Câu chuyện tử vi- phương pháp tu phước cải tạo vận mệnh

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi nguyend_uyanh, 12/12/2013.

5839 người đang online, trong đó có 626 thành viên. 22:46 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 3112 lượt đọc và 12 bài trả lời
  1. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Đã được thích:
    116
    Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 10) 2013-06-17 1051 (PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 18/04/2001. Chư vị đồng tu, xin chào mọi người, mời xem tiếp văn tự phía sau: [Văn báng nhi nộ, tuy xảo tâm lực biện, như xuân tàm tác kiển, tự thủ triền mộ, nộ bất duy vô ích, thả hữu hại dã.] (Nếu nghe những lời phỉ báng mà nổi giận. Dù hết lời biện hộ, chẳng khác nào như con tằm nhả tơ, tự trói buộc mình mà thôi. Sự nóng giận tai hại vô ích.) Sự việc này, chúng ta trong đời sống sinh hoạt thường ngày hay gặp phải, bản thân chúng ta phải đề cao cảnh giác, ngàn vạn lần không được để hoàn cảnh xoay chuyển, như vậy thì tổn thất của chúng ta quá lớn rồi. Một lần nổi sân hận, bất luận thời gian dài hay ngắn, tức là nói chỉ một giây đồng hồ ngắn ngủi như thế, đã làm tổn hại trên sinh lí, trên tâm lí của chúng ta, cần phải mất thời gian ba ngày mới có thể phục hồi lại tâm thanh tịnh. Chư vị nghĩ thử xem, nếu như mỗi ngày đều phát nộ khí, đối với sức khỏe của bạn có tổn hại quá lớn rồi, điều này thật không đáng chút nào. [Văn báng], người khác hủy báng chúng ta, đây là điều không thể tránh miễn được, chúng ta cùng mọi người qua lại với nhau, thực tại không cách gì khiến cho tất cả đại chúng đối với ngôn ngữ, hành vi của chúng ta cảm thấy mãn ý. Không chỉ có phàm phu chúng ta làm không được, mà ngay cả Thích Ca Mâu Ni Phật cũng làm không được. Phật lúc còn tại thế, thường hay có người tìm đến Ngài gây sự, hủy báng, vũ nhục, thậm chí là hãm hại Ngài; như có Đề Bà Đạt Đa, trong nội bộ tăng đoàn có 6 chúng tỳ kheo đến gây phiền não, bên ngoài có lục sư ngoại đạo; đều là Thế Tôn tại thế gian này làm một tấm gương tốt cho chúng ta. Phật đối với những hủy báng, hãm hại này xử lí như thế nào? Phật dùng tâm bất động, tâm chân thành, thanh tịnh, từ bi mà xử lí, đây là điều mà chúng ta phải học tập. Cho nên, nếu như chúng ta nghe thấy người khác hủy báng mình, mà vẫn nổi tâm sân hận, thậm chí là bản thân còn cực lực phản biện lại, đây là bạn tự tìm phiền não. Cho nên, Liễu Phàm tiên sinh tại đây có cử ra một ví dụ: “như xuân tàm tác kiển, tự thủ triền mộ” (giống như con tằm về mùa xuân kéo kén tự ràng buộc mình), thực tại bất tất phải như thế. [Nộ bất duy vô ích, thả hữu hại dã], hai câu nói này là danh ngôn rất chí lí, chúng ta hi vọng bản thân trong một đời sống được hạnh phúc mỹ mãn, bạn phải ghi nhớ “làm sao để trong một đời luôn không nổi giận”, đây là công phu tu dưỡng đã đạt đến cảnh giới. Nổi giận, vừa mới nói là đối với thân tâm của chúng ta đều có tổn hại; cũng có hại cho đối phương, cả hai bên đều có hại, cả hai đều không có lợi ích gì cả. Nếu như chúng ta có thể nhẫn chịu, có thể dùng tâm bất động mà xử sự, bản thân chúng ta có được lợi ích. Có được lợi ích gì? Định huệ tăng trưởng. Phước đức của một người là do định huệ mà có, định huệ tăng trưởng thì phước đức tăng trưởng; định huệ là nhân, phước đức là qủa. Đối với đối phương cũng có lợi ích, chúng ta không có tâm oán hận, không có tâm báo thù, không cùng với anh ta kết oán cừu, cho nên tự tha lưỡng lợi, đây là Bồ Tát đạo, là Bồ Tát học, chúng ta cần phải nỗ lực học tập. Đương nhiên, lúc sơ học nhất định sẽ có khó khăn, nhưng bản thân chúng ta nhất định phải hiểu được đạo lí này, cần phải khắc phục những khó khăn của bản thân, dần dần có thể làm được một cách tự nhiên. Lúc ban đầu phải hết sức nhẫn nại, về sau làm được tự nhiên hơn. Ở đây cử ra hai ví dụ để nói: [Kỳ dư chủng chủng quá ác, giai đương cứ lí tư chi]. (Mỗi lần gặp lỗi lầm ta đều phải bình tĩnh sáng suốt để thấy lý của nó) Chúng ta trong đời sống hằng ngày đối người, đối sự, đối vật, sai lầm vô số, ác hạnh quá nhiều, đều phải thường nghĩ đến đạo lí này, phải thông tỏ nghĩa lí của nó. [Thử lí ký minh, quá tương tự chỉ] (khi lý đã rõ thì việc làm lỗi tự động sẽ dứt). Bạn chỉ cần đem đạo lí này hiểu cho thông đạt, hiểu cho minh bạch, lỗi lầm tự nhiên tiêu trừ. Đây là phương pháp thứ hai của sửa lỗi, phương pháp này so với phương pháp phía trước thù thắng hơn nhiều. Lại xem Liễu Phàm tiên sinh nói đến phương pháp thứ ba: [Hà vị tùng tâm nhi cải? quá hữu thiên đoan, duy tâm sở tạo, ngô tâm bất động, quá an tùng sanh?] (Thế nào là sửa trong tâm? Lỗi lầm thiên hình vạn trạng đều do tâm tạo. Nếu tâm ta không động thì thiện ác đâu mà sanh?) Đây là đại đạo lí, đây là đạo lí cứu cánh. Lỗi lầm của con người quá nhiều, nói không thể hết được! Lỗi lầm bất tất nói là chính bạn tạo tác, chỉ cần khởi tâm động niệm sai trái thì liền hình thành tội nghiệp. Thử hỏi bản thân: chúng ta mỗi ngày từ sáng đến tối chúng ta khởi lên bao nhiêu vọng niệm, bao nhiêu vọng niệm tự tư tự lợi, bao nhiêu vọng niệm tổn người lợi mình? Những lỗi lầm họa hại này đều là “duy tâm sở tạo”, trong tâm bạn khởi tâm động niệm. Cho nên việc tu hành trong phật pháp, then chốt của việc tu hành chính là thiền định. Chư vị ngàn vạn lần không nên hiểu sai ý này, nếu cho rằng tu thiền định trong nhà phật chỉ có thiền tông, vậy thì bạn sai rồi. Chỉ cần là Phật pháp, bất luận là đại thừa hay tiểu thừa, hiển giáo hay mật giáo, tông môn giáo hạ, rất nhiều tông phái, vô lượng vô biên pháp môn, nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, tổng tất cả lại mà nói, đều là tu thiền định. Cho nên, thiền định là tu hành trong nhà Phật, không luận là pháp môn nào đều cùng chung một nguyên tắc, chỉ là phương pháp không giống nhau. Thí như nói, Mật tông dùng phương pháp trì chú; Tịnh tông dùng phương pháp niệm A Mi Đà Phật để tu thiền định, là phương pháp trì danh, cũng dùng phương pháp quán tưởng, dùng phương pháp quán tượng; trong Giáo hạ có phương pháp đọc tụng kinh điển, có phương pháp trì giới. Phương pháp rất nhiều, không một phương pháp nào không phải là tu thiền định, nếu như không phải tu thiền định thì đó không phải là phật pháp. Đây là sự thật chúng ta phải hiểu cho rõ ràng minh bạch. Nếu như chân thật đắc định rồi, cái gì gọi là “định”? Chính là nói, tâm trong tất cả cảnh giới: thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên; thiện duyên, ác duyên là danh từ trong nhà Phật; chính là nói hoàn cảnh đối người, đối sự. Thiện duyên chính là cùng với rất nhiều người thiện ở chung một chỗ; ác duyên là cùng với rất nhiều người tạo ác ở chung một chỗ. Gọi là hòan cảnh nhân sự. Vô luận là trong bất cứ hoàn cảnh nào, chỉ cần bản thân không động tâm, không động niệm, đó đều gọi là thiền định. Cho nên, “Ngô tâm bất động, quá an tùng sanh”, lỗi lẫm từ chỗ nào mà đến? khởi tâm động niệm chính là lỗi lầm, chỉ cần chúng ta trong tất cả các cảnh giới, đối người, đối sự, đối vật để luyện tâm, luyện tâm bất động, luyện được không khởi tâm động niệm. Trong tất cả mọi phương pháp, thực tại mà nói, phương pháp niệm phật là cách tốt nhất, tiện lợi nhất, dễ dàng nhất. Tại sao? Ý niệm vừa động, lập tức “A Mi Đà Phật”, dùng câu Phật hiệu A Mi Đà Phật để đem vọng niệm đè phục xuống, dụng ý của niệm Phật