Bức tranh toàn cảnh FTA sau 9 năm chờ đợi@

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi dongtay79, 28/05/2020.

1390 người đang online, trong đó có 110 thành viên. 02:01 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 5140 lượt đọc và 48 bài trả lời
  1. dongtay79

    dongtay79 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/01/2016
    Đã được thích:
    6.083
    Bộ CT hỗ trợ doanh nghiệp dệt may, da giày khai thác hiệu quả Hiệp định EVFTA
    [​IMG]

    Vinanet - Chiều ngày 4/6/2020, tại trụ sở Bộ Công Thương, Cục Xuất nhập khẩu đã có buổi làm việc cùng Hiệp hội và các doanh nghiệp dệt may, da giày nhằm đánh giá cơ hội, giải pháp để khai thác, tận dụng Hiệp định EVFTA có hiệu quả, thúc đẩy xuất khẩu sang châu Âu. Cùng tham dự buổi làm việc, về phía Bộ Công Thương còn có đại diện Cục Công nghiệp, Vụ Thị trường Châu Âu - Châu Mỹ.
    Tại buổi làm việc, ông Phan Văn Chinh - Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu khẳng định, Hiệp định EVFTA là một FTA thế hệ mới, mang lại nhiều tác động tích cực đến nhiều mặt của nền kinh tế Việt Nam, qua đó đều có tác động đến tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường Liên minh Châu Âu (EU) như: mở cửa thị trường EU cho hàng hóa Việt Nam; gia tăng xuất khẩu; thu hút đầu tư, phát triển sản xuất trong nước; phát triển công nghiệp hỗ trợ; chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tạo thêm việc làm, nâng cao năng suất lao động,…
    Trong lĩnh vực thương mại, EU hiện là một trong các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường EU gồm hàng dệt may, giày dép các loại, các sản phẩm nông - lâm - thủy sản. Các ngành này sẽ được giảm thuế tới gần 90%, trong đó có những dòng thuế được xóa bỏ hoàn toàn. Các ưu đãi về thuế quan và các điều kiện mở cửa thị trường sẽ gia tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam so với các quốc gia khác.
    Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho rằng, mặc dù một số nước khác có lợi thế về ưu đãi EBA, GSP+, nhưng với Hiệp định EVFTA, chúng ta có thế mạnh rất lớn. Các nước có Hiệp định với EU rất ít, ở khu vực Châu Á, EU chỉ ký hiệp định hợp tác với Hàn Quốc, Singapore, tuy nhiên, hai nước này lại không có cơ cấu sản xuất giống như Việt Nam. Do vậy, về lâu dài, Hiệp định sẽ tạo ra lợi thế ổn định cho xuất khẩu của Việt Nam.
    Với EVFTA, hàng dệt may Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn hàng của Trung Quốc và cạnh tranh ngang bằng về giá với các nước hiện đang được hưởng thuế 0% như Campuchia, Bangladesh... nhưng có lợi thế hơn các nước này về tay nghề cao, chất lượng bảo đảm. Bên cạnh đó, sau khi EVFTA có hiệu lực, hàng dệt may đang được hưởng Chương trình Ưu đãi thuế quan phổ cập GSP sẽ tiếp tục được hưởng hết 2 năm sau khi EVFTA có hiệu lực.
    Ngay khi áp dụng EVFTA, 37% các dòng thuế về da giày sẽ hưởng thuế nhập khẩu về 0% và phần còn lại sẽ giảm dần về 0% theo lộ trình từ 3-7 năm tùy từng mặt hàng cụ thể. Các mặt hàng có mức thuế 0% ngay khi EVFTA có hiệu lực tập trung vào mặt hàng giầy thể thao, giày vải và giày cao su. Đây là các mặt hàng là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Sản phẩm giày dép được sử dụng nguyên liệu không xuất xứ từ bên ngoài Hiệp định, ngoại trừ các bộ phận lắp ghép từ mũi giày và đế giày. Tiêu chí xuất xứ này được xem là chặt hơn so với một số các FTA khác nhưng không phải là tiêu chí mới đối với ngành da giày, do trước đó doanh nghiệp da giày đã xuất khẩu sang EU với tiêu chí tương tự trong GSP.
    Theo ông Trần Thanh Hải, EVFTA cũng tạo ra lợi thế cạnh tranh lớn trong ngắn hạn và trung hạn cho Việt Nam so với các nước ASEAN tại thị trường EU. EU cũng là đối tác thương mại lớn với nhiều nước ASEAN. Với vị thế là quốc gia thứ 2 tại ASEAN có FTA với EU, các doanh nghiệp có thể tận dụng lợi thế này để thâm nhập thị trường, xây dựng thương hiệu cho hàng hóa Việt Nam tại thị trường EU. Bên cạnh đó, tiếp cận thị trường EU cũng là bước đệm để hàng hóa của Việt Nam tiếp cận các thị trường phát triển khác.
    Đại diện tiếng nói của các doanh nghiệp, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) hy vọng, Hiệp định EVFTA sẽ đem lại cơ hội bứt phá cho các ngành, trong đó có dệt may. Theo ông Cẩm, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, chúng ta đang ở thời điểm hết sức khó khăn (tháng 5 năm 2020, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may giảm 36% so với tháng 5 năm 2019. 5 tháng đầu năm chỉ xuất khẩu được 12,37 tỷ USD, giảm hơn 15,5% so với cùng kỳ. Tất cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều giảm...), vì vậy, công tác chuẩn bị cần rất chu đáo, tỉ mỉ để đón đầu các lợi ích ngay khi Hiệp định được thông qua và có hiệu lực.
    Ông Trương Văn Cẩm cho biết thêm, đối với chất lượng, tiêu chuẩn, hàng dệt may không lo vì nhiều năm nay dệt may đã chinh phục được thị trường châu Âu, tuy nhiên, khó khăn nhất đối với dệt may là vấn đề xuất xứ.
    Cùng quan điểm với Phó Chủ tịch VITAS, ông Thân Đức Việt - Tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần May 10 cũng cho rằng, nút thắt lớn nhất cùa doanh nghiệp dệt may là vấn đề quy tắc xuất xứ, vấn đề của đầu vào. Vì vậy, đại diện May 10 hy vọng thời gian tới sẽ có Hội thảo kết nối giữa doanh nghiệp "đầu vào" và "đầu ra" để gỡ dần nút thắt này, tìm lối ra cho vấn đề quy tắc xuất xứ của sản phẩm dệt may.
    Đồng tình với việc các doanh nghiệp đang rất mong chờ Hiệp định EVFTA, bà Phan Thị Thanh Xuân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Da giày, Túi xách Việt Nam chia sẻ, các doanh nghiệp da giày cũng đang rất trông đợi những lợi ích Hiệp định EVFTA mang lại, vì hiện nay, các doanh nghiệp da giày đang "đói" các đơn hàng. Khi EVFTA có hiệu lực sẽ giúp các doanh nghiệp vừa giải phóng lượng hàng còn tồn trước đó, vừa mở ra cơ hội với các đơn hàng mới, khôi phục lại thị trường sản xuất.

