa toàn thư do Thanh triều tổ chức biên soạn, hoàn thành năm 1706, trong phần Chức Phương điển (sách điển chế về địa đồ các đơn vị hành chính), các địa đồ như Chức Phương tổng bộ đồ (địa đồ số 1), Quảng Đông cương vực đồ (địa đồ số 157), Quỳnh Châu phủ cương vực đồ (địa đồ số 167) đều không ghi nhận các quần đảo xa hơn đảo Hải Nam ngày nay. Theo Quảng Đông thông chí vẽ đời Gia Tĩnh (1522-1566) thì phần hải đảo cũng chỉ đến Quỳnh Châu (tức Hải Nam).


    Việt Nam đã có chủ quyền từ lâu đời đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    Trung Quốc cũng sử dụng những bằng chứng về khảo cổ và việc tìm thấy vết tích tiền và đồ cổ từ thời Vương Mạng để khẳng định sự có mặt của ngư dân Trung Quốc trên các quần đảo. Tuy nhiên, các hoạt động khai thác của ngư dân Trung Quốc là các hoạt động tư nhân, không mang lại hiệu lực pháp lý của quyền chiếm cứ hiệu quả mà luật quốc tế đòi hỏi.

    Để chứng minh việc thực thi chủ quyền trên các quần đảo từ lâu đời, Trung Quốc đưa ra các sự kiện sau:

    - Các cuộc tuần tra quân sự đến vùng biển quần đảo Hoàng Sa từ thời nhà Tống (960-1127). Khẳng định này dựa trên cơ sở Vũ Kinh tổng yếu (chương trình chung về quân sự có lời đề tựa của vua Tống Nhân Tông). Theo Monique Chemillier-Gendreau, tài liệu này chỉ cho thấy có các đó là các hành trình thăm dò địa lý tới tận Ấn Đô Dương, và xác nhận Trung Quốc có biết đến quần đảo Hoàng Sa nhưng không minh chứng một sự chiếm hữu nào.

    - Vào thế kỷ XIII, Hoàng đế nhà Nguyên ra lệnh cho nhà thiên văn học Quách Từ Kính thực hiện các quan trắc thiên văn, trong đó có một số quan trắc từ Hoàng Sa. Tuy nhiên, các quan trắc này được thực hiện một phần trong lãnh thổ Trung Quốc, một phần ngoài lãnh thổ, mang tính chất nghiên cứu khoa học, không đủ để tạo nên danh nghĩa chủ quyền.

    - Vào khoảng các năm 1710-1712, phó tướng thủy quân Quảng Đông là Ngô Thăng đã thực hiện một cuộc tuần biển đến Hoàng Sa. Tuy nhiên, theo Monique Chemillier-Gendreau, xem xét trên bản đồ thì lộ trình đi tuần chỉ là một con đường vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là quần đảo Hoàng Sa.

    - Năm 1883, khi tàu của Đức thực hiện nghiên cứu khoa học tại quần đảo Trường Sa, chính quyền Quảng Đông đã phản đối. Nhưng khi danh nghĩa của một nhà nước chưa được xác lập vững chắc và lâu dài, việc phản đối này chỉ mang tính chất ngoại giao và không có giá trị pháp lý.

    Các bằng chứng lịch sử của Trung Quốc về quyền phát hiện và chiếm cứ hiệu quả hai quần đảo rõ ràng là rất ít ỏi, không vững chắc và không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện của luật quốc tế. “Chúng không chứng minh được một sự chiếm cứ thông thường, một sự quản lý hành chính hữu hiệu sự kiểm soát chủ quyền”.

    Cân nhắc các luận cứ lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc về quyền phát hiện đầu tiên và chiếm cứ hiệu quả, giáo sư người Pháp Yves Lacoste cho rằng: “dù sao đi nữa, luận cứ của Việt Nam cũng mạnh mẽ hơn luận cứ của Trung Quốc.”

    2. Các luận cứ của Trung Quốc trong thời kỳ từ đầu thế kỷ XX đến 1945

    Đầu thế kỷ XX, Trung Quốc mới thực sự quan tâm và có những nỗ lực đầu tiên để chiếm cứ quần đảo Hoàng Sa. Vào năm 1909, đô đốc Trung Quốc là Lý Chuẩn thực hiện một cuộc đổ bộ nhỏ (trong 24 giờ) lên quần đảo này. Họ kéo cờ và bắn súng để biểu thị chủ quyền của Trung Quốc. (Sự kiện này cho thấy sự mâu thuẫn trong lập luận của Trung Quốc. Nếu quần đảo Hoàng Sa đã được Trung Quốc chiếm cứ thực sự từ lâu đời, thì tại sao phái đoàn của Lý Chuẩn lại không biết điều này và hành xử như thể lần đầu tiên phát hiện ra quần đảo?). Nước Pháp đại diện cho An Nam không có phản ứng gì trước cuộc đổ bộ này vì họ cho rằng đó chỉ là một nghi thức hải quân nhân dịp chuyến thám sát.

    Năm 1921, chính quyền dân sự Quảng Đông sát nhập hành chính các đảo Hoàng Sa vào Nhai huyện. Sự kiện này không gây ra phản ứng gì của các nước vì khi đó chính quyền Quảng Đông không được cả chính phủ trung ương Trung Quốc lẫn các cường quốc công nhận.