là ở tại chỗ này. Nếu như một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng, vậy thì bạn hoàn toàn sai rồi. Niệm Phật đúng cách là dùng câu Phật hiệu để chế phục vọng niệm. Cũng chính là nói, dùng một niệm này thay cho tất cả vọng niệm. Ý niệm không thể không khởi, nếu như bạn không khởi vọng niệm, vậy thì bạn là Thánh nhân, bạn không phải phàm nhân. Người phàm phu đối mặt với hoàn cảnh bên ngoài, nào có đạo lí không khởi vọng niệm chứ? Cho nên cổ đại đức thường nói: “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Bạn phải giác ngộ nhanh; giác ngộ nhanh chính là liền đem vọng niệm chặn đứng lại. Phương pháp của Tịnh độ tông, chính là dùng một câu Phật hiệu để đem nó chuyển đổi lại, niệm vừa mới khởi lên, bất kể niệm đó là thiện hay ác, ngay lập tức giữ lấy câu Phật hiệu để thay thế chúng, để trong tâm chúng ta chỉ có một niệm, không cho niệm thứ hai khởi lên, đây gọi là niệm Phật; đây gọi là công phu. Làm được lâu dài như vậy, ý niệm tự nhiên không khởi lên nữa, công phu của bạn được đắc lực; nếu như vẫn cứ khởi niệm, công phu của bạn không đắc lực. Giống như ngày ngày đọc sách, rất dụng công đọc sách, nhưng đi thi đều không đậu, bạn không có được tành tích. Cho nên người học Phật, người tu hành; tu hành chính là tu chính lại những tư tưởng sai lầm của chúng ta; tu chính lại những hành vi sai lầm của chúng ta. Chúng ta hôm nay có được phương pháp trì danh niệm phật, dùng phương pháp này trong tất cả thời, tất cả xứ bảo trì thanh tịnh tâm của chúng ta; câu này ý nói, giữ cho chúng ta không tạo ác nghiệp. Phía sau cử cho chúng ta ví dụ: [Học giả]. Học giả là chỉ người học Phật, là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật tuy rằng bây giờ không còn trụ thế nữa, nhưng kinh điển của Phật còn tại thế gian, chúng ta y cứ vào phương pháp, lí luận trên kinh điển mà tu học, đây đều là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật. [Ư háo sắc, háo danh, háo hóa] “Hóa” chính là hưởng thụ vật chất [Hảo nộ, chủng chủng chư quá, bất tất trục loại tầm cầu] (như thích nổi nóng, mỗi mỗi việc sai, bất tất phải sửa từng điều một). Những sự việc này, phàm phu chúng ta khó mà cưỡng lại được. Trước những cảnh này, tâm tham của chúng ta khởi lên: tham sắc, tham danh, tham hưởng thụ; tâm sân khuể của chúng ta phát ra nộ khí, tham sân si hiện tiền, đây chính là lỗi lầm, đây gọi là tạo nghiệp. Lúc này thì phải làm sao? chỉ cần có ý niệm này liền lập tức chuyển thành A Mi Đà Phật; đem ý niệm háo sắc diệt trừ, đem ý niệm ham danh buông bỏ, đem ý niệm tham đồ hưởng thụ đoạn sạch, đem ý niệm sân giận cũng dập tắt; công đức của niệm Phật là ở tại chỗ này. Dùng phương pháp khác cũng có thể, nhưng phương pháp niệm Phật là tiện lợi nhất, đơn giản nhất, cũng có hiệu quả nhất. Pháp môn tông phái trong nhà Phật có rất nhiều, tôi cũng đã từng chọn lựa qua, nhưng cuối cùng, tôi vẫn là chọn pháp môn này. Pháp môn này giản đơn dễ dàng, cũng vô cùng có hiệu quả; chính là đem vọng tưởng, ý niệm thay thế bằng việc trì giữ một câu Phật hiệu, đem chúng chuyển đổi lại dần dần, vọng niệm cũng từ từ ít đi. Khi những cảnh giới này hiện tiền, tâm ta đã đạt đến như như bất động. Không phải nói là mắt nhìn không thấy, tai không nghe, không tiếp xúc; không phải như vậy. Mắt ta cũng vẫn nhìn thấy, tai cũng nghe thấy, tiếp xúc như vậy, nhưng tiếp xúc mà không động tâm. Tại thế gian, lục căn tiếp xúc với cảnh giới lục trần, cũng giống như xem điện ảnh, xem ti vi vậy, cảnh giới này, Phật tại trên kinh Bát Nhã nói được rất hay: “như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Đây chính là Phật từ trên lí mà nói cho chúng ta, từ trên lí mà quan sát, từ trên tâm là sửa, vô cùng có hiệu quả. “Chủng chủng chư ác, bất tất trục loại tầm cầu.” Bất tất phải từng việc từng việc mà nghĩ, từng điều từng điều mà sửa, đây thì quá phiền phức, quá mất công rồi! [Đản đương nhất tâm vi thiện, chính niệm hiện tiền, tà niệm tự nhiên ô nhiễm bất thượng]. (chỉ cần một lòng hướng thiện, chánh niệm hiện tiền, thì tà niệm liền không thể khởi tác dụng được) Câu nói này nói được rất hay! Chỉ cần bản thân chúng ta trì giữ, chấp trì được “nhất tâm vi thiện”- một lòng làm thiện. Cái gì gọi là “vi thiện”? Niệm niệm đều vì lợi ích cho chúng sanh, lợi ích cho xã hội, lợi ích cho quốc gia, một lòng làm thiện. Tuyệt đối không nghĩ đến lợi ích của bản thân, chư vị phải nên biết, nếu như xen tạp một ý niệm lợi ích bản thân, thì việc thiện của bạn không thuần, trong thiện có xen tạp, xen tạp điều bất thiện, đạo lí này phải hiểu. Tâm mình là thuần thiện, hành vi của bản thân cũng đương nhiên là thuần thiện, phải làm được đến thuần thiện, quyết định không có tơ hào ý niệm tự tư tự lợi, chúng ta mới có khả năng thành tựu. “Chánh niệm hiền tiền”, chánh niệm là đối với tà niệm mà nói; tà niệm là tư tưởng sai quấy, là kiến giải không đúng, là hành vi sai trái. Lỗi lầm này đối với xã hội có tổn hại, đối với bản thân vô cùng bất lợi. Bạn làm hại xã hội, tổn hại người khác, tương lai bạn nhận lấy quả báo ở tam đồ, trước mắt tuy là có được một vài lợi ích nhỏ, về sau phải thọ nhận quả báo. Nếu như làm một sự so sánh, bạn liền hiểu được: “được không bằng mất”! Cái bạn được quá ít ỏi, còn cái giá bạn phải trả quá lớn quá lớn, thật không đáng! Cho nên phải luôn luôn bảo trì chánh niệm, ý niệm thuần chính chính là phía trước đã nói: “ngô tâm bất động”, cảnh giới bên ngoài liễu liễu phân minh, đây chính là chánh niệm. Tu chánh niệm, tôi cử ra một ví dụ để nói: Hiện tại trong mỗi gia đình đều có ti vi, từ trẻ nhỏ đến người lớn, đại khái trong gia đình, thời gian xem ti vi là nhiều nhất. Xem ti vi có phải là tu hành hay không? Có thể. Tôi trước đây đã dạy không ít người, đem bốn câu trên “kinh Kim Cang” viết ra, dán ở bên cạnh màn hình ti vi, bốn câu đó là: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Chúng ta hãy dùng bài thơ này để xem ti vi, đó thì là tu hành. Màn hình ti vi, bạn thấy rõ ràng; âm thanh của ti vi bạn cũng nghe được rất rõ ràng, bạn từ chỗ này học được cái gì? Học được như như bất động. Mà không phải bị chúng chuyển. Màn ảnh ti vi diễn ra cảnh hoan hỷ, vui vẻ; nó cười, bạn liền cười theo nó; nó khóc thì bạn liền khóc theo nó, vậy thì bạn xong rồi. Bản thân bạn không định lại được, bạn bị chúng chuyển. Người tu hành phải như thế nào? Ta không bị nó chuyển, mà ta chuyển nó, vậy thì bạn thành công rồi. Trên kinh Lăng Nghiêm có nói: “Nhược năng chuyển cảnh, tức đồng Như Lai”. Cảnh giới hiện tiền, bạn không bị chúng chuyển, bạn lại có khả năng chuyển chúng. Chuyển được chúng, bạn liền có thể giáo đạo chúng, bạn liền có thể cải biến chúng, giúp chúng đổi tà thành chánh. Nếu bản thân bạn không có năng lực này, không có định lực này, không có trí huệ này, bạn không thể giữ cho bản thân không động, bạn làm sao có thể chuyển người khác chứ? Bạn hiểu được xem ti vi là tu hành, chính là tu giới định huệ. Sau đó bạn mới hiểu được, chúng ta mỗi ngày từ trong mỗi việc nhỏ nhặt nhất của đời sống, không một nơi nào không phải là nơi Bồ tát học tập, không một pháp nào không trở thành Vô thượng đạo; vấn đề là bạn có thể làm được hay không mà thôi. Đại đức Thiền Tông, chúng ta từ trong kí lục trước đây thường thường xem thấy, họ trắc nghiệm học trò, thường hay hỏi đệ tử rằng: Anh “có hiểu không!” Ý nghĩa