    Theo đại diện Hiệp hội Da giày, Túi xách, các vướng mắc liên quan nhiều đến vấn đề thực thi. Thời gian trước, các doanh nghiệp cũng được tập huấn nhưng các quy định đến nay có nhiều thay đổi. Phó Chủ tịch Hiệp hội Da giày, Túi xách hy vọng các Bộ, ngành tiếp tục có hướng dẫn cụ thể cho các doanh nhiệp để khi bước vào thực tế, doanh nghiệp có thể tận dụng cơ hội một cách hiệu quả nhất.
    Chia sẻ với những khó khăn của doanh nghiệp tại buổi làm việc, dại diện Vụ Thị trường Châu Âu - Châu Mỹ, bà Nguyễn Thảo Hiền - Phó Vụ trưởng cho biết, Vụ luôn hỗ trợ thông tin về thị trường và kết nối các doanh nghiệp với hệ thống các thương vụ tại các thị trường nước ngoài. Bà Hiền cũng thông báo, tới đây, dự kiến ngày 02/07/2020, Vụ Thị trường Châu Âu - Châu Mỹ sẽ tổ chức hội nghị tuyên truyền cho Hiệp định EVFTA cho các doanh nghiệp, trong đó, sẽ kết nối doanh nghiệp với hệ thống thương vụ tại thị trường EU (kể cả Anh).
    Kết luận buổi làm việc, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Phan Văn Chinh ghi nhận và đánh giá cao các ý kiến của Hiệp hội và doanh nghiệp. Cục Xuất nhập khẩu sẽ tổng hợp các ý kiến, báo cáo Lãnh đạo Bộ và Bộ cũng sẽ tiếp tục có những hướng dẫn, hỗ trợ Hiệp hội và doanh nghiệp để làm sao khai thác, tận dụng Hiệp định EVFTA có hiệu quả nhất, thúc đẩy hàng dệt may, da giày xuất khẩu sang châu Âu thuận lợi nhất.

    Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương
  2. walls

    walls Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/05/2016
    Đã được thích:
    2.671
    MPC. Vua tôm của việt nam
  3. dongtay79

    dongtay79 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/01/2016
    Đã được thích:
    6.083
    Thứ ba, 9/6/2020, 07:30 (GMT+7)
    [​IMG]
    Tháng 7/2004, Hội nghị Thượng đỉnh Á – Âu (ASEM 5) kết thúc tốt đẹp tại Hà Nội, đánh dấu vị thế đang lên của Việt Nam trước thềm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Thành công của “sự kiện chính trị lớn nhất mà Việt Nam đăng cai trong hơn chục năm”, như lời nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Di Niên, có lẽ không chỉ nằm ở con số 39 nguyên thủ quốc gia lần đầu tiên cùng hiện diện tại Hà Nội, hay 6 tuyên bố đa phương được công bố sau hội nghị. Trong 5 ngày làm việc, đã có những cuộc họp kín giữa Việt Nam và phái đoàn châu Âu, dẫn đầu bởi Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) lúc ấy là ông Romano Prodi, cựu Thủ tướng Italia.

    “Châu Âu là một trong những người bạn đầu tiên chia sẻ và tin tưởng ở ý chí, quyết tâm hội nhập của dân tộc Việt Nam”, Bộ trưởng Công Thương - Trần Tuấn Anh, người năm đó đang là một lãnh đạo cấp Vụ, phụ trách mảng kinh tế tổng hợp tại Bộ Ngoại giao nhớ lại. Theo Bộ trưởng, lãnh đạo Việt Nam và châu Âu đã thảo luận và đi đến thống nhất lộ trình để tăng cường hợp tác giữa hai bên, trước hết là việc EU hỗ trợ Việt Nam gia nhập WTO và sau đó là một Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa hai bên. Ông Trần Tuấn Anh chắc hẳn khi ấy cũng không ngờ 15 năm sau, chính ông lại là người đại diện Chính phủ Việt Nam ký vào bản hiệp định lịch sử ngày 30/6/2019. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) ngày hôm nay bước qua ngưỡng cửa cuối cùng là việc thông qua tại Quốc hội Việt Nam để chính thức có hiệu lực.

    Những khó khăn tưởng không thể vượt qua
    Từ ý tưởng ban đầu, mất 6 năm chuẩn bị để khái niệm EVFTA lần đầu tiên được nhắc tới chính thức trong Hội nghị ASEM 8 tại Bỉ tháng 10/2010, khi Việt Nam và EU nhất trí khởi động đàm phán.

    [​IMG]
    14 phiên làm việc hính thức được thực hiện trong khoảng thời gian 3 năm (2012-2015) với hàng chục nội dung được thỏa thuận. Những người tham gia đều khó chọn ra phiên đàm phán nào gay cấn nhất, bởi “phiên nào cũng căng thẳng, nếu không muốn nói là khắc nghiệt”.

    “Đi vào giai đoạn cuối, khi đã chuẩn bị kết thúc được những vấn đề rất khó như lao động, mua sắm Chính phủ, những tưởng chặng đường sẽ êm xuôi nhưng ngược lại, Việt Nam phải đối mặt với việc xử lý mâu thuẫn quyền lợi đan xen giữa nhiều nước lớn đang đàm phán FTA với chúng ta. Đó là thời điểm năm 2015 - cột mốc cực kỳ phức tạp và căng thẳng”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh kể.