    Năm 1937, trước sự phản đối của Pháp, Nhật chiếm các đảo “nằm ngoài khơi Đông Dương”, đổi tên thành Shinnan Gunto (Tân Nam Quần Đảo) và đặt chúng dưới quyền tài phán của Cao Hùng (Đài Loan).

    Trong suốt thời gian Thế chiến II, các quần đảo bị Nhật chiếm đóng.

    Như vậy, cho đến khi Thế chiến II kết thúc vào năm 1945, ngoài nỗ lực ban đầu trong việc biểu thị chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn không thể hiện được một sự chiếm cứ thực sự, liên tục hay sự quản lý hành chính hiệu quả trên các đảo. Đối với quần đảo Trường Sa, Trung Quốc hoàn toàn không hề có một ảnh hưởng nào.

    3. Thời kỳ sau 1945

    Sau khi đầu hàng vào năm 1945, Nhật Bản rút khỏi Đông Dương và các quần đảo. Sau khi Pháp khôi phục lại sự có mặt của mình tại Hoàng Sa vào tháng 6 năm 1946, quân đội Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ lên đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) vào tháng 1 năm 1947. Pháp lập tức phản đối việc chiếm hữu trái phép này của Trung Quốc và cử một phân đội ra quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh và xây trạm khí tượng. Các trạm khí tượng này hoạt động trong suốt 26 năm cho đến khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chiếm đóng quân sự vào năm 1974.

    Cuối năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc cử quân đội đến chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa), sau khi Pháp đặt bia chủ quyền.

    Tháng 10 năm 1949, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Tháng 5 năm 1950, Quân đội Quốc dân Đảng phải rời khỏi các đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (quần đảo Trường Sa). Các trại đồn trú của Pháp vẫn được tiếp tục duy trì ở Hoàng Sa.

    Tháng 4 năm 1956, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa quân đến thay thế các đơn vị của Pháp tại Hoàng Sa. Nhưng khi đó chính quyền Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã kín đáo cho quân đổ bộ chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (cụm An Vĩnh).

    Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Trung Quốc ra tuyên bố về hải phận 12 hải lý, áp dụng cho cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    Ngày 19 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.

    Đối với quần đảo Trường Sa, theo Jan Rowiński, cho đến thời điểm này (tháng 1 năm 1974) „Trung Quốc không có khả năng gây ảnh hưởng đối với khu vực quần đảo Trường Sa, chứ chưa nói gì đến chuyện kiểm soát nó.”

    Tháng 2 năm 1988, Trung Quốc gửi quân đội đến một số đảo trên quần đảo Trường Sa.

    Tháng 3 năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm 6 đảo của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa. Trung Quốc là quốc gia duy nhất yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa nhưng trên thực tế không kiểm soát bất cứ đảo nào cho mãi đến tận năm 1988.

    Tháng 4 năm 1988, Trung Quốc thành lập tỉnh thứ 33 bao gồm đảo Hải Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    Tháng 5 năm 1989, Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ trên quần đảo Trường Sa.

    Tháng 2 năm 1995, Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn, một đảo đá nhỏ của Phillippines trên quần đảo Trường Sa.

    Có thể thấy phương pháp chủ yếu của Trung Quốc là dùng vũ lực để chiếm hữu các đảo. Tuy nhiên, theo luật quốc tế, từ đầu thế kỷ XX việc dùng vũ lực để chinh phục một lãnh thổ đã bị lên án và không được chấp nhận. Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 24 tháng 10 năm 1970 cũng đã ghi rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác do đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lưc. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp.” Do đó, các hành động dùng vũ lực trái ngược với luật quốc tế của Trung Quốc không thể mang lại danh nghĩa pháp lý cho nước này đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    4. Các tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giá trị pháp lý:

    Trung Quốc luôn lập luận rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên các tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) trong thời gian chiến tranh 1954-1975. Các tuyên bố đó là:

    - Ngày 15 tháng 6 năm 1956 thứ trưởng Ngoại giao VNDCCH Ung Văn Khiêm đã nói với thường vụ viên của đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội rằng các quần đảo này về mặt lịch sử là một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra được biên bản cuộc họp mà họ cho rằng trong đó Ung Văn Khiêm đã nói điều trên.

    - Công hàm của Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng ngày 14 tháng 9 năm 1958 tán thành tuyên bố về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc mà không có bảo lưu gì đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    - Ngày 9 tháng 5 năm1965, khi Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam và ấn định những vùng chiến thuật, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

    Tuy nhiên, các tuyên bố của VNDCCH có khiến cho nước Việt Nam thống nhất sau 1975 mất chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không đòi hỏi những nghiên cứu sâu hơn về luật quốc tế. Trong bài viết ngắn này, chúng tôi sẽ trình bày tóm tắt quan điểm của mình.

    Trong thời gian chiến tranh 1954-1975 có hai quốc gia Việt Nam đồng thời tồn tại là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa (VNCH) ở miền Nam. Đây cũng là quan điểm của nhiều luật gia quốc tế như James Crawford, Robert Jennings, Nguyễn Quốc Định, Jules Basdevant, Paul Reuter, Louis Henkin, Grigory Tunkin.

    Sau Hiệp ước Geneve năm 1954, dựa theo nhận thức và thực tế quản lý của hai quốc gia, quốc gia kế thừa chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là VNCH. Trên thực tế, như đã nêu ở phần trên, VNCH đã liên tục kiểm soát, quản lý hành chính và khẳng định chủ quyền của mình trên hai quần đảo cho đến tận khi bị Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974. Việc quản lý quần đảo Trường Sa vẫn tiếp tục được duy trì đến thời điểm 30 tháng 4 năm 1975.