của hai từ này thâm rộng vô tận, nếu như bạn có thể chân thật thể hội được, thì mỗi một việc nhỏ nhặt đều là Phật pháp: “đầu đầu thị đạo, tả hữu phùng nguyên” đây mới là chân chính thành tựu; đây cũng chính là trên kinh Hoa Nghiêm nói: “lí sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Thuật ngữ trong tông môn và giáo hạ tuy không đồng nhau, nhưng ý nghĩa hòan tòan giống nhau. Các bạn hãy suy nghĩ xem: Tông môn nói: “đầu đầu thị đạo, tả hữu phùng nguyên”, còn trong giáo hạ nói: “lí sự vô ngại, sự sự vô ngại”, không phải là cùng một ý nghĩa đó hay sao? Pháp môn tuy không đồng, phương pháp không giống nhau, nhưng đều quy về một chỗ. Chỗ này chúng ta đã minh bạch rồi, thì chúng ta đối với tất cả các tông phái, tất cả pháp môn, đều dùng tâm cung kính mà đối đãi, không có cao thấp. Tuyệt đối không thể nói, pháp môn niệm Phật của tôi rất cao minh, phương pháp đó của anh không bằng tôi, đây là sai rồi! Tâm của bạn không thanh tịnh, tâm của bạn không bình đẳng, bạn đã mê mất rồi, bạn không giác ngộ. Người chân chính giác ngộ đó là người có tâm bình đẳng, “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”, đây là đúng rồi, đây quyết định là chính xác. Cho nên “nhất tâm vi thiện, chánh niệm hiện tiền”, điều này quan trọng! Giả như, xã hội hiện tại của chúng ta, quốc gia ngày nay, mỗi một người đều có thể làm đến “nhất tâm vi thiện, chánh niệm hiện tiền”, thì trong xã hội này làm sao có thể có tà đạo chứ? Làm sao có thể có tà tri tà kiến? Tự nhiên chúng bị tiêu trừ không còn dấu vết. Cổ đức thường nó: “phá tà hiển chánh”, chúng ta ngày nay đem câu nói này phản tỉnh trở lại, hiển chánh, tà sẽ không thể tồn tại. Trong xã hội tại sao lại có nhiều tà tri tà kiến như vậy? Bởi vì không có sự giáo dục chánh tri chánh kiến, cho nên một khi tà tri tà kiến xuất hiện, mọi người hiếu kì, liền hướng đến chúng mà học tập, thật là mù quáng! Ngạn ngữ có câu: “không sợ không biết hàng, chỉ sợ hàng không tốt”. Nếu như chánh pháp có thể đề xướng, nhân dân có thể biện biệt, có thể so sánh được, đem cả hai bày ra trước mắt để so sánh, họ có thể nhận thức được, họ tự nhiên có thể biết cách chọn lựa. Ngày nay, tà giáo có mặt trên toàn thế giới, lan tràn khắp xã hội. Nguyên nhân vì sao? Vì trong thời đại này không có người đề xướng chánh pháp. Nho gia, “đả đảo Khổng gia điếm- ý nói lật đổ học thuyết của Khổng tử”, Nho gia là chánh pháp, là dạy người: “hiếu, đễ, trung, tín”; “lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, dạy người “ngũ luân bát đức”, chánh pháp, đã không cần đến nữa. Phật pháp là chánh pháp, Phật pháp dạy người: “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Hiện tại mọi người cho rằng phật pháp là mê tín, phá trừ mê tín, đả đảo mê tín, từ đây sản sinh ra rất nhiều hiểu lầm. Phật không mê tín, khẩu hiệu trong nhà Phật là “phá mê khai ngộ”, đem phá mê khai ngộ để triệt phá đi mê tín, vậy thế nào gọi là không mê tín? Đó nhất định là tà pháp thì không mê tín, tà giáo thì không mê tín, đương nhiên trong xã hội sẽ kéo nhau đi học tà pháp. Ở đây, chúng ta phải suy nghĩ kĩ càng. Làm sao để có thể “hiển chánh phá tà”, hiện nay trên tòan thế giới, rất nhiều quốc gia khu vực đều áp dụng được rất tốt. Lại xem phía sau, kinh văn phía sau từ trên tỉ dụ mà nói: [Như thái dương đương không, võng lượng tiềm tiêu]. (Như mặt trời mọc lên thì quỷ quái phải tìm đường lẩn trốn.) Hai câu này là tỉ dụ, đem ‘Thái dương” để so sánh với chánh pháp; đem “võng lượng” để so với tà pháp, võng lượng là yêu quái. Dưới ánh nắng mặt trời chuyển hóa sang ban ngày, yêu quái không thể tồn tại được, đạo lí này cũng giống như vậy. Phía sau Liễu Phàm tiên sinh đưa ra môt kết luận: [Thử tinh nhất chi chân truyền dã]. “Tinh” là tinh thuần; “nhất” là duy nhất, độc nhất. Những điều mà thánh hiền truyền lại từ xưa đến nay, đây gọi là chân truyền. [Quá do tâm tạo, diệc do tâm cải]. (Tội do tâm tạo thì phải từ trên tâm mà sửa.) Đây là từ trên căn bản mà sửa đổi, như vậy việc sửa đổi mới có thể đạt đến cứu cánh, mới có thể sửa đổi triệt để. [Như trảm độc thụ, chân đoạn kỳ căn, hề tất chi chi nhi phạt, diệp diệp nhi trích tai?] (Như muốn trừ một cây độc, chỉ cần đốn ngay gốc, đâu cần bẻ từng lá và chặt từng nhánh?) Ở đây lại dùng một tỉ dụ để nói. Thí như chúng ta chặt cây, cây này có bệnh độc, không phải là cây tốt, chúng ta phải đem chúng đốn trừ tận gốc. Từ trên gốc rễ của nó mà đoạn trừ, không cần phải chặt cành nhánh, lá cây; chọn cành hái lá rất phiền phức! Chặt từ gốc rễ thì tốt rồi, cành là tự nhiên bị khô héo. Đây là nói sửa lỗi, phía trước giảng từ trên lí mà sửa, cũng giống như chặt cây, phải từ thân cây mà hạ thủ. Từ trên sự mà sửa, cũng giống như từ trên lá cây mà hạ thủ, điều này thì rất phiền phức, rất không dễ dàng. Từ trên tâm mà sửa, cũng chính là từ trên gốc rễ mà hạ thủ, điều này dễ dàng và chân chánh làm được đến cứu cánh. Lại xem tiếp đoạn văn tiếp theo, tổng kết: [Đại để tối thượng giả trị tâm, đương hạ thanh tịnh, tài động tức giác, giác chi tức vô]. Chúng ta học Phật dụng công, cũng phải nắm được cương lĩnh này, nắm được cương lĩnh phải từ trên căn bản mà khởi tu thì không khó. Chúng ta ngày nay nói đến Phật pháp, kinh điển nhà Phật nhiều như vậy, cổ nhân hình dung rằng “hạo như yên hải-nhiều như nước biển.” Kinh sách được lưu truyền từ Ấn Độ đến Trung Quốc, sớm nhất trên lịch sử Trung Quốc có ghi chép lại, vào thập niên Hán Minh Đế Vĩnh Bình, năm 67 sau CN, đến ngày nay là năm 2001, đây là trên lịch sử có ghi chép lại. Nhưng trên thực tế, Phật pháp do tư nhân lưu truyền đến Trung Quốc, thời gian này vẫn còn rất sớm, có thể là sớm hơn đến hai, ba trăm năm. Chính thức do quốc gia phái sứ giả đi cầu thỉnh về, đi nghênh đón về chính là vào thập niên Hán Minh Đế Vĩnh Bình, tại Trung Quốc đã có trên hai ngàn năm lịch sử. Kinh điển không ngừng lưu truyền đến Trung Quốc, đại khái trễ nhất là vào thời Nam Tống. Trung Quốc thời Nam Tống đã hoàn thành phiên dịch, in ấn “Đại Tạng Kinh”, tổng cộng có hơn bảy ngàn quyển, hiện tại còn thêm vào các trước tác của ***** đại đức Trung Quốc trước đây, đều được gom lại đưa vào trong một bộ tùng thư này, hiện tại “Đại tạng kinh” tiếng Trung tổng cộng có đến trên ba vạn quyển. Nếu như chúng ta muốn học Phật, điển tịch nhiều như vậy, đều muốn xem qua, đều muốn nghiên cứu, đều muốn học tập hết, đây chính là tìm cành ngắt lá vậy, phiền phức biết bao! Vậy phải đến năm nào, chúng ta mới có thể nhập môn? Cho nên, người biết học phải từ trên căn bản mà học, đây mới là điều quan trọng, mấu chốt. Tôi học Phật 50 năm, tôi giảng kinh cũng được 42 năm rồi. Tôi tổng kết tinh túy của Phật pháp trong một đời qua 20 chữ, chúng tôi thường giữ tâm này, chính là nói ngay trong đời sống hằng ngày đối người, đối sự, đối vật, chúng tôi dùng cái tâm gì? Phật tại trên kinh thường dạy cho chúng ta, dùng tâm chân thành, chân quyết định không có giả, thành thì không hư ngụy; dùng thanh tịnh tâm, thanh tịnh quyết định không có ô nhiễm; dùng bình đẳng tâm, bình đẳng thì không có cao thấp; dùng tâm chánh giác, quyết định không có mê hoặc; dùng từ bi tâm, ái hộ tất cả chúng sanh, trong từ bi tâm không có tự tư tự lợi. Chúng ta phải dùng năm loại tâm này, năm thứ tâm này chính là trên đại thừa Phật pháp thường nói “đại bồ đề tâm”. Nếu như dùng đại bồ đề tâm mà