    Thời điểm này, Việt Nam đang đồng thời đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, sau này là CPTPP), cũng như đi vào chặng nước rút của các FTA với Nga hay Hàn Quốc. Chỉ riêng TPP và EVFTA, cách tiếp cận nhiều vấn đề, trong đó có chỉ dẫn địa lý của Mỹ và EU, đã rất khác nhau.

    “Các nước lớn luôn nhìn xem chúng ta mở cửa cho đối tác khác ra sao? Việt Nam đứng trước áp lực cực kỳ cao vì phải tính toán cân bằng lợi ích các nước, chỉ cần lộ một chút thông tin về ý định ưu đãi nhiều hơn cho nước nào đó thì chắc chắn gặp phải sự phản ứng gay gắt”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh chia sẻ.

    Sau nhiều nỗ lực, hai bên cơ bản thống nhất kết thúc đàm phán vào năm 2015, tuy nhiên đến năm 2017, việc ký kết vẫn chưa thể diễn ra, thậm chí đứng trước nguy cơ đàm phán lại các nội dung liên quan đến đầu tư. Nguyên nhân đến từ tranh cãi về FTA mà EU đã ký trước đó với Singapore, khi nhiều ý kiến trong khối cho rằng các điều khoản (đặc biệt liên quan đến đầu tư) thuộc thẩm quyền chung giữa liên minh và các nước thành viên, nên Ủy ban châu Âu (EC) không có quyền tự ký kết.

    Tòa án Công lý châu Âu (ECJ) sau đó phán quyết tách FTA mà EU đã ký ra làm 2 phần riêng biệt, gồm thương mại tự do (có thể do EC phê chuẩn) và một thỏa thuận riêng rẽ về bảo vệ đầu tư (phải được thông qua tại tất cả các nước thành viên). Phán quyết này đồng thời cũng được áp dụng với các FTA mà khu vực này đang đàm phán, bao gồm cả hiệp định với Việt Nam.

    Quá trình tách hiệp định thành EVFTA và EVIPA kéo dài đến tận năm 2018 và theo ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), thành viên đoàn đàm phán, nó không chỉ đơn thuần là thao tác kỹ thuật mà có mối ràng buộc rất chặt chẽ với nhau "như một cặp song sinh".

    “Trong hiệp định thương mại có những nội dung liên quan đến đầu tư, ví dụ như đầu tư trực tiếp, còn trong hiệp định đầu tư lại có nội dung liên quan đến hiệp định thương mại như bảo hộ, mở cửa thị trường... Một nhà đầu tư muốn mở nhà máy ở Việt Nam thì điều kiện gia nhập thị trường được dẫn chiếu theo EVFTA, còn những điều khoản khác liên quan đến đầu tư lại điều chỉnh theo IPA”, vị này lấy ví dụ.

    Hiệp định lịch sử sau đó còn bị thử thách một lần nữa ở chặng cuối, giữa bối cảnh toàn cầu hóa ở nhiều nơi có xu hướng chững lại, thậm chí đổi chiều. Đây cũng là thời điểm EU dành ưu tiên cao nhất hoàn thành Brexit, đồng thời là năm cuối trong nhiệm kỳ 2014-2019 của Nghị viện châu Âu.

    2 tuần trước ngày ký kết, EU vẫn tiếp tục bổ sung những quan ngại của 3 nước thành viên. Việc này đã đẩy hiệp định vào tình thế khó hoàn tất trước khi Rumani kết thúc vai trò Chủ tịch luân phiên EU, nghĩa là các thủ tục thông qua phải bắt đầu lại.

    Ngay lập tức, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu Bộ Công Thương sang châu Âu và mang theo bức thư có chữ ký của người đứng đầu Chính phủ. Những động thái này cùng với các chuyến thăm châu Âu liên tiếp trước đó của Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân với nội dung xuyên suốt là thúc đẩy quá trình ký kết đã giúp hai bên đi đến lễ ký lịch sử ngày 30/6/2019 tại Hà Nội.

    “Quãng thời gian đàm phán 9 năm là rất dài nhưng so với các hiệp định tự do tương tự mà EU đàm phán đến 20 năm mới thấy được những nỗ lực mạnh mẽ của chúng ta”, Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh nhận định.

    Hành trình gây dựng niềm tin
    Xuyên suốt quá trình đàm phán, lo ngại lớn nhất từ phía EU là việc Việt Nam không thể thực hiện những cam kết rất cao mà EVFTA và EVIPA đề ra, bởi trong quá khứ, đã có những lần EU ký hiệp định nhưng đối tác sau đó không thể thực hiện.

    Trao đổi với Tuổi trẻ, Đại sứ Bruno Angelet, Trưởng đại diện Phái đoàn EU tại Việt Nam cho biết vào cuối 2015, EU từng yêu cầu nhóm phụ trách Dự án hỗ trợ chính sách thương mại và đầu tư (MUTRAP) làm một báo cáo gửi các nước và Chính phủ Việt Nam về những rào cản thực hiện hiệp định. "MUTRAP đưa bản báo cáo nặng cỡ... 7kg giấy. Nó chứa đủ thứ, từ pháp lý cho tới quy định", vị này nhớ lại.

    [​IMG]
    Việt Nam và EU đã trải qua một hành trình xây dựng niềm tin kéo dài nhiều năm để đi đến lễ ký lịch sử ngày 30/6/2019. Ảnh: TTXVN
    Theo đại diện EU, những lo ngại từ phía các quốc gia thành viên khi đó là có cơ sở, và những nhà đàm phán châu Âu đã phải lấy chính quyết tâm của Việt Nam để thuyết phục. Chẳng hạn như việc Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên chấp thuận cơ chế tài phán cho tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nước tiếp nhận đầu tư thông qua Hệ thống tòa án đầu tư (Investment Court System - ICS). EU là khu vực ủng hộ cơ chế này. Trước đó, các bên thường tốn kém thời gian và tiền bạc cho trọng tài quốc tế để giải quyết cho từng trường hợp.