    Công hàm của thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng ngày 14 tháng 9 năm 1958 cũng như các tuyên bố khác của VNDCCH không ảnh hưởng đến danh nghĩa chủ quyền mà VNCH duy trì. Các hành vi của VNDCCH cùng lắm chỉ có thể gây ra các ràng buộc và hiệu quả pháp lý cho chính mình mà thôi. Vậy các ràng buộc và hiệu quả pháp lý đó có thể là gì?

    Các tuyên bố của VNDCCH là hành vi đơn phương. Theo luật quốc tế, một hành vi đơn phương hay một lời hứa cần có những điều kiện trước khi có thể gây ra nghĩa vụ ràng buộc. Các điều kiện chính là: a) cần xét đến bối cảnh của hành vi tuyên bố đó; b) bên có tuyên bố cần thể hiện rõ ràng ý chí muốn bị ràng buộc bởi tuyên bố của mình; c) bên kiện quốc gia tuyên bố phải có hành động dựa vào tuyên bố đó và phải chứng minh mình đã bị thiệt hại do tuyên bố đó, hoặc quốc gia tuyên bố đã hưởng lợi từ tuyên bố này. Ngoài ra, nhiều bản án của Tòa án Công lý Quốc tế còn đòi hỏi các tuyên bố này phải mang tính chất liên tục và trường kỳ.

    Có thể dễ dàng thấy rằng các tuyên bố của VNDCCH thiếu hầu hết các điều kiện để có thể gây ra nghĩa vụ ràng buộc. Trung Quốc không có hành động nào dựa vào tuyên bố của VNDCCH và VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì từ các tuyên bố đó.

    Như vậy, sau năm 1975, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, người kế thừa hai nhà nước VNCH và VNDCCH, đã kế thừa chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ VNCH cùng các tuyên bố đơn phương không mang tính chất ràng buộc và hiệu quả pháp lý từ VNDCCH, và hoàn toàn có đầy đủ cơ sở để khẳng định chủ quyền hợp pháp của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa./.

    C.P
  2. caominhhuy

    caominhhuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/07/2010
    Đã được thích:
    5

    Việt Nam họp về Biển Đông ở Manila


    Ảnh chụp cuộc họp ở Manila (nguồn: Bộ Ngoại giao Philippines)

    Ông Hồ Xuân Sơn và bà Erlinda F. Basilio trao đổi biên bản cuộc họp

    Việt Nam và Philippines đã thảo luận về "hành động hợp tác" trên Biển Đông tại một cuộc họp cấp thứ trưởng ngoại giao ở Manila.

    Cuộc họp lần thứ nhất của Ủy ban Hỗn hợp cấp Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam - Philippines về các vấn đề biển và đại dương, diễn ra hôm 20/02.

    Bộ ngoại giao của cả hai nước không tiết lộ nội dung chi tiết.

    Nhưng chính phủ Philippines nói cuộc họp thảo luận các vấn đề ở biển Tây Philippine (tên chính thức mà Manila đặt cho Biển Đông), trong đó có đề xuất của Manila về "Khu vực hòa bình, tự do, hữu nghị và hợp tác", và thành lập bộ Quy tắc ứng xử cho các nước đòi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa.

    Trường Sa là nơi có tranh chấp toàn bộ hoặc một phần giữa Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia và Brunei.

    Tháng 10 năm ngoái, khi Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang thăm Philippines, hai nước đồng ý nâng cấp Nhóm Công tác chung về Biển và Đại dương thành Ủy ban Hỗn hợp cấp Thứ trưởng Ngoại giao.

    Thông cáo chung khi đó cho hay hai bên muốn "giải quyết hòa bình tranh chấp giữa các bên liên quan trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS)".

    Hai nước cũng cam kết "bảo đảm thực thi đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) và tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử (COC)".

    Đoàn Việt Nam 16 người do Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn dẫn đầu đã gặp đoàn 10 người dẫn đầu bởi thứ trưởng Erlinda F. Basilio của Philippines.

    Ông Hồ Xuân Sơn cũng đến chào xã giao Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario và trao khoản viện trợ 100,000 đôla Mỹ cho người dân ở đảo Mindanao hứng chịu bão Sendong.
  3. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Chỉ mong rằng bài mà các bác đăng mang tính thời sự, đừng post những bài đã quá cũ :)>-
  4. yht267

    yht267 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    25/08/2010
    Đã được thích:
    182