nói, rất nhiều người không dễ hiểu, chiếu theo chú giải trong kinh điển mà nói cũng rất khó hiểu, cách nói của tôi như thế này, mọi người sẽ rất dễ lí giải: chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi. Phật tâm! Phật là dùng cái tâm này để đối người, đối sự, đối vật. Hành vi của Phật là gì? Hành vi, tôi dùng 10 chữ để nói: khán phá, phóng hạ, tự tại, tùy duyên, niệm Phật. Niệm Phật này, Phật có nghĩa là giác, chính là niệm niệm đều là giác mà không mê, niệm niệm chánh mà không tà, niệm niệm là tịnh mà không nhiễm, đó gọi là niệm Phật; niệm tự tánh Phật. Nắm cái cương lĩnh này, tu hành liền dễ dàng. Quả nhiên có thể khế nhập được cảnh giới, thì tất cả kinh điển nhà Phật đều bày ra trước mắt bạn, bạn không còn cảm thấy khó khăn nữa, bạn đều có thể thông đạt, học tập. Cho nên, thế xuất thế gian pháp, đều phải biết căn bản, đều phải nắm được tinh yếu của nó, cương lĩnh của nó. Như vậy chúng ta liền hiểu được, đại khái tóm lại quan trọng nhất là phải từ trên căn bản mà tu, “trị tâm”, hiệu quả là đạt được thanh tịnh. Nào có việc phiền phức nhiều như thế chứ? “Tài động tức giác, giác chi tức vô”, đây là nói tâm vừa mới động, lập tức liền quan sát đến được; một khi giác rồi thì ý niệm này liền ngừng lại. Đây là cổ đại đức chỗ nói: “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Bạn phải giác ngộ cho thật nhanh, không để cho ác niệm tương tục; ác niệm vừa mới khởi lên, niệm thứ hai liền đề khởi lại chánh niệm, đây là phương pháp tốt nhất. [Cẩu vị năng nhiên]. Nếu như bạn làm không được, điều tối thượng đó không làm đến được, vậy thì bất đắc dĩ bạn phải dùng đến cách trung gian, bất đắc dĩ phải nhờ đến điều thứ kế; điều thứ kế đó là gì? Minh lí. [Tu minh lí dĩ khiển chi] Đạo lí phải rõ ràng, đạo lí phải minh bạch, tự nhiên đem ác niệm, tà niệm li khai đi. [Hựu vị năng nhiên] Điều này cũng làm không đến được, làm không được, vậy thì phải làm sao? [Tu tùy sự dĩ cấm chi]. Đây chính là chỉ có thể từ trên cành lá mà hạ thủ công phu. Đây là tầng thứ ba, thực tại mà nói chính là ba bậc căn tánh không đồng trong nhà Phật thường nói. Người thượng căn, từ trên căn bản mà hạ thủ, từ chỗ khởi tâm động niệm, đoạn tất cả ác; người căn tánh bậc trung, dùng “minh lí dĩ khiển chi-hiểu rõ lí để triêu trừ vọng niệm”; người hạ căn chỉ có “tùy sự dĩ cấm chi-dùng sự để ngăn cản”. Cho nên, Phật vì những người hạ căn này mà chế định ra rất nhiều giới điều. Những giới điều này, chư vị đồng tu nhất định phải biết, là khi Phật Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, quy phạm của đời sống xã hội Ấn Độ ba ngàn năm trước. Trên mặt thời gian, đã cách chúng ta ba ngàn năm; trên mặt hoàn cảnh địa lí, chúng ta bên này là Trung Quốc, bên kia là Ấn Độ; bạn cần phải minh bạch cái đạo lí này, sau đó bạn nghiên cứu giới luật mới chân chánh có được tâm đắc. Có cần phải căn cứ vào từng điều từng điều để làm không? Không cần thiết. Tại sao? Bởi vì rất nhiều phương thức sinh hoạt cùng với hiện tại chúng ta hoàn toàn không giống nhau. Điều này phải biết, phải hiểu được tinh thần sở tại của giới luật, phải học tập tinh thần của nó, trên mặt sự tướng phải dùng phương thức sinh hoạt hiện đại, không thể học phương thức sinh hoạt của cổ Ấn Độ ba ngàn năm trước, đó thì sai rồi! Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật xem thấy cũng phải cười trong ảo nảo, sao mà bạn có thể ngốc như thế chứ. Cho nên phật pháp tức là giới điều, mỗi điều đều là linh hoạt sống động, chứ không phải chết cứng. Tuy nhiên các giới căn bản thì siêu vượt thời-không, siêu vượt thời gian, siêu vượt không gian, tất cả thời, tất cả xứ, đều là chuẩn tắc, cái này thì không thể cải biến. Căn bản giới này là cái gì? Chính là ngũ giới. Chỉ có 5 điều: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. 5 điều này, xác thực là bất kể thời đại nào, bất kể là khu vực nào, đều hành được thông. Năm điều này siêu vượt thời không, nhất định phải tuân thủ nó. Giới điều của Phật có rất nhiều rất nhiều, nhất định phải xem xét nó có thích hợp với thời đại hiện tại của chúng ta hay không. Trong thời đại này của hiện tại chúng ta, phải nên tu sửa như thế nào; không đi ngược lại với tinh thần của chúng, nhưng trên sự tướng nhất định phải tu chính cho phù hợp. Lần đầu tiên tại Trung Quốc, công tác tu đính quy mô lớn nhất là vào đời Đường. Phật pháp dưới thời nhà Đường, có người nói rằng: Phật pháp nhà Đường đã khởi lên một cuộc vận động cách mạng, cũng có thể cách nói này, đó chính là chế độ tùng lâm của Trung Quốc đã được hưng khởi: “Mã tổ kiến tùng lâm, Bách Trượng lập thanh quy”, hai vị đại đức này đã đề xướng cộng tu, dựa vào chúng, tu với chúng. Hai người họ là sư huynh đệ, là ***** đời thứ tám của thiền tông, hai người họ đều là đời thứ tám, chiếu theo cách nói thông thường, là đồ tôn của Huệ Năng đại sư. Kiến tùng lâm, chính là đem giáo học, việc tu hành của Phật pháp chế độ hóa, chế độ hóa chính thức. Tùng lâm giống như trường đại học hiện đại, được tổ chức rất nghiêm mật. Chủ tịch của tùng lâm là phương trượng, cũng giống như hiệu trưởng của trường học hiện nay; hòa thượng thủ tọa của tòng lâm, tương đương với giáo vụ trưởng của trường học; hòa thượng duy na của tùng lâm tương đương với huấn đạo trưởng; giám viện của tùng lâm tương đương với tổng vụ trưởng. Tên gọi tuy không giống nhau, nhưng cùng với lãnh đạo chấp sự của trường học hiện tại, cách phân chia công việc của họ hoàn toàn tương đồng. Cho nên giáo vụ, huấn đạo, tổng vụ trong tùng lâm, đó chính là trường học. Trường học chính quy được lập ra để dạy học, để giúp đỡ cộng đồng mọi người làm được đến công phu cải ác tu thiện, đây gọi là tu hành. Tu hành, tóm lại mà nói cũng chính là sửa lỗi tu thiện mà thôi. Hiện tại có rất nhiều người hiểu lầm, cho rằng tu hành là phải an chay trường, nhất định mỗi ngày đều phải gõ mõ tụng kinh, đây là hoàn toàn nghĩ sai rồi, đây chỉ là hình thức. Hình thức có thể biến đổi, tinh thần, nguyên lí, nguyên tắc thì không thể thay đổi. Hiện tại có rất nhiều đồng tu đến gặp tôi, họ xây chùa miếu ở khắp các nơi. Tôi không tán thành. Tại sao? Chùa miếu là thời đại hai ngàn năm về trước, hoặc là trước thời Mãn Thanh vẫn có thể nói đến. Nhưng hiện tại là xã hội dân chủ tự do mở cửa, không thể bảo mọi người quay lại thời đại chuyên chế, cái sự việc này không có khả năng! Hiện tại đạo tràng nên kiến lập như thế nào? Phải xây dựng theo phương thức trường học. Phật giáo bổn nguyên vốn là giáo dục, vẫn phải quay lại việc dạy học, cho nên xây dựng trường học chứ không phải chùa miếu, như vậy mới tốt. Nếu như nói hoằng dương Phật pháp, hoằng dương phật pháp thì đạo tràng là tốt nhất, đạo tràng lí tưởng nhất đó là truyền hình, vệ tinh hiện đại, tòan thế giới đều có thể nghe được, bạn nói hiệu quả này lớn biết bao nhiêu! Dùng phương pháp này để hoằng pháp lợi sanh, đem giáo học của phật pháp truyền đến mỗi gia đình. Đem những lí luận và phương pháp học Phật, lợi dụng khoa học kĩ thuật, truyền đến mỗi một người muốn học Phật. Đây thì chính xác, không cần phải xây chùa miếu. Thời đại lập chùa miếu đã qua lâu rồi. Hôm nay chúng ta giảng đến đây. A MI ĐÀ PHẬT
  2. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Đã được thích:
    116
    Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 11)
    2013-06-19 14:46:34