    "Chúng tôi không nói rằng mọi thứ đều đã ổn đâu. Nhưng chúng tôi cam kết sẽ làm việc với Chính phủ Việt Nam, sẽ cho các anh thấy trước khi ký chứ không phải sau đó", ông Angelet kể về lý lẽ từng được đưa ra để thuyết phục những người từng do dự. Vị này cũng nhấn mạnh việc EU muốn thấy một kế hoạch hành động cụ thể từ phía Việt Nam và đã phần nào được đáp ứng với bản kế hoạch hành động được công bố tại lễ ký ngày 30/6/2019.

    ‘Mỗi tỷ euro hàng hóa xuất sang Việt Nam, EU có thêm 14.000 việc làm’
    Khi nói về tác động của EVFTA, các lợi ích của Việt Nam - nền kinh tế có trình độ phát triển thấp hơn - thường được nhắc đến. Tuy nhiên, theo chia sẻ của ông Geert Bourgeois, thành viên chuyên trách về các thỏa thuận của Nghị viện châu Âu, bản thân EU cũng được hưởng lợi lớn về mặt kinh tế khi EVFTA được đưa vào thực thi.

    Cụ thể, với việc 99% các dòng thuế được gỡ bỏ trong vòng 7 năm, tổng giá trị hàng hóa từ châu Âu xuất sang Việt Nam có thể tăng 8,3 tỷ euro mỗi năm (con số này của Việt Nam đến năm 2035 là 15 tỷ euro). "Tất nhiên với mỗi tỷ euro xuất khẩu, chúng ta sẽ có thêm 14.000 việc làm mới, với thu nhập cao cho người lao động châu Âu", ông Bourgeois tính toán, đồng thời khẳng định EVFTA là một bước đi thích hợp trong chiến lược mở rộng tầm ảnh hưởng toàn cầu của EU.

    [​IMG]
    Ông Geert Bourgeois, thành viên chuyên trách về các thỏa thuận của Nghị viện châu Âu. Ảnh: Europarl
    Sau Singapore và Việt Nam, hiện EU đang đàm phán FTA với một số quốc gia châu Á khác ở những giai đoạn khác nhau:

    [​IMG]
    Như vậy với những kết quả chưa rõ ràng nêu trên và việc không có bất kỳ một cuộc đàm phán chính thức nào với Trung Quốc, ông Bourgeois cho rằng việc thắt chặt quan hệ với Việt Nam - nước láng giềng với Trung Quốc và có quan hệ tốt với Mỹ - có ý nghĩa quan trọng với EU. "Với tư cách là FTA đầu tiên của nhiệm kỳ Nghị viện châu Âu mới, EVFTA sẽ cho thấy chúng tôi muốn tạo dựng những tiêu chuẩn cao hơn trên toàn cầu, thúc đẩy tạo ra việc làm và sự thịnh vượng", vị quan chức này khẳng định.

    [​IMG]
    Với Việt Nam, EVFTA được ví như "cao tốc quy mô lớn", giúp đẩy nhanh tốc độ và quy mô hợp tác thương mại, đầu tư và mang đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp, người dân. Trong 5 năm đầu thực thi, EVFTA được kỳ vọng giúp GDP cả nước tăng 2,18 - 3,25%, tương đương 0,5 điểm phần trăm GDP/năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng thêm gần 43% vào 2025.

    Để tận dụng được cơ hội này, Bộ Công Thương đã công bố kế hoạch thực thi EVFTA trong 2020 và các năm tiếp theo, gồm 25 nhiệm vụ, trong đó việc xây dựng thông tư hướng dẫn quy tắc xuất xứ hàng hóa được trình bộ trưởng ngay trong tháng này.

    Theo các chuyên gia, EVFTA có hiệu lực sẽ là cú hích to lớn cho xuất khẩu của Việt Nam, giúp đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng Việt Nam vốn có nhiều lợi thế cạnh tranh như nông sản, thủy sản... Về mặt chiến lược, việc đàm phán và thực thi EVFTA còn gửi đi thông điệp tích cực rằng Việt Nam quyết tâm hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, trong bối cảnh tình hình kinh tế, địa chính trị toàn cầu đang có nhiều diễn biến phức tạp và khó đoán định.

    [​IMG]
  4. dongtay79

    dongtay79 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/01/2016
    Đã được thích:
    6.083
    Hiệp định EVFTA tác động như nào tới các doanh nghiệp phân phối?
    06:46 | 10/06/2020

    [​IMG]
    Cá ngừ đại dương là mặt hàng chiến lược của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU. (Ảnh: TTXVN)

    Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những chỉ đem lại vốn đầu tư mà cả các công nghệ tiên phong, năng lực quản lý và kiến thức thị trường cho Việt Nam, góp phần nâng tầm cho các ngành kinh tế và tăng trưởng năng suất.

    Trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ vừa qua, hoạt động thương mại trong nước hàng năm tạo ra giá trị khoảng 14-15% GDP, hỗ trợ tích cực cho công tácgiải quyết việc làm khi thu hút khoảng 6-7 triệu lao động (chiếm hơn 12% tổng lao động toàn xã hội), góp phần xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội.

    Dưới tác động của việc thực thi các cam kết hội nhập, hoạt động lưu thông hàng hóa trong nước liên tục gia tăng về quy mô và tốc độ.

    Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2019 đạt 4,49 triệu tỷ đồng, gấp gần 3 lần so với năm 2010. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2019 đạt 12,75%/năm.

    Đặc biệt, doanh nghiệp được tiếp cận với công nghệ tiên phong từ các nền kinh tế thành viên của các hiệp định thông qua hoạt động đầu tư, trao đổi thương mại, các chủ thể trên thị trường trong nước có nhiều cơ hội để đổi mới hoạt động kinh doanh, quản trị doanh nghiệp.

    Đáng lưu ý, các hình thức bán hàng và phương thức kinh doanh thương mại và dịch vụ trên thị trường trong nước đã phát triển đa dạng, phong phú hơn và thương mại điện tử cũng ngày càng trở thành một kênh phân phối quan trọng.

    Tuy nhiên, thị trường trong nước, đặc biệt là thị trường phân phối của Việt Nam sẽ gặp nhiều thách thức và chịu nhiều tác động từ quá trình mở cửa theo cam kết của EVFTA.

    Đó là sự gia tăng áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước, hệ thống chính sách, pháp luật có thể không theo kịp biến động của thị trường, cơ sở hạ tầng và pháp luật quản lý đối với thương mại điện tử có sự chênh lệch với các nước.