    Chiến lược biển Đông mới của Trung Quốc


    [​IMG]Trung Quốc bị thúc ép tiến xa hơn về phía biển Đông vì lý do địa lý, lịch sử, tài nguyên và một ham muốn rõ ràng là được kiểm soát các tuyến SLOCs quan trọng đối với chính họ - các hải trình tại eo biển hẹp Malacca hay Lombok, Makassar và Sunda đều đang ngày càng dễ bị tổn thương.
    >> Phần 1: Hợp tác trên cơ sở sức mạnh tại biển Đông
    Trên thực tế, nếu eo biển Malacca bị đóng dù chỉ một ngày, sự gián đoạn nguồn cung năng lượng sẽ có thể gây rối loạn xã hội tại Trung Quốc, theo một quan chức có tiếng nói trong Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA). Tính dễ bị tổn thương của eo biển này khiến Trung Quốc quan tâm tới các hải trình thay thế để vận chuyển năng lượng và các hàng hóa khác. Sự nổi lên nhanh chóng của Trung Quốc, đến mức một lực lượng hải quân phòng thủ biển xa sắp ra đời, đang đặt ra nguy cơ bất chắc về trật tự tương lai ở Đông Á. Chiến lược của Mỹ có từ chiến tranh thế giới thứ nhất, và đặc biệt là trong chiến tranh Lạnh, tập trung vào đề phòng bất cứ cường quốc đơn lẻ nào đứng lên chế ngự đại lục Á - Âu. Tuy nhiên, khi sức mạnh kinh tế và quân sự chuyển từ phía Tây sang cực Đông của Á - Âu - bằng chứng là cuộc khủng hoảng đồng euro và sự thu hẹp ngân sách quốc phòng của các nước châu Âu - một Trung Quốc mạnh hơn sẽ chắc chắn tìm cách thể hiện chủ nghĩa dân tộc, quyền lịch sử và nhu cầu kinh tế và tài nguyên thông qua gia tăng sức mạnh hải quân.Ngược lại, sức mạnh hải quân của Trung Quốc có thể dễ dàng tập trung vào biển Đông, nơi hợp dòng của hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Trung Quốc cũng muốn xây dựng một lực lượng hải quân biển xa nhằm giúp đảm bảo các tuyến SLOCs của mình ở mọi hướng xung quanh vùng ven biển Á - Âu tới vùng sừng châu Phi. Khó mà tin rằng ham muốn giành quyền kiểm soát các tuyến SLOCs trên biển của Trung Quốc không liên quan gì đến mối đe dọa đối với quyền tự do hàng hải.
    Trung Quốc có những động lực mạnh, bao gồm các lý do lịch sử hợp pháp, để bảo vệ các tỉnh duyên hải giàu có ven biển Đông, nơi chiếm một nửa diện tích duyên hải của nước này. Sự giàu có thịnh vượng của các tỉnh này phụ thuộc vào sự an toàn của các hải trình trên biển Đông mà Trung Quốc chắc chắn có quyền bảo vệ. Hơn nữa, đại đa số năng lượng và hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc đi qua biển Đông, và biển cũng chứa trong lòng nó những kho cá dồi dào, các mỏ khí hydrocarbons và khoáng sản. Chính sự giàu có tiềm ẩn này đã trở thành động lực cho các yêu sách của Trung Quốc.
    Trung Quốc dẫn đầu khu vực về hiện đại hóa vũ khí, dù họ tìm cách giữ vẻ ngoài bình lặng. Tàu ngầm của Trung Quốc chạy bằng điện diesel, trong khi tàu ngầm Mỹ chạy bằng năng lượng hạt nhân. Các tàu chạy bằng điện diesel thường không gây ồn và thích ứng tốt hơn với các vùng biển đông đúc và âm u như vùng duyên hải Đông Á. Trung Quốc có hơn 60 tàu ngầm và sẽ có khoảng 75 chiếc trong vài năm tới, nhiều hơn của Mỹ một chút (và chỉ 55% tàu ngầm của Mỹ được đóng tại Thái Bình Dương). Theo hai chuyên gia về hải quân, Trung Quốc đã "vượt Mỹ về số tàu ngầm mới, ở mức 4-1 từ năm 2000 và 8-1 từ năm 2005, trong khi các lực lượng chiến tranh chống tàu ngầm của hải quân Mỹ đã suy giảm.
    Các chuyên gia bình luận và giới chức Trung Quốc phủ nhận mọi ác ý liên quan đến Mỹ tại biển Đông và hát lại điệp khúc thường nghe thấy rằng suy nghĩ được ăn cả ngã về không đó đã lỗi thời. Nhưng dù chiến tranh Lạnh đã đi vào dĩ vãng, nền chính trị sức mạnh lại không phải như vậy. Sự phủ nhận trên che giấu các lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Dù Trung Quốc trong lịch sử từng là một cường quốc lục địa hướng vào trong lục địa Á - Âu, nhưng nước này đang ngày càng trở thành một cường quốc hải quân, một xu hướng được tạo điều kiện bởi thành công của Trung Quốc trong việc hóa giải căng thẳng tại nhiều đường biên giới trên bộ của mình.
    Trong ba thập kỷ trước, lực lượng Hải quân của PLA đã lớn mạnh từ một lực lượng phụ trợ, chuyên hỗ trợ các chiến dịch lưỡng cư chống Đài Loan, tới một lực lượng phòng thủ bờ biển và thành một lực lượng hải quân biển xa nhằm đuổi các lực lượng hải quân nước ngoài ra khỏi các "vùng biển gần" của mình.
    Các nguồn tài nguyên và hàng hóa của Trung Quốc được vận chuyển chủ yếu qua các đại dương, và ít nhất về điểm này, địa lý dường như là số phận. Vì hầu hết các nước trong khu vực phụ thuộc vào Trung Quốc để phát triển kinh tế và thương mại, nên hầu hết đều muốn thận trọng hơn trong cách đối xử với Bắc Kinh, và sẽ cố gắng tin vào các ý định tốt lành của Trung Quốc.
    Sức mạnh của Trung Quốc không thuần túy là một vấn đề nhiều tàu ngầm hơn hay các phương tiện quân sự mới, mà còn dựa vào sức nặng dân số, sự chế ngự về kinh tế và vị trí trung tâm về địa lý của nước trong khu vực. Trung Quốc sẽ hăm hở thúc đẩy các quan hệ của mình tại biển Đông để tạo dựng tầm vóc một cường quốc bá chủ và khai thác sự nhượng bộ hoặc các điều kiện thuận lợi.