    (PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 18/04/2001.






    Chư vị đồng tu, xin chào mọi ngừơi!



    Chúng ta tiếp tục xem đoạn văn phía dưới.



    [Dĩ thượng sự nhi kiêm hành hạ công, vị vi thất sách, chấp hạ nhi muội thượng, tắc chuyết hỹ.]



    Đây là thái độ học tập, cũng là vô cùng quan trọng. Người thượng căn tuy là từ trên tâm mà sửa, từ khởi tâm động niệm mà sửa, quyết không thể coi thường trên mặt sự tướng. Không thể nói: “tâm tôi rất thanh tịnh, nên giới điều không cần phải tuân thủ” đây là sai rồi. Sai ở chỗ nào? Cho dù bạn có công phu, thì công phu đó của bạn không chân thật? Tại sao? Bạn là người có công phu thật sự, nhất định sẽ có tâm từ bi; bạn có từ bi tâm, bạn nhất định sẽ làm một tấm gương tốt, làm một mô phạm tốt cho người khác. Đây là lợi người, cũng chính là tự lợi lợi tha. Cho nên điều này là đúng là chính xác, tức là người thượng căn thời thời khắc khắc luôn chiếu cố đến người hạ căn. Chúng ta đối với giới điều mà Đức Thế Tôn chế định ra, mỗi điều đều phải tuân thủ. Giới điều mở rộng ra chính là luật pháp của quốc gia, chúng ta nhất định phải tuân thủ; trì giới, nói rộng ra chính là tuân thủ pháp luật. Trong Giới kinh đại thừa, Phật nói được rất rõ ràng, rất minh bạch. Trong “Kinh Phạm Võng”, Phật nói với chúng ta, Bồ Tát nhất định phải tuân thủ “bất báng quốc chủ-không nói xấu lãnh đạo”, quốc chủ là người lãnh đạo quốc gia, quyết định là không được hủy báng; trong kinh “Anh Lạc Bồ Tát giới kinh” nói “bất lậu quốc thuế-không trốn thuế nhà nước”. Từ xưa đến nay, trong nước ngoài nước, nhân dân đối với quốc gia có nghĩa vụ nộp thuế, không thể trốn thuế, những điều giống như vậy đều thuộc về trì giới.



    Quy định, pháp lệnh và hiến chương của đất nước, đây là hữu hình; còn vô hình chính là quan niệm đạo đức, tập quán phong tục, đều phải tuân thủ. Trong xã hội hiện đại, do giao thông tiện lợi, thông tin phát triển, nên chúng ta thường có cơ hội ra nước ngoài du lịch. Đến quốc gia khác, pháp luật của họ cùng với Trung Quốc không giống nhau, phong tục tập quán cũng không giống Trung Quốc, nên nhập gia phải tùy tục. Đến quốc gia khác, nhất định phải tuân thủ pháp lệnh hiến chương của họ, tuân thủ phong tục tập quán của họ, đó đều là trì giới. Cho nên, giới luật bao hàm những vấn đề rộng lớn vô biên, chúng ta phải hiểu được.



    Nếu như “chấp hạ mà bỏ thượng”, chấp trước vào những quy tắc pháp lệnh, ý nói “chúng ta mỗi điều đều luôn tuân thủ nghiêm ngặt” nhưng không rõ lí, cũng là nói, chúng ta không hiểu được phải từ trên tâm mà sửa, phương pháp sửa này rất vụng về, không phải là cách của người thông minh. Tuy nhiên, đó cũng là một cách hay. Có thể tuân thủ được như thế, nhìn chung lỗi lầm sẽ ít hơn; tuy lỗi lầm không thể tránh miễn được, nhưng có thể giảm đi rất nhiều. Cho nên, ông nói với chúng ta sửa lỗi phải có ba tâm, cũng có ba bậc công phu không đồng, điều này nói được rất rõ ràng, rất minh bạch.



    Đoạn phía sau nói về hiệu nghiệm của việc sửa lỗi. Sau khi sửa lỗi cảnh giới trước mắt sẽ như thế nào; cũng chính là nói, chúng ta xem thấy hiệu quả như thế nào, thành tích ra sao. Mời xem đoạn văn này:



    [Cố phát nguyện cải quá, minh tu lương bằng đề tỉnh, u tu quỷ thần chứng minh, nhất tâm sám hối, trú dạ bất giải.]



    “Cố”, từ này dùng cách nói hiện nay mà nói, chính là ý nghĩa “tuy nhiên, nhưng mà”. Tuy rằng, tuy là đã phát nguyện sửa lỗi, nhưng cần phải có sự giúp đỡ. “Minh”, là minh hiển, rõ ràng. Cần có “lương bằng đề tỉnh”, tức là cần có bạn bè tốt chân thật, thời thời khắc khắc để nhắc nhở bạn. Tại sao? Phàm phu vọng tưởng nhiều, chớp mắt đã quên hết. Chư vị hãy thử nghĩ xem, nếu như có một người luôn ở trước mặt bạn, là bạn tốt của bạn, thường thường đề tỉnh cho bạn, bạn có cảm thấy anh ta ồn ào, phiền phức không? Chân thật là có, đích thực là bạn sẽ ngại anh ta ồn ào, ngại anh ta phiền toái. Cho nên, giáo học của nhà Phật, chúng ta không thể không bội phục Thích Ca Mâu Ni Phật thông minh trí huệ. Phật dùng phương pháp gì? Phương pháp này chính là trường học hiện tại gọi là “công cụ giáo học”, Phật dùng danh hiệu, dùng nghệ thuật này, thời thời khắc khắc đề tỉnh bạn.



    Danh hiệu, thí như “Thích Ca Mâu Ni Phật” cái danh hiệu này, đây không phải là tên của Phật. Tên gốc của ngài, trên kinh điển ghi lại gọi là “Tất Đạt Đa”. Nhưng ngài quen dùng cái danh hiệu này, cái danh hiệu này đề tỉnh chúng ta. Tuy nhiên những cổ nhân dịch kinh thời xưa, phiên chữ Thích Ca Mâu Ni Phật hoàn toàn dùng âm tiếng phạn, không dịch ra ý nghĩa của nó. Người hiện đại chúng ta nghe đến danh hiệu này thì mù mờ, không hiểu được ý nghĩa của nó. Cổ nhân hiểu được, thời xưa người giảng kinh nhiều, người dạy học nhiều. Vì thế thông thường tự viện đều là trường học, pháp sư xuất gia là thầy giáo, họ ngày ngày ở đây tự mình nghiên cứu, giảng dạy cho đại chúng, tự viện là trường học, cho nên mọi người (lúc đó) hiểu được.