    Hơn nữa, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trong lưu thông hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nội địa, khó khăn trong việc cân đối giữa phát triển kinh tế, thương mại, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.

    [​IMG]
    Dây chuyền chế biến trái cây xuất khẩu của Công ty Cổ phần Nafoods miền Nam. (Ảnh: TTXVN)

    Ngoài ra, cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp phân phối trong nước với năng lực hạn chế hơn so với các doanh nghiệp phân phối lớn đến từ các nước thuộc EU vốn đã có tiềm lực rất mạnh, do đó có thể dẫn đến khả năng các doanh nghiệp phân phối trong nước dễ bị thâu tóm, chiếm lĩnh thị phần bởi các doanh nghiệp nước ngoài.

    Không những thế, thời gian để triển khai và thực thi các cam kết tại các FTA thế hệ mới nói chung và EVFTA nói riêng đang là lực cản lớn đối với Việt Nam.

    Bởi, với các FTA thông thường, tổng thời gian thực thi tất cả các cam kết kéo dài 10 năm.

    Với EVFTA, Việt Nam sẽ phải thực hiện các cam kết chỉ trong 5-7 năm, trong đó nhiều điều khoản sẽ phải thực hiện ngay sau khi hiệp định có hiệu lực, nhiều thỏa thuận sẽ phải thực hiện sau 2-3 năm.

    Trong khi đó, trình độ phát triển của Việt Nam vẫn đang mở mức trung bình và thấp, do đó việc thực thi các cam kết EVFTA cũng đồng nghĩa với việc phải mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ đến từ các nước đối tác thuộc EVFTA, lúc đó sẽ không còn khái niệm “sân nhà”.

    Theo báo cáo của Công ty Nghiên cứu thị trường Nielsel, tại khu vực châu Á, trong thời gian gần đây, thị trường bán lẻ Việt Nam là một trong những thị trường có tốc độ tăng trưởng cao.

    Việt Nam đang có nhiều điều kiện thuận lợi như thu nhập bình quân đầu người đang tăng, kinh tế vĩ mô đang đà phát triển và việc ký kết thêm EVFTA... đã, đang và sẽ mang lại những điểm sáng nhất định cho kinh tế nói chung và thị trường bán lẻ nói riêng, là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam gia nhập vào các chuỗi cung ứng trong nước, khu vực và toàn cầu.

    Để hạn chế những tác động tiêu cực và tận dụng các cơ hội mới do EVFTA mang lại, Vụ Thị trường trong nước khuyến cáo các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước cần nghiên cứu kỹ những nội dung, các quy tắc nội khối để có sự chuẩn bị sẵn sàng trong việc tận dụng những cơ hội có được từ EVFTA.

    Các doanh nghiệp cần chuẩn bị và nâng cao khả năng xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước...

    Mặt khác, các doanh nghiệp thúc đẩy liên kết và hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước để tận dụng công nghệ, quản lý và cả thị trường để tăng cường khả năng tham gia vào chuỗi giá trị, liên kết, hợp tác với các nhà sản xuất, tạo mối quan hệ thân thiện, tín nhiệm và tin cậy đối với khách hàng qua việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi cung ứng trong nước/khu vực/toàn cầu để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

    Đặc biệt, các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển, quảng bá thương hiệu qua mạng, trên các kênh internet, điện thoại di dộng, mạng xã hội; hoàn thiện chỉ dẫn địa lý, nguồn gốc xuất xứ các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam để tận dụng cơ hội thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên trong các FTA...
    --- Gộp bài viết, 10/06/2020, Bài cũ: 10/06/2020 ---
    Quốc hội phê chuẩn EVFTA, ngành hàng chủ lực Việt Nam được cắt giảm thuế ra sao?
    21:50 | 08/06/2020

    [​IMG]
  5. dongtay79

    dongtay79 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/01/2016
    Đã được thích:
    6.083
    FTA tạo sóng thần.
  6. dongtay79

    dongtay79 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/01/2016
    Đã được thích:
    6.083
    TCM báo lợi nhuận tháng 5 tăng 175% nhờ đơn hàng khẩu trang và đồ bảo hộ y tế

    HoSE: TCM) thông báo tháng 5 ghi nhận doanh thu 14 triệu USD (323,4 tỷ đồng), tăng 27%; lợi nhuận sau thuế 1,1 triệu USD (25,4 tỷ đồng), tăng 175% so cùng kỳ năm trước. Doanh thu và lợi nhuận đơn vị tăng cao nhờ đơn hàng khẩu trang và đồ bảo hộ y tế xuất sang thị trường Mỹ.

    Lũy kế 5 tháng, doanh nghiệp đạt doanh thu 56,7 triêu USD (1.310 tỷ đồng) và lợi nhuận sau thuế 2,8 triệu USD (64,7 tỷ đồng); lần lượt giảm 10,2% và giảm 32,5% cùng kỳ năm trước. 4 tháng đầu năm kết quả kinh doanh của TCM bị ảnh hưởng nặng bởi dịch bệnh Covid-19. Công ty đã tìm kiếm các đơn hàng khẩu trang vải kháng khẩu và đồ bảo hộ y tế bù đắp cho thiếu hụt đơn hàng truyền thống.

    Năm 2020, doanh nghiệp dự kiến kế hoạch kinh doanh gồm doanh thu 3.779,6 tỷ đồng, tăng gần 3% so thực hiện năm trước; lãi trước thuế 236 tỷ đồng, giảm 14%.
  7. dongtay79

    dongtay79 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/01/2016
    Đã được thích:
    6.083
    Với kết quả kinh doanh Dệt May có vẻ bất ngờ vượt qua dịch bệnh khi đã thích nghi bằng cách xuất khẩu trang, đồ bảo hộ y tế,...kết quả kinh doanh tăng trưởng mạnh dù chưa được giảm thuế 9.6%.

    Điểm cộng lớn,...
  8. dongtay79

    dongtay79 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/01/2016
    Đã được thích:
    6.083
    Gần như chắc chắn Dêt May sẽ tăng trưởng,...khi chính sách FED bơm mạnh bằng cách mua trái phiếu đến tận 2022.