    Mặt khác, các quốc gia càng hướng tới Trung Quốc thì họ sẽ càng muốn chống lại sức mạnh của nước này. Dù Trung Quốc cố gắng dùng sức mạnh cứng một cách mềm dẻo (ví dụ bằng cách dùng lực lượng thực thi luật pháp dân sự thay vì sức mạnh hải quân để hỗ trợ cho các yêu sách biển ở biển Đông), nhưng các nước láng giềng đôi khi chùn bước trước ngay cả sức mạnh mềm của Trung Quốc dưới dạng thương mại, hỗ trợ và hợp tác.
    Những năm gần đây cho thấy hầu hết các nước trong khu vực đều muốn duy trì sự hiện diện của các tàu chiến và máy bay chiến đấu của Mỹ như một mạng lưới đảm bảo an toàn. Nhưng đồng thời họ không muốn chứng kiến Mỹ căng thẳng với Trung Quốc, vì vậy ngay sau khi Mỹ mới chỉ "giương cơ" một chút, khu vực đã dấy lên những bàn tán quanh câu hỏi phải chăng Mỹ đang xúi giục một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Giới chức Trung Quốc đang tìm cách khai thác tâm trạng giằng xé này bằng những biện pháp trấn an ngoại giao thường xuyên hơn, bên cạnh các nỗ lực khẳng định đòi hỏi của mình. Trung Quốc sẽ muốn tránh mọi hành động ngăn chặn sự nổi lên của nước này.
    [​IMG]
    Ngoài yếu tố địa lý, có một nguyên nhân khác sâu xa hơn đẩy Trung Quốc hướng ra biển Đông và tới các bờ biển của Nhật Bản, Đài Loan, Philippines và Indonesia. Nếu không hiểu những gì đã xảy ra tại Trung Quốc trong 150 năm trở lại đây, người ta sẽ không thể hiểu điều gì thúc đẩy Trung Quốc ngày ngay phải hướng ra biển Đông.
    Vào thế kỷ 19, khi nhà Thanh suy yếu ở Đông Á, Trung Quốc đã mất rất nhiều đất đai - mất các chư hầu phía Nam cho Nepal và Myanmar cho Anh; mất Đông Dương cho Pháp; mất Đài Loan và các chư hầu Hàn Quốc, và Sakhalin cho Nhật Bản; mất Mông Cổ, Amuria và Ussuria cho Nga. Vào thế kỷ 20, xảy ra vụ đánh chiếm đẫm máu của Nhật Bản giành bán đảo Sơn Đông và Mãn Châu ở ngày trái tim của Trung Quốc. Tất cả những điều này lại cộng thêm cảm giác nhục nhã của người Trung Quốc khi phải ký các thỏa thuận đặc quyền ngoại giao thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, mà qua đó các nước phương Tây giành quyền kiểm soát nhiều thành phố của Trung Quốc - gọi là hiệp ước Hải cảng Mở (Treaty Ports). Trung Quốc, sống sót qua cơn ác mộng đó và đã đạt đến vị trí cao nhất của một cường quốc đại lục và ổn định lãnh thổ chưa từng thấy kể từ triều đại nhà Minh thế kỷ thứ 16 và triệu đại Thanh thế kỷ 18, giờ muốn hướng ra biển để bảo vệ các tuyến SLOCs của mình tới Trung Đông và từ đó bảo vệ sự thịnh vượng kinh tế cho lương dân cư đông đảo nhất thế giới của mình. Việc Trung Quốc kêu gọi một không gian chiến lược mở chính là cách để tuyên bố rằng họ sẽ không bao giờ có ý định để cho nước ngoài "đè đầu cưỡi cổ" mình như trong hai thế kỷ trước.
    Một khi Trung Quốc có đủ ảnh hưởng, biển Đông đối với nước này sẽ giống như Đại Caribbea (bao gồm Vịnh Mexico) đối với Mỹ trước đây - một sự thể hiện về vật chất và mang tính biểu tượng của vai trò bá chủ khu vực. Hãy nhớ rằng, chính việc bá chủ lòng chảo Đại Caribbea đã tạo cho Mỹ vai trò chế ngự đối với Tây Bán cầu trong thế kỷ 20, giúp Mỹ rảnh tay để tác động tới cán cân quyền lực ở Đông Bán cầu. Một sức mạnh tương tự có thể xảy ra khi Trung Quốc trở thành người bá chủ biển Đông.
    Yêu sách của Trung Quốc đối với biển Đông, bên cạnh nguyên nhân về địa lý cũng có nguyên nhân lịch sử. Các chuyên gia phân tích của Trung Quốc cho rằng tổ tiên của họ đã phát hiện ra các quần đảo trên biển Đông từ triều nhà Hán thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Họ cũng cho rằng vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, một phái bộ của Trung Quốc tới Campuchia đã đề cập tới các nhóm đảo tại Trường Sa và Hoàng Sa; rằng từ thế kỷ thứ 10 đến 14 (dưới triều đại nhà Tống và nhà Nguyễn), nhiều sổ sách chính thức và không chính thức của Trung Quốc đã cho thấy biển Đông nằm trong biên giới lãnh thổ quốc gia Trung Quốc; rằng từ thế kỷ 15 - 19 (dưới triều nhà Minh và Thanh), nhiều bản đồ đã đưa quần đảo Trường Sa vào lãnh thổ Trung Quốc; và rằng đầu thế kỷ 20 (cuối triều nhà Thanh), Chính phủ Trung Quốc đã tìm cách thể hiện quyền tài phán đối với quần đảo Hoàng Sa. Các lập luận trên không nói gì về các quyền trên thực tế rằng các ngư dân Trung Quốc đánh bắt tại biển Đông từ nhiều thế kỷ và các sổ sách mà họ giữ lại về các hòn đảo lớn nhỏ cũng như các vỉa đá, bãi cát ngàm ở đây. Bên cạnh đó, nhiều bản đồ chính thức khác nhau được làm dưới thời Chính phủ Quốc dân Đảng trước và sau chiến tranh thế giới II đã sáp nhập các hình thái đất tại biển Đông vào lãnh thổ Trung Quốc. Các bản đồ này cũng vẽ đường 9 đoạn lịch sử, mà các chuyên gia phân tích của Trung Quốc đưa ra như một cách hiểu luật pháp quốc tế đương đại. Đường 9 đoạn này bao gồm 90% diện tích biển Đông.
    Vậy đâu là lợi ích lớn của Trung Quốc tại biển Đông và Đông Á về địa chính trị và thực tế? Rốt cuộc, cũng như bất kỳ quốc gia nào khác, Trung Quốc quan tâm đến thương mại quốc tế. Sự ổn định xã hội tùy thuộc vào một dòng chảy đều đặn về tài nguyên và hàng hóa ra và vào Trung Quốc thông qua biển Đông. Vì vậy, sự ổn định của Trung Quốc tùy thuộc vào một nền kinh tế thịnh vượng, mà sự thịnh vượng này lại phụ thuộc vào thương mại. Trung Quốc không có động cơ đế quốc lấn chiếm lãnh thổ như trong các quan hệ quốc tế thế kỷ 19 và đầu 20. (Trung Quốc chắc chắn không phải là đế quốc Nhật sau thời Minh Trị Phục hưng).