    “Thích Ca”, ý nghĩa của nó là “nhân từ”. Chúng ta đối người tiếp vật thiếu mất nhân từ, thường thường nghĩ đến tự tư tự lợi, tổn người lợi mình, đều là khởi loại ý niệm này, làm những sự việc này, đây là sai rồi. Cho nên, Phật dùng danh hiệu “Thích Ca”, nghe đến danh xưng này, “chúng ta đối người phải nhân từ, phải có thể làm được xả kỉ vị nhân”. “Mâu Ni”, ý nghĩa của hai chữ này là thanh tịnh. Đối với bản thân phải thanh tịnh, đối với người khác phải nhân từ, dùng cái danh hiệu này thường thường đề tỉnh bản thân. Bản thân chúng ta niệm danh hiệu này để đề tỉnh bản thân, nghe người khác niệm danh hiệu này cũng là để nhắc nhở bản thân. Trong gia đình mình có một niệm Phật đường nhỏ, hoặc là có một phòng khách, trong phòng khách chúng ta cúng dường một tôn tượng Phật, viết danh hiệu Phật lên hai bên, giống như một cặp đối liên vậy. Cái này chính là “tràng phan” mà mọi người xem thấy trong các tự viện, phía trên tấm phan đều là danh hiệu của Phật, Bồ Tát. Dùng để làm gì? Để đề tỉnh bản thân. Trong nhà Phật dùng phương pháp này.



    Tượng Phật, tượng Bồ Tát, cũng là để nhắc nhở chúng ta, khiến chúng ta vừa nhìn thấy liền hiểu được ý nghĩa đại biểu cho chúng. Thích Ca Mâu Ni Phật đại biểu cho từ bi, thanh tịnh. Ở Trung Quốc thờ phụng Quán Thế Âm Bồ Tát rất nhiều rất nhiều, Quán Thế Âm Bồ Tát đại biểu cho từ bi, đại từ đại bi. “Đại từ đại bi” dùng từ hiện tại của chúng ta mà nói, là tâm yêu thương vô điều kiện, ái hộ nhất thiết chúng sanh. Chúng sanh có khổ nạn, vô điều kiện, tòan tâm toàn lực mà giúp đỡ họ, đây là Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhìn thấy tượng của Quán Thế Âm Bồ Tát, liền nghĩ đến: “mình đối với tất cả chúng sanh phải từ bi, từ bi vô điều kiện, thì cũng giống như Quán Thế Âm Bồ Tát không khác, giúp đỡ tất cả chúng sanh”. Thì Quán Thế Âm Bồ Tát chính là ta. Đề tỉnh ta, dùng cái danh hiệu này để đề tỉnh ta, ta phải bắt chước Quán Thế Âm Bồ Tát, chúng ta phải học tập Quán Thế Âm Bồ Tát, là ý nghĩa này. Cho nên cúng dường tượng Phật công đức rất lớn. Lớn tại chỗ nào? Thường thường đề tỉnh bạn.



    Thờ cúng Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát là đại biểu cho hiếu, hiếu thân. Địa là đại địa, Tạng là bảo tàng. Con người chúng ta sống trên quả địa cầu này, không thể li khai khỏi đại địa; y phục, ẩm thực, chỗ cư trụ của chúng ta đều dựa vào sự cúng dường của đại địa, Trên đất, bất kể là sống tại đâu, năm loại lương thực mà cuộc sống thường nhật của chúng ta cần, đều là bảo tàng của đất sanh ra. Dưới đất, tài nguyên vô cùng phong phú, vàng bạc châu báu để cúng dường cho nhu cầu sống của chúng ta. Phật dùng từ “Địa”, đại biểu cho tâm địa của chúng ta; Tạng, trong chân tâm, tâm địa của chúng ta có vô lượng trí huệ, có năng lực vô lượng, đức chính là năng lực, có vô lượng tướng hảo, chúng ta cần phải khai thác. Dùng phương pháp gì để khai thác? Dùng “hiếu thân tôn sư”, chính là hiếu đạo cùng sư đạo. “Địa tạng bổn nguyện kinh” chính là nói về hiếu đạo và sư đạo, dùng cách này để khai thác. Cho nên chúng ta nhìn thấy tượng của Địa Tạng Bồ Tát, nghe được danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát, chúng ta liền hiểu được “hiếu thân tôn sư”, chúng thời thời khắc khắc đề tỉnh chúng ta. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đề tỉnh cho chúng ta trí huệ, phải cầu trí huệ. Phổ Hiền Bồ Tát đề tỉnh chúng ta, phải chân thật áp dụng vào trong đời sống sinh hoạt; giống như nhân từ, thanh tịnh của Phật Thích Ca, từ bi của Quan Âm, hiếu kính của Địa Tạng, trí huệ của Văn Thù, mỗi mỗi đều phải chân thật áp dụng trong cuộc sống thường nhật của chúng ta, áp dụng trong công việc, áp dụng trong xử sự, đối người, tiếp vật, đó gọi là “Phổ Hiền”. Giáo học trong nhà Phật, bạn nói có kì diệu hay không! Cho nên, hình tượng của tất cả Phật, Bồ Tát trong Phật giáo; tất cả các hình tượng thần minh này, mỗi mỗi đều là giáo học, đều là biểu pháp, tuyệt đối không phải là mê tín, tuyệt đối không được đem họ làm thần minh để cúng bái, đó là bạn sai lầm lớn rồi. Dùng phương pháp này để đề tỉnh chúng ta! Nếu như có một người bên cạnh ngày ngày đề tỉnh chúng ta, chúng ta có thể sẽ thấy họ phiền phức, sẽ chán ghét họ, thậm chí có thể oán hận họ. Nhưng nếu dùng những vật phẩm nghệ thuật để ở bên cạnh bạn, có thể khiến bạn vui vẻ, lại có thể nhắc nhở bạn, bạn nói xem tốt biết bao nhiêu!



    Lần trước, tôi đi thăm đài truyền hình Phụng Hoàng, gặp được Thường tiên sinh, trong phòng của ông bài trí rất nhiều tượng của Di Lặc Bồ Tát. Tôi xem thấy, ông ấy có điểm giống Di Lặc Bồ Tát, bụng to, người mập mạp. Di Lặc Bồ Tát đại biểu cho “hoan hỉ tâm”, nhà Phật thường nói: “bình đẳng, từ bi” sanh bình đẳng tâm, thành hỉ duyệt tướng. Chúng ta xử sự đối người tiếp vật, tâm phải bình đẳng, vẻ mặt phải đoan trang, phải hoan hỉ. Điều này dạy cho ta làm thế nào để cư xử với mọi người, hòan toàn là biểu pháp. Pháp danh của người xuất gia chúng ta cũng không ngoại lệ. Tôi xuất gia, sư phụ đặt cho tôi một cái tên gọi là “Tịnh Không”, tôi rất hoan hỷ. Người khác một khi nói đến cái tên này, tôi liền nghĩ: “Tôi có thanh tịnh hay không, tôi có buông xả không?” Buông xả thì là Không rồi. Nói ra danh hiệu này, tôi liền nghĩ: “Tôi đã làm được chưa, phẩm cách có được như tên gọi hay không?” Nếu như tên gọi cùng phẩm chất chân thật không tương xứng, chúng ta phải sanh tâm hổ thẹn, chúng ta có lỗi với tên gọi đó. Cho nên, danh hiệu của Phật vô lượng vô biên, đại biểu cho tu đức của chúng ta. Tánh đức, chúng ta là phàm phu, chúng ta bị mê hoặc mất tự tánh, cho nên tánh đức không hiển lộ được, cần phải dựa vào tu đức. Tu đức có công phu, thì tánh đức liền hiện tiền, là ý nghĩa như vậy.



    Phật giáo không chỉ là danh tự, tạo tượng nghệ thuật cũng là một cách biểu pháp, cho nên tất cả cách thức, không cách nào không phải là biểu pháp, ngay cả kiến trúc cũng không ngoại lệ. Các bạn nếu như chú ý sẽ thấy, khi các bạn vào trong các chùa miếu nhà Phật, bạn xem thấy chánh điện thờ Thích Ca Mâu Ni Phật được gọi là “Đại hùng bảo điện”, bạn xem kiến trúc của nó, bên ngoài xem thấy có hai tầng, bên trong là một tầng, đều là để đề tỉnh chúng ta. Bên ngoài hai tầng dạy chúng ta phải biết tùy tục, “Phật pháp tại thế gian, bất hoại thế gian pháp”. Bên trong thì cần phải bình đẳng, nên bên trong không thể có hai kiểu; bên ngoài có thể không bình đẳng, bên trong quyết định phải bình đẳng. Bên ngoài bình đẳng, thì trật tự xã hội sẽ bị phá hoại. Bên ngoài nhất định có tôn ti, có cha con, có huynh đệ, có già trẻ; đó là có trật tự; không thể đem trật tự này phá hoại được. Hai tầng bên ngoài biểu thị cho trật tự xã hội, quyết định phải tuân thủ, bên trong quyết định phải bình đẳng. Ý nghĩa vô cùng hay!