    Fed dự báo GDP Mỹ giảm, Phố Wall trái chiều, Nasdaq lập đỉnh lịch sử phiên thứ 3 liên tiếp

    Dow Jones giảm 282,31 điểm, tương đương 1,04%, xuống 26.989,99 điểm. S&P 500 giảm 17,04 điểm, tương đương 0,53%, xuống 3.190,14 điểm. Nasdaq tăng 66,59 điểm, tương đương 0,67%, lên 10.020,35 điểm.

    Nasdaq tăng nhờ lực đẩy từ cổ phiếu Microsoft và Apple. Đây là phiên thứ 3 liên tiếp chỉ số này lập đỉnh lịch sử và là lần đầu tiên chốt phiên trên 10.000 điểm.

    Fed kết thúc cuộc họp chính sách trong hai ngày 9 – 10/6 với dự báo tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ năm nay là 9,3%, GDP giảm 6,5%, nhất trí giữ lãi suất cận 0 ít nhất đến hết năm 2022. Dow Jones và S&P 500 liên tục tăng giảm sau thông tin này. Trong số 11 lĩnh vực thuộc S&P 500, ngân hàng giảm 5,8%, phiên giảm mạnh nhất kể từ ngày 15/4.

    [​IMG]
    Nasdaq lần đầu chốt phiên trên 10.000 điểm ngày 10/6. Ảnh: AFP.

    “Dự báo từ Fed là GDP và thất nghiệp dần hồi phục nhưng sẽ cần có thời gian”, Tom Martin, nhà quản lý danh mục đầu tư cấp cao tại Globalt, Atlanta, bang Georgia, nói.

    Fed còn cam kết giữ chính sách tiền tệ nới lỏng cho đến khi kinh tế Mỹ “vượt qua các sự kiện và trên đà hướng đến tối đa hóa việc làm, các mục tiêu ổn định giá cả”.

    Tổng khối lượng giao dịch tại Mỹ ngày 10/6 là 14,13 tỷ cổ phiếu, cao hơn mức trung bình 12,69 tỷ cổ phiếu trong 20 phiên trước đó.
  9. dongtay79

    dongtay79 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/01/2016
    Đã được thích:
    6.083
    Fed công bố dự báo về triển vọng phục hồi của kinh tế Mỹ
    Tác giả Theo TTXVN

    Thứ Năm, 11/6/2020 06:54
    Chia sẻ
    Dự báo của Fed được đưa ra sau một báo cáo về tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 5 đã thắp lên triển vọng hồi phục kinh tế sau thời kỳ suy thoái do COVID-19 gây ra, với việc Mỹ có thêm 2,5 triệu việc làm.
    Tại Washington, các quan chức của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) ngày 10/6 dự báo tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ vẫn ở mức 9,3% cho đến cuối năm 2020, và vào thời điểm đó, kinh tế Mỹ sẽ suy giảm hơn 6,5%.

    Theo đó, 17 thành viên của Ủy ban Thị trường mở liên bang (FOMC), cơ quan hoạch định lãi suất của Fed, dự báo tỷ lệ thất nghiệp trung bình ở mức 9,3% trong năm 2020 và sẽ giảm xuống ở mức 6,5% năm 2021 và 5,5% trong năm 2022.

    Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ đạt mức thấp nhất trong gần 50 năm qua ở mức 3,5% hồi tháng 2 trước khi tăng cao tới mức 14,7% vào tháng 4 trong bối cảnh Mỹ phải đóng cửa nền kinh tế để ngăn chặn sự lây lan của đại dịch COVID-19. Tỷ lệ này đã hạ xuống mức 13,3% trong tháng 5.

    FOMC cũng dự báo nền kinh tế Mỹ sẽ sụt giảm 6,5% trong năm 2020, sau đó khôi phục mức tăng trưởng 5% trong năm 2021 và 3,5% trong năm 2021.

    Chủ tịch Fed Jerome Powell cảnh báo “mức độ bất ổn cao bất thường về triển vọng kinh tế Mỹ” đã gây khó khăn cho những dự báo của FOMC.

    Ông nhấn mạnh: “Báo cáo về tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 5 là một sự ngạc nhiên đáng khích lệ. Chúng tôi hy vọng sẽ có nhiều báo cáo như vậy, song tôi cho rằng chúng ta phải thực tế, đây là một chặng đường dài.”

    Dự báo của Fed được đưa ra sau một báo cáo về tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 5 đã thắp lên triển vọng hồi phục kinh tế hồi nhanh hơn sau thời kỳ suy thoái do dịch COVID-19 gây ra, với việc Mỹ có thêm 2,5 triệu việc làm trong tháng 5.

    Ông Powell cũng cho hay: “Chúng tôi tin rằng bản báo cáo Tóm tắt về Dự báo Kinh tế sẽ cung cấp một quan điểm hữu ích về cách thức các thành viên FOMC đang đánh giá về con đường phía trước.”

    Trước đó, nhằm giảm thiểu tác động của dịch COVID-19 đối với nền kinh tế Mỹ, Fed đã hạ lãi suất cơ bản xuống mức 0%, đồng thời tung ra hàng nghìn tỷ USD để hỗ trợ các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19.

    Các biện pháp này đã giúp thúc đẩy thị trường chứng khoán ngay cả khi nền kinh tế Mỹ vẫn đang "oằn mình" trong khó khăn do dịch bệnh.
  10. dongtay79

    dongtay79 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/01/2016
    Đã được thích:
    6.083
    Tác động của Hiệp định EVFTA đối với ngành Dệt May Việt Nam
    03/04/2020 04:10
    Facebook
    Với quy mô nhập khẩu hàng dệt may hàng năm hơn 250 tỷ USD, EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới, chiếm 34% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may thế giới, với tổng cầu may mặc tăng trưởng bình quân 3%/năm, trong khi thị phần xuất khẩu của dệt may Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 2,7%, dư địa để ngành dệt may Việt Nam gia tăng xuất khẩu vào thị trường EU sau khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực là rất triển vọng.