    Tuy nhiên, vị trí trung tâm về địa lý của Trung Quốc trong khu vực khiến họ muốn đóng một vai trò tích cực hơn trong việc định hướng các vấn đề khu vực. Cách tiếp cận đôi khi mạnh tay của Trung Quốc trong việc quản lý nước ở châu thổ sông Mekong có thể báo trước cách đối xử của Bắc Kinh với các nước khác ở ven bờ biển Đông.
    Trật tự của Trung Quốc hiện được duy trì bởi tính hợp pháp, thể hiện là tăng trưởng kinh tế. Nếu kinh tế Trung Quốc duy trì được tăng trưởng mạnh - và đây là một chữ nếu to đùng - thì Trung Quốc sẽ rất mong muốn các nước khác phải từ bỏ một số quyền tự do hành động của mình để đổi lại sự lãnh đạo rộng lượng của Trung Quốc, được hợp pháp hóa bởi cách quản lý kỹ trị của họ.
    Một quan chức quân sự Trung Quốc từng nói rằng nước này chỉ sử dụng tấn công quân sự khi còn yếu, trong những năm đầu lập nước, trong cuộc chiến tranh Triều Tiên và chống lại Ấn Độ. Tuy nhiên, phiên bản lịch sử này chưa nói tới một Trung Quốc mạnh hơn sử dụng vũ lực khi Việt Nam đang phải vật lộn trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh Việt Nam. Đó chính xác là thời điểm Trung Quốc đã chiếm đóng Hoàng Sa, ở phần phía Tây Bắc biển Đông mà hiện giờ vẫn đang tranh chấp.
    Trung Quốc rốt cuộc sẽ dân chủ hơn, nhưng một Trung Quốc dân chủ không hẳn sẽ đảm bảo là một Trung Quốc bớt xác quyết hơn. Một Trung Quốc dân chủ có thể năng động hơn về kinh tế và văn hóa, với một chủ nghĩa dân tộc bén rễ hơn, và từ đó có nhiều tiền hơn dành để mua sắm trang thiết bị quân sự. Ngược lại, đó là một Trung Quốc tiếp tục độc đoán, hay dù chỉ là bán độc đoán, với một mức độ xác quyết có thể buộc các nước trong khu vực phải hợp tác với nó. Việc tương lai của chính quyền Trung Quốc sẽ đi theo hướng dân chủ hay độc đoán sẽ không đặt ra những vấn đề như chúng ta nghĩ, bởi địa chiến lược của Trung Quốc sẽ vẫn như vậy.
    Ít người cho rằng Trung Quốc đang tìm cách gây xung đột. Nhưng trên thực tế, điều ngược lại đang xảy ra. Trung Quốc có thể thích một cách tiếp cận gián tiếp hơn và mong muốn tạo ảnh hưởng mà không phải dùng đến vũ lực bạo tàn. Nếu Trung Quốc có thể thay đổi cán cân quyền lực theo hướng có lợi cho mình, họ có thể ngày càng chế ngự các nước láng giềng nhỏ hơn trong khi tăng cường khiêu khích hải quân Mỹ và đi xa hơn chuỗi đảo đầu tiên ở Tây Thái Bình Dương.
    Các chuyên gia trong khu vực mô tả điều đó là chính sách Phần Lan hóa. Khái niệm này được xác định bởi sự đa nghĩa của nó: sự chế ngự của Liên Xô đối với chính sách đối ngoại của Phần Lan trong Chiến tranh Lạnh nói chung là không công khai. Nhưng Phần Lan biết là có những giới hạn mà họ không thể vượt qua, và vì vậy chủ quyền của họ rõ ràng đã bị tổn thương. Đây chính là điều mà Việt Nam, Malaysia, Singapore, Brunei và Philippines đang lo ngại. Đài Loan, ở cực Bắc của biển Đông, có thể đang rơi vào tình trạng Phần Lan hóa rồi, khi 1.500 tên lửa đạn đạo tầm ngắn từ Đại lục đang chĩa thẳng về phía họ, dù hàng trăm chuyến bay thương mại vẫn hàng ngày qua lại với Trung Quốc.
    Trung Quốc có thể tìm cách chế ngự các nước láng giềng thông qua sự kết hợp giữa hợp tác và ép buộc. Chính sách của Trung Quốc là có thể đoán trước và rất nhất quán, nó là sự đan xen giữa trấn an và mở rộng ảnh hưởng; một số nước Đông Nam Á đã chế giễu về chính sách của Trung Quốc là "miệng nói tay làm".
    Khái niệm Phần Lan hóa có thể giải thích tại sao Trung Quốc sẽ ép buộc các nước láng giềng. Rốt cuộc, nếu Trung Quốc có thể giảm mong muốn và khả năng các nước láng giềng phối hợp với Mỹ như một đối trọng với sức mạnh của Trung Quốc, thì họ có thể thể hiện quyền lực khu vực, bao gồm cả việc buộc một Đài Loan bị cô lập trở thành một liên minh chặt chẽ hơn.
    Ngay cả các đồng minh lâu năm của Mỹ cũng không thể làm ngơ trước ảnh hưởng của sức mạnh kinh tế và quân sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Trung Quốc đã phủ một cái bóng dài lên Thái Lan, một đồng minh hợp đồng của Mỹ, trong khi Philippines với bộ máy chính quyền yếu kém có thể một ngày sẽ ngừng kháng cự tầm ảnh hưởng của Trung Quốc dù họ có những yêu sách chồng lấn với nước này tại quần đảo Trường Sa.Nếu nền kinh tế Trung Quốc giữ được đà tăng trưởng, các diễn biến này có thể xảy ra.
    Trung Quốc dứt khoát từ chối quốc tế hóa các tranh chấp tại biển Đông thông qua các đàm phán đa phương. Bằng cách giải quyết song phương, Trung Quốc có thể chia rẽ và thuyết phục; các cơ chế đa phương có thể đặt Trung Quốc trong một vị thế yếu hơn. Khi Trung Quốc thấy các nước trong khu vực bắt đầu đoàn kết lại trong một chính sách chung nhằm duy trì nguyên trạng hồi mùa hè năm 2011 (với sự tạo điều kiện của Mỹ), Bắc Kinh đã đổi giọng và chấp nhận một bộ nguyên tắc mập mờ để hướng dẫn thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC). Trung Quốc xử trí bằng cách cải thiện quan hệ song phương với hai nước lớn tiếng nhất trong số các nước cũng đòi chủ quyền tại biển Đông, là Việt Nam và Philippines. Rõ ràng mối đe dọa quốc tế hóa các tranh chấp trên biển Đông và rọi đèn vào các hành động của Trung Quốc đã khuyến khích nước này đi theo hành động ngoại giao.
    Còn tiếp
    Châu Giang (dịch theo CNAS)
  5. caominhhuy

    caominhhuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/07/2010
    Đã được thích:
    5
    Lo ngại cho phóng viên nước ngoài ở TQ


    Việc đưa tin của phóng viên nước ngoài bị ******* Trung Quốc theo dõi kỹ

    Câu lạc bộ Phóng viên Nước ngoài tại Trung Quốc đưa ra cảnh báo với toàn bộ thành viên sau khi ba phóng viên thuộc các công ty truyền thông châu Âu bị tấn công vào tuần trước.

    Những phóng viên này đang đưa tin về những cuộc biểu tình liên quan quyền sử dụng đất tại một ngôi làng ở tỉnh Chiết Giang.

    Xe của một phóng viên Pháp bị đâm và một nhóm người đã xông vào hành hung người trợ lý Trung Quốc của ông.

    Trong một vụ khác, một phóng viên quốc tịch Hà Lan bị những người - có vẻ là ******* chìm - tấn công.

    Chính quyền Trung Quốc tuyên bố những phóng viên nước ngoài được tự do đưa tin trong đất nước ngoại trừ khu vực Tây Tạng, nơi chính quyền đã thắt chặt hạn chế.

    Tuy nhiên, phóng viên của BBC tại Bắc Kinh, Martin Patience, nói rằng những vụ tấn công cho thấy ngày càng có sự sẵn sàng dùng bạo lực với các phóng viên nước ngoài.

    Phóng viên thuộc một số tổ chức truyền thông, đã bị bắt giữ trong những tháng trở lại đây khi họ cố gắng đưa tin về bạo động tại các vùng của người Tây Tạng.

    Tuy nhiên, đe dọa lớn nhất đối với các phóng viên là các nhóm côn đồ, thường có vẻ là ******* chìm, theo phóng viên của BBC.