    Đồ vật cúng đều là biểu pháp. Chúng ta trước Phật thắp hương, hương là đại biểu cho cái gì? trong bài tán hương “Giới định chân hương”, Chân hương không phải chỉ cho hương mà bạn thắp, nhìn thấy hương đó liền phải biết: “Ta phải tu giới, phải tu định, phải tu huệ”. Giới định huệ là hương trong chân tâm tự tánh của ta; dạy bạn khi nghe đến hương, nhìn thấy hương, thì phải nghĩ đến “ta phải tu giới định huệ, ta phải đoạn tham sân si”, không có điều gì không phải là đề tỉnh chúng ta. Đồ cúng dường cho Phật, quan trọng nhất và đơn giản nhất là cúng dường một li nước. Những thứ khác như hoa hương, thứ gì cũng không có, hương không thắp cũng không sao, nhưng nước thì nhất định phải cúng một li. Nước đại biểu cho cái gì? Nước đại biểu cho tâm. Nhìn đến li nước, “tâm của ta có thanh tịnh như nước, một trần không nhiễm hay không?” Cho nên nước đại biểu cho thanh tịnh, bình đẳng, phải nắm được ý nghĩa này. Li nước đó không phải cúng dường cho Phật uống, mà là để cho mọi người chúng ta xem, nhìn đến li nước này, tâm của ta phải thanh tịnh, phải bình đẳng, dùng cái phương pháp này để đề tỉnh chúng ta. Không cái gì không phải là đau họng nhọc lòng nghĩ ra phương cách để dạy chúng ta, chúng ta mới thể hội được Phật đối với chúng ta, ân đức lớn lao như vậy, sắp đặt chu đáo như vậy, không thể không bội phục đến 5 vóc sát đất. Nào có phải mê tín chứ? Chư vị phải ghi nhớ, nước dùng để cúng Phật không thể dùng nước trà, trà có màu sắc, như vậy thì không thanh tịnh, biểu thị trong tâm có ô nhiễm, cho nên phải cúng nước trong. Nước trong này là dùng nước tự nhiên hoặc là nước sôi, cái đó không quan trọng, chỉ cần nước đó thanh sạch, không có thứ gì không tinh sạch bên trong, như vậy là được rồi, bạn phải hiểu được ý nghĩa biểu pháp của nó; cũng chính là “minh tu lương bằng đề tỉnh- cần có bạn tốt nhắc nhở”. Thời thời khắc khắc phải đề tỉnh chúng ta, chỉ cần một khắc không đề tỉnh, chúng ta liền sẽ bị mê mất, liền làm ra việc sai trái, liền hồ đồ mất. Cho nên cách thực thi trong giáo học nhà Phật, chân thật là rất hay. Chúng ta đến nửa sau thế kỉ 20, tức sau đại chiến thứ hai, chúng ta mới thường thường nghe đến nghệ thuật, thậm chí đấu tranh cho nghệ thuật, có khẩu hiệu “nghệ thuật hóa”. Chúng ta nghĩ đến, Phật mấy ngàn năm trước dạy học, đều thâm nhập đến nghệ thuật, dùng phương pháp nghệ thuật để dạy học.



    [U tu quỷ thần chứng minh], “quỷ thần chứng minh” là cảm ứng. Sự việc cảm ứng thì quá nhiều quá nhiều, tôi trong đời này đã đích thân thể nghiệm qua, các bạn đồng tu cũng đem cảm ứng của họ nói với chúng tôi, việc này rất phong phú. Tu học Phật pháp chính là học làm người tốt, học làm một người minh bạch, vẫn là phải có thiện căn, phước đức, nhân duyên. Bạn nếu như không có đủ ba điều kiện trên, bạn trong đời này không có duyên gặp được, còn gọi là không có cơ hội gặp được; bạn có cơ hội gặp được, chứng minh bạn trong đời quá khứ có thiện căn, có phước đức, có nhân duyên.



    Trước đây, khi tôi ở tại Mỹ quốc, hội Phật giáo đó của chúng tôi tại Dallas có một vị hội trưởng là cư sĩ Thái Văn Hùng, ông ấy nói với tôi nhân duyên ông ấy học Phật. Họ lớn lên ở nước ngoài, là Hoa kiều, đối với Phật pháp không tin tưởng. Năm phụ thân ông qua đời, ông về Đài Loan lo tang lễ cho cha ông, tiễn đưa cha ông. Lúc cha ông lâm chung, ông nằm trên giường, ông nhìn thấy một tượng Phật, tượng Phật này ở bên trong một cửa sổ, cái cửa sổ đó giống như một cái bàn thờ, tượng Phật ở trong đó. Ông nói ông chí ít cũng xem thấy hết 15 phút đồng hồ, thời gian dài như vậy, quyết định không thể là nhìn nhầm được. Điều đó cho ông ấn tượng sâu sắc, ông cảm thấy vô cùng kinh ngạc! Ông hỏi người khác, người khác xem không thấy gì cả. Tín tâm học Phật của ông ấy, là bắt đầu từ đây, đây là Phật đến độ ông. Về sau, ông làm ăn buôn bán, khi kiếm được tiền ông đến cửa hàng đồ cổ, ông rất thích mua đồ cổ. Trong cửa hàng đồ cổ, ông nhìn thấy một tôn tượng Phật, được điêu khắc bằng đá, tôn tượng Phật này giống như ông nhìn thấy, chính là cái tượng Phật trên cửa sổ vào ngày thân phụ ông ra đi, ông lập tức mua về. Đó là ông mua tại Trung Quốc, sau khi mua, ông mang đến Mỹ quốc. Đầu tiên là ông thờ cúng tại nhà, về sau mới đem cái sự việc này nói với tôi, tôi liền đi xem. Tôi xem xong cũng rất hoan hỷ, tôi khuyên ông đem tượng này đến thờ cúng tại đạo tràng, bởi vì ông là hội trưởng của đạo tràng, hội Phật giáo Dallas, hiện tại tôn tượng này vẫn được thờ cúng tại đạo tràng đó. Đây là ông ta nói ra nhân duyên học Phật của ông.



    Ông lại còn kể cho tôi một sự việc rất không thể nghĩ bàn. Ông nói, có một lần ông cùng với một vài người bạn đến Cựu Kim Sơn (San Francisco); ông ấy tại bên ngoài Cựu Kim Sơn (San Francisco ) có một thị trấn nhỏ, quay về, về đến Cựu Kim Sơn (San Francisco). Lúc lái xe, ông đi nhầm đường, khi xe chạy đến một tiểu trấn nhỏ, xác thực là cái tiểu trấn này ông chưa bao giờ đi qua. Khi xe gần đến tiểu trấn, ông đột nhiên cảm thấy cái tiểu trấn này rất quen thuộc, là ông đã từng ở đây, ông có thể nhớ lại ngay tức khắc, trạng huống đường sá ở đây, kiến trúc ở đây, nói cho những người đi cùng xe nghe. Sau đó xe của họ đi tới, cùng với những gì ông nói hòan toàn giống nhau. Ông vô cùng kinh ngạc, cái sự việc này, nhiều năm trôi qua, ông vẫn không tìm ra đáp án. Khi gặp tôi, ông hỏi tôi: “Thưa pháp sư, đây rốt cuộc là nhân duyên gì vậy?” Tôi nói: “Từ chỗ này xem thấy, đại khái đời trước ông ở tại thành phố này. Đời trước ông ở tại cái thành phố này, hơn nữa thời gian ở đó cũng tương đối lâu, nếu không, ông không thể nào biết được trạng huống của cái thị trấn này.” Ông suy nghĩ một lát, cảm thấy có đạo lí.



    Rất có khả năng đời trước ông ấy làm thợ mỏ ở tại Cựu Kim Sơn (San Francisco), đại khái là người Trung Quốc làm thợ mỏ, sẽ sinh sống tại nơi này, chết cũng ở tại nơi này. Vẫn là suy đoán không sai, không làm điều gì xấu, đời này lại được thân người, làm ăn cũng rất tốt, lại được học Phật. Chứng thực là nghiệp nhân đời trước.



    Sự việc tương tự như vậy, tôi gặp được rất nhiều rất nhiều, bản thân tôi cũng có một vài lần. Đến một khu vực ở nước ngoài, từ trước đến nay chưa hề đến, vừa mới tới đột nhiên cảm thấy nơi đây rất quen thuộc, hòan cảnh nơi đây không xa lạ gì. Nếu như không có đời trước, những điều này cái gì cũng giảng không thông. Bạn cho đó là linh cảm bất chợt, vậy tại sao linh cảm này không có với những nơi khác, nhất định là tại nơi này. Do đây có thể biết, người nhất định có đời quá khứ; đã có đời quá khứ thì khẳng định có đời vị lai, nhân quả thông ba đời. Cho nên, đây là cần quỷ thần đến giúp chúng ta.



    [Nhất tâm sám hối, trú dạ bất giải]. Đây là công phu. Sám hối là sửa sai. Chúng ta niệm niệm đều có lỗi lầm, một niệm bất giác liền mê, mê thì sai sót. Cho nên, nhất định phải thời thời khắc khắc đề tỉnh, ngày đêm không thể gián đoạn. Cho nên có người hỏi tôi: “Chúng tôi ở tại gia, trong phòng ngủ có thể cúng dường tượng Phật hay không?” Có một số pháp sư nói là: “Trong phòng ngủ mà thờ tượng Phật, đó là đại bất kính!” Câu nói này chỉ đúng một nữa, không phải là hòan toàn đúng. Làm sao lại đúng một nữa? Bạn không phải người tu hành, bạn không chịu chân thật sửa đổi làm mới, bạn đem tượng Phật thờ trong phòng ngủ, đây là bất kính, đây là có tội. Nếu như bạn là người chân chánh tu hành, sáng tối không gián đoạn muốn có người đề tỉnh mình, nếu trong phòng ngủ không có tượng Phật, thì bạn sẽ quên mất, sẽ mê mất đi. Vậy ta có thể thờ hay không? Nên thờ. Cho nên đối với người chân thật tu hành mà nói, kính hay không kính là chuyện nhỏ, mà thường đề tỉnh bản thân giác ngộ mới là chuyện lớn. Ta chân chánh giác ngộ, đó chính là cung kính; ta mê hoặc, đó chính là đại bất kính. Cái sự việc này, tóm lại cần phải thông tình đạt lí. Nếu như chỉ chấp trước trên giáo điều, sẽ giảng không được thông, đối với người chân thật hạ quyết tâm sửa đổi làm mới, cần phải bắt chước cách làm của Phật Bồ Tát, cần phải học tập Phật Bồ Tát, bất cứ chỗ nào cũng có thể thờ Phật. Người đồng với tâm ấy, tâm cùng với đạo lí ấy, tóm lại đều phải biết. Vấn đề là chúng ta có thật sự làm hay không? Có thật sự học hay không? Phía sau, đây là đưa ra một thời gian ước định để làm chứng.



    [Kinh nhất thất nhị thất, dĩ chí nhất nguyệt nhị nguyệt tam nguyệt]



    Qua một thất, tức bảy ngày, trải qua bảy ngày; hoặc là hai thất, mười bốn ngày, cho đến một tháng, hai tháng, ba tháng.



    [Tất hữu hiệu nghiệm].



    Nếu như chân thật có thể kiên trì, thì sẽ có cảm ứng. Cảm ứng những gì? Phía dưới ông có liệt kê ra một vài ví dụ nới với chúng ta. Nghiệp chướng của chúng ta tiêu trừ, tội lỗi của chúng ta tiêu trừ, thì sẽ có dự báo, là dự báo tốt. Dưới đây cử ra vài ví dụ:



    [Hoặc giác tâm thần điềm khóang]



    Trước đây, trong tâm luôn không vui, luôn là chán nản buồn bực, hiện tại trong lòng khoan khoái, luôn luôn vui vẻ, không giống trước kia. Đây là cảm tứng, đây là hiệu quả.



    [Hoặc giác trí huệ thuần khai]



    Trước đây xử sự đối người tiếp vật đều là cảm thấy bản thân rất hồ đồ, lẫn lộn, không có trí huệ. Hiện tại trải qua một thời gian đoạn ác tu thiện, sau một thời gian tu trì, cảm thấy bản thân hiện tại có trí huệ, xử sự đối người tiếp vật không còn sai quấy nữa, có trí tuệ, rất rõ ràng, rất minh bạch, đây đều là hiệu quả.



    [Hoặc xử nhũng đạp nhi xúc niệm giai thông]



    “Nhũng đạp” là công việc bận rộn. Lúc trước công việc bận rộn, bản thân cảm thấy rất chán nản, rất mệt mỏi, không vực dậy được tinh thần, nơi nơi đều có chướng ngại. Hiện tại, sau khi đã trải qua tu trì như vậy, sau khi đoạn ác sửa lỗi, bây giờ xử lí những việc phức tạp cùng với trước không giống nhau, cảm thấy mọi thứ đều rất thuận lợi; sự việc có phiền phức hơn, công việc có bận rộn hơn, đều cảm thấy có đầu mối, có hướng giải quyết, nhẹ nhàng và dễ dàng hơn, không cảm thấy phức tạp nữa, cũng không cảm thấy mỏi mệt, chán nản nữa.



    [Hoặc ngộ oán cừu nhi hồi sân tác hỉ]



    Công phu này thật không dễ dàng. Oan gia đối đầu, nếu là lúc trước nhìn thấy người đó thì sẽ chán ghét, óan hận, tóm lại có thể mắng ông ta vài câu. Hiện tại nhìn thấy những oan gia đó, không chỉ không mắng chửi mà còn rất hoan hỷ, vẫn hành lễ với người đó, dùng thiện tâm, dùng lễ tiết để đối đãi. Đây đều là dự báo tốt lành, đây là từ trên người trên sự mà nói.



    Phía sau, đây là nói cảnh giới trong mộng của bạn, cùng với trước đây không giống nhau. Trước kia không có tu hành nên thường hay gặp ác mộng, điều này bản thân tôi có kinh nghiệm. Tôi trước khi học Phật gặp ác mộng rất nhiều, thường thường giật mình tỉnh lại trong mộng. Sau khi học Phật, trong mười năm đầu vẫn còn gặp ác mộng, sau mười năm thì ác mộng không còn nữa. Đây đều là dự báo tốt, đều là cảm ứng tốt.



    [Hoặc mộng thổ hắc vật]



    Trong mộng thổ ra thứ có màu đen. “Hắc” là đồ dơ, đây là ví dụ.



    [Hoặc mộng vãng thánh tiên hiền]



    Tôi là bởi vì thường thường giảng kinh, cho nên mộng thấy không ít lần Phật Bồ Tát giảng kinh, tôi tham dự trong pháp hội giảng kinh đó.



    [Đề huề tiếp dẫn]



    Phật Bồ Tát trong mộng thuyết pháp cho bạn, giúp đỡ bạn, dạy dỗ bạn, đây đều là một loại. Phía sau lại cử ra một loại:



    [Hoặc mộng phi bộ thái hư]



    Đây là giấc mộng tốt, khi nằm mộng thấy bay lên, bay lên trên hư không, đạp gió cưỡi mây.



    [Hoặc mộng tràng phan bảo cái]



    Nằm mộng đến thiên cung, đến cõi Phật, đây đều là sự việc vô cùng tốt đẹp.



    [Chủng chủng thắng sự]



    Sự việc thù thắng. Đây đều là dự báo:



    [Giai quá tiêu tội diệt chi tượng dã]



    Chỉ có những hiện tượng này. Tội nghiệp của chúng ta, từ trước đến nay không phải hoàn tòan đã tiêu trừ, mà chỉ tiêu trừ một phần, thì những hiện tượng này hiện tiền. Những hiện tượng tốt hiện tiền, ngàn vạn lần nên ghi nhớ.



    [Nhiên bất đắc chấp thử tự cao, họa nhi bất tiến].



    Đáng sợ nhất là cái này. Cho nên, dù cho rất nhiều tướng tốt hiện tiền, đối với người chân chánh dụng công, thì thấy mà như không thấy, bất tất phải nói với người khác, không nên khoe khoang thành tích của mình, đây thì hoàn toàn sai rồi.



    Phải ghi nhớ lời Phật dạy trên kinh, “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, không để trong tâm, bản thân vẫn một lòng sám hối như cũ, vẫn như trước ngày đêm không gián đoạn, công phu của chúng ta mới có thể tiến bộ. Nếu như có những cảnh giới đó hiện tiền, bản thân tự cho là mình giỏi, bản thân tự cho mình cao hơn người khác, tâm cống cao ngã mạn sanh khởi lên, mà không thể đề tỉnh, bạn ngay lập tức bị đọa lạc, đây là sai lầm