    Tuy nhiên chúng ta cần đánh giá lại cơ hội từ Hiệp định EVFTA đến từ đâu, vào thời điểm nào và mặt hàng nào thị trường EU có nhu cầu đểtập trung khai thác. Bài viết này sẽ cùng nhìn nhận tổng thể thị trường dệt may EU và nhận diện cơ hội có thể có từ Hiệp định EVFTA để doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh.

    1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG EU VÀ HIỆN TRẠNG XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM ĐI EU
    Liên minh Châu Âu gọi tắt là EU với 28 quốc gia thành viên, có quy mô dân số hơn 500 triệu người, GDP đạt 18.292 tỷ USD năm 2019, chiếm 22% GDP toàn cầu.

    Trong TOP 5 thị trường xuất khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam thì EU là thị trường có quy mô lớn nhất về nhu cầu tiêu thụ, hơn 250 tỷUSD và tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (gọi tắt là CAGR) của tổng cầu trong 5 năm 2015-2019 cao thứ 2, đạt 3% chỉ sau thị trường Hàn Quốc.

    [​IMG]

    Mặc dù EU là nước nhập khẩu dệt may lớn nhất thế giới song EU cũng là nước xuất khẩu dệt may đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Trung Quốc, chiếm 24% kim ngạch xuất khẩu dệt may thế giới. Các quốc gia EU nhập khẩu hàng may mặc từ các nước đang phát triển và tái xuất khẩu cho chính các quốc gia khác trong khối EU. Chính vì thế, hàng dệt may các nước EU xuất khẩu nội khối chiếm hơn 40,1% tổng nhập khẩu của thị trường này, khoảng 60% lượng nhập khẩu còn lại đến từ các nước ngoài khối EU, chủ yếu là các nước đang phát triển.

    Trong nhóm các nước đang phát triển xuất khẩu vào EU, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh là 3 quốc gia có thị phần xuất khẩu nhiều nhất vào EU, chiếm gần 36% tổng nhập khẩu với trị giá 100 tỷ USD.

    Mặc dù Trung Quốc đang chiếm thị phần lớn nhất, gần 20% trên thị trường EU nhưng 5 năm qua tốc độ tăng trưởng kép – CAGR kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc vào EU giảm 0,1%, trong khi đó Bangladesh, Pakistan tăng 10%, Việt Nam tăng 9%, đặc biệt đáng chú ý Campuchia tăng 17% (từ 2,8 tỷUSD năm 2013 lên 6,3 tỷUSD năm 2018).

    Ngoài trừ Trung Quốc là “ông lớn” trong ngành, các quốc gia khác như Bangladesh, Campuchia hay Pakistan đều có lợi thế vượt trội về ưu đãi thuế nhập khẩu so với Việt Nam khi xuất khẩu vào EU. Bangladesh và Campuchia được hưởng chế độ miễn thuế nhập khẩu theo chương trình EBA (viết tắt của chương trình Everything but Arm – Miễn thuế tất cả các mặt hàng trừ vũ khí), Pakistan cũng được miễn thuế nhập khẩu theo chương trình GSP+. Việt Nam mặc dù cũng được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan GSP nhưng chỉ là “GSP tiêu chuẩn – Standard GSP” ở mức 9,6%.

    [​IMG]

    Rõ ràng cuộc cạnh tranh trong nhóm các nước đang phát triển xuất khẩu vào EU là khá quyết liệt, việc áp dụng các chế độ ưu đãi thuế quan GSP+ và EBA giúp các quốc gia được hưởng có lợi thế cạnh tranh lớn về giá so với Việt Nam. Điều này cũng lý giải vì sao thị phần xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường EU duy trì quanh mức 2-3%.

    Mặc dù tốc độ tăng trưởng xuất khẩu kép 5 năm qua vào EU có tăng gần 9% tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu dệt may vào EU trong tổng KNXK dệt may đi thế giới của Việt Nam trong 5 năm qua giảm từ 17,1% năm 2015 xuống 16,3% năm 2019.

    1. TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO EVFTA ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
    Hiệp định EVFTA đã được Nghị viện Châu Âu thông qua vào ngày 12/2/2020 có ý nghĩa khá quan trọng trong việc mở ra cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho ngành dệt may, đặc biệt trong bối cảnh ngành dệt may đã chịu tác động không nhỏ của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung suốt năm rưỡi qua và mới đây là dịch bệnh Covid 19. Dự kiến Việt Nam và EU sẽ hoàn tất quá trình phê chuẩn để Hiệp định chính thức có hiệu lực vào tháng 7 năm 2020.

    Với Hiệp định EVFTA, 100% các mặt hàng dệt may của Việt Nam sẽ được giảm thuế nhập khẩu về 0% sau tối đa 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Cụ thể, theo thống kê của Bộ Công Thương đối với mặt hàng dệt may, EU sẽ xóa bỏ thuế quan với 77,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sau 5 năm và 22,7% kim ngạch còn lại sẽ được xóa bỏ sau 7 năm.

    Như vậy lợi thế cạnh tranh về thuế của các quốc gia cạnh tranh như Bangladesh, Campuchia, Pakistan sẽ không còn trong thời gian tới. Campuchia đang đứng trước thách thức sẽ chính thức bị loại khỏi chương trình ưu đãi thuế quan GSP ngay từ tháng 8/2020 và thuế nhập khẩu hàng dệt may của Campuchia vào EU sẽtăng lại 12% do vi phạm một số nguyên tắc về theo quy định của EU.

    [​IMG]

    Nguồn: Tổng hợp từ Trademap

    Cùng với lợi ích về xóa bỏ thuế quan, EVFTA với quy tắc xuất xứ yêu cầu “từ vải” kết hợp với yêu cầu “từ sợi trở đi” của Hiệp định CPTPP sẽ tiếp tục thúc đẩy việc hình thành chuỗi sản xuất khép kín từ thượng nguồn đến cắt may thành phẩm, nâng cao giá trị gia tăng cho ngành và giảm dần phụ thuộc việc nhập khẩu nguyên phụ liệu bên ngoài.

    2.1. Lợi ích cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu

    Thuế suất cơ sở trong EVFTA cho hàng may mặc là 12%, từ mức thuế này các mặt hàng sẽ về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc về 0% theo lộ trình B3, B5, B7 – tức sau 4, 6, 8 năm từ khi Hiệp định có hiệu lực về 0%.

    Về cam kết giảm thuế trong EVFTA các doanh nghiệp cũng cần lưu ý một số mặt hàng trong năm đầu tiên Hiệp định có hiệu thuế suất thuế nhập khẩu theo EVFTA sẽ bị đẩy cao hơn so với thuế suất GSP 9,6% đang được hưởng. Tuy nhiên Hiệp định EVFTA mang lại lợi ích mang tính dài hạn cho ngành dệt may Việt Nam, không chỉ riêng lợi ích về xóa bỏ thuế quan. Lợi ích EVFTA đem lại là vượt trội so với cơ chế GSP ta đang được hưởng, mặc dù trong năm đầu tiên Hiệp định có hiệu lực một số mặt hàng chưa hưởng lợi về giảm thuế vì khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, Việt Nam sẽ không được hưởng chế độ GSP.

    Hạn chế lớn nhất của GSP là “ngưỡng trưởng thành”, điều này hạn chế sự mở rộng thị phần xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào EU vì nếu KNXK dệt may Việt Nam vượt quá 14,5% tổng nhập khẩu của sản phẩm này từ tất cả các nước được hưởng GSP, trong thời gian 3 năm liền, dệt may VN sẽ bị loại khỏi cơ chế GSP.

    Theo thống kê của chúng tôi, trong Top 10 CAT mặt hàng xuất khẩu đi EU, chiếm 72% tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK) sang EU, 76% KNXK (thuộc nhóm B5 và B7) năm đầu hiệu lực thuế sẽ bị đẩy cao hơn GSP, cụ thể:

    [​IMG][​IMG]

    2.2. Đáp ứng quy tắc xuất xứ “từ vải trở đi” để hưởng ưu đãi thuế quan của EVFTA

    Nguyên tắc để hàng dệt may Việt Nam được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi theo EVFTA yêu cầu vải phải được dệt tại Việt Nam hoặc EU và cắt may tại Việt Nam. Lưu ý quy tắc xuất xứ cho hàng dệt may theo EVFTA được thể hiện dưới dạng “quy trình sản xuất cụ thể” không phải quy tắc chuyển đổi mã số hàng hóa CTC như Hiệp định CPTPP và các FTA đã ký, về cơ bản tương tự quy tắc xuất xứ doanh nghiệp đang áp dụng hưởng GSP hiện tại.

    Ngoài ra, nguyên tắc cộng gộp trong EVFTA cho phép doanh nghiệp Việt Nam sử dụng vải của:

    (i) Hàn Quốc hoặc một nước thứ 3 mà hai bên cùng ký FTA (Nhật Bản hoặc một nước nào đó trong tương lai cùng ký FTA), hoặc

    (ii) ASEAN với điều kiện thuế ưu đãi áp cho mặt hàng đó cao hơn cho mặt hàng tương tự của quốc gia ASEAN tham gia cộng gộp

    EVFTA cho phép chia nhỏ lô hàng trong trường hợp quá trình vận chuyển hàng hóa có quá cảnh qua nước thứ ba không phải thành viên với điều kiện hàng hóa vẫn nằm dưới sự giám sát của hải quan, đây là Hiệp định FTA thứ hai cùng với CPTPP cho phép doanh nghiệp thực hiện việc này, quy định này rất thuận lợi cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu, họ có thể đưa các trung tâm phân phối lớn chia nhỏ giao hàng theo các thời điểm mùa vụ phù hợp.

    Về thủ tục chứng nhận xuất xứ, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ cho nhà xuất khẩu đủ điều kiện được áp dụng đối với doanh nghiệp EU xuất khẩu sang Việt Nam, đối với doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU có lẽ trước mắt vẫn xin cấp C/O như truyền thống, theo quy định Việt Nam sẽ thông báo cho EU triển khai tự chứng nhận xuất xứ khi sẵn sàng.

    1. DỰ BÁO TĂNG TRƯỞNG XUẤT KHẨU VÀO EU
    Quy tắc xuất xứ “từ vải trở đi” của Hiệp định EVFTA vẫn là thách thức trong ngắn hạn đối với ngành dệt may Việt Nam. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam chưa đủ vải chất lượng cao phục vụ xuất khẩu vào EU, việc mua vải trong nước phải trả thuế VAT 10% đắt hơn so với vải nhập khẩu khiến lợi ích cắt giảm thuế quan chưa đủ bù đắp để giảm giá bán cạnh tranh với các quốc gia khác.

    Giả định thuế suất thuế nhập khẩu giảm 1%, doanh thu xuất khẩu tăng 2% (chưa tính đến tăng trưởng xuất khẩu thông thường hàng năm), dự báo kim ngạch xuất khẩu đi EU giai đoạn 2020- 2025 sẽ tăng thêm như sau:

    [​IMG]

    Cùng với các phân tích trên, trong ngắn hạn Hiệp định EVFTA khó tạo ra một cú hích mạnh mẽ cho ngành dệt may Việt Nam như thời kỳ gia nhập WTO hay ký BTA với Mỹ, EVFTA kỳ vọng sẽ mang lại lợi ích dài hạn cho ngành dệt may Việt Nam trong việc gia tăng thị phần xuất khẩu vào thị trường EU, giúp giảm phụ thuộc vào thị trường Mỹ hạn chế bớt các rủi ro khi thị trường Mỹ biến động do xung đột thương mại Mỹ-Trung chưa kết thúc.

    Vấn đề Brexit cũng cần được lưu ývì Anh đã chính thức rời EU từ ngày 31/1/2020 với thời gian chuyển đổi hạn chót là 31/12/2020 Anh vẫn được coi là thành viên EVFTA. Chính vì vậy từ nay đến cuối năm giả sử EVFTA có hiệu lực ngay năm nay doanh nghiệp vẫn có thể sử dụng vải nhập khẩu của Anh để sản xuất vẫn đáp ứng quy tắc xuất xứ EVFTA nhưng câu chuyện sau ngày 31/12/2020 hiện chưa rõ ràng, phụ thuộc vào đàm phán giữa Anh và EU.

    Bài: ĐỨC ANH – HOÀNG HÂN

    Bài viết đã được đăng trên Tạp chí Dệt May và Thời Trang Việt Nam số Tháng 3/2020 tại đây

Chia sẻ trang này