    Chính quyền hầu như luôn khẳng định rằng những kẻ tấn công này chỉ là “những dân làng tức giận
    ”.
  6. caominhhuy

    caominhhuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/07/2010
    Đã được thích:
    5
    Tân đại sứ TQ tại Philippines:
    TQ vẫn muốn giải quyết song phương chuyện Biển Đông

    Khi căng thẳng tăng cao giữa Philippines và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, tân Đại sứ Trung Quốc tại Philippines nói, hai quốc gia có thể bất đồng nhưng vẫn có thể đạt được một giải pháp hoà bình.

    Philippines chào đón vai trò châu Á của Mỹ
    Quân đội Mỹ mở rộng tiếp cận ở Philippin

    “Tôi không sợ những đám mây kia có thể che khuất tầm nhìn, vì nơi tôi đứng là đỉnh núi", Đại sứ Trung Quốc tại Philippines Ma Keqing trích dẫn câu thơ Trung Quốc để mô tả về quan hệ song phương giữa nước này và quốc gia Đông Nam Á nhằm đề cập tới những bất đồng và tranh chấp lãnh thổ vẫn còn là vật cản trong mối quan hệ.

    “Tôi phải nói với tất cả sự thẳng thắn rằng, có những vấn đề khiến chúng ta bất đồng. Tuy nhiên, tôi tin rằng, thông qua trao đổi xây dựng và thực tiễn hợp tác để xây dựng sự tin cậy lẫn nhau, một giải pháp hoà bình là có thể", bà Ma nói.

    Nữ Đại sứ nhấn mạnh rằng, một tầm nhìn chung sẽ tốt hơn và giúp cho quan hệ hai nước trở nên mạnh mẽ hơn. “Từ một đỉnh cao như vậy, với những nỗ lực cụ thể của hai bên, tôi chắc rằng chúng ta sẽ cung cấp một tương lai hứa hẹn và phát triển cho quan hệ Trung Quốc - Philippines".

    Bà Ma cho rằng, thế giới đang trải qua những thay đổi chính trị, bất ổn kinh tế và phát triển các thể chế, đồng thời mọi quốc gia kể cả cường quốc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. “Theo cách đó, chúng ta đang đi chung trên một con thuyền. Chỉ có cách làm việc cùng nhau, chúng ta mới có thể đưa con thuyền ấy tới điểm đỗ. Nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình, Trung Quốc đang theo đuổi con đường phát triển hòa bình một cách kiên định".

    Theo Đại sứ Ma, bất đồng về Biển Đông và những vấn đề khác nên được giải quyết thông qua thảo luận, trao đổi, tin tưởng lẫn nhau và thiện chí. “Tôi cố gắng nói thẳng rằng, chúng ta có bất đồng nhưng đó là chuyện nhỏ so với hợp tác và hữu nghị. Và tôi nói, những đám mây trôi trên đỉnh núi, tôi có thể nhìn thấy rõ tương lai. Tôi có thể thấy trước một tương lai rất hứa hẹn giữa hai nước".

    Bắc Kinh vẫn khẳng định rằng, tranh chấp biển nên được giải quyết theo con đường song phương và kêu gọi hạn chế vấn đề tranh cãi Biển Đông giữa các quốc gia tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc còn bác bỏ giải pháp đa phương của Mỹ với tranh chấp biển. “Vâng, song phương. Tôi nghĩ vậy. Và cũng có thông lệ quốc tế rằng, nếu xảy ra tranh chấp giữa hai quốc gia, thông thường hai bên nên trao đổi đàm phán như những láng giềng", bà Ma cho biết. “Anh sống cạnh tôi, nếu có gì bất đồng, chúng ta nên trao đổi với nhau, thẳng thắn. Tôi nghĩ đó là con đường tốt hơn".

    Trong khi đó, Philippines khẳng định, họ đã chuẩn bị bảo vệ quan điểm của mình về Biển Đông khi đề xuất cả hai nước nên ra trước Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS) để giải quyết tranh chấp. Nhưng Trung Quốc bác bỏ điều này.

    Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario cho rằng, việc Trung Quốc bác bỏ đề xuất của Manila đem tranh chấp hai bên về Biển Đông ra trước ITLOS là dấu hiệu cho thấy, Bắc Kinh có thể không đủ tính pháp lý cho các tuyên bố chủ quyền của mình. Philippines còn thúc giục các nước thành viên ASEAN tìm kiếm phương pháp tiếp cận chung để giải quyết những diễn biến đáng lo ngại trên Biển Đông.

    Thái An (theo Philstar)
  7. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967
    2 người đang vào chủ đề này, trong đó có 2 thành viên: Hoa_Sim, hoatimbanglang



    Chào cả nhà , chào Bằng Lăng ! [};-
    Vừa bước chân vào nhà gặp BL , duyên kỳ ngộ gì đây ?

    :-":-":-":-":-"
  8. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967
    Thật ra cũng chẵng có gì to tát ! Chẳng qua tôi bắt bẻ vặn vẹo để chọc ngoáy BL thôi mà !

    :)):)):))
  9. tridunghtvc

    tridunghtvc Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/12/2011
    Đã được thích:
    427
    Hay ròai !!=D>=D>=D>=D>[r2)][r2)][r2)]
  10. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967
    Chỉnh chú chút cho chuẩn :
    Đây là nhà chung của chúng ta , của mọi người Việt Nam yêu nước , yêu Hoàng Sa - Trường Sa , không phải là nhà riêng của các bác nào hết !

    Thân ái !


    [};-[};-[};-[};-[};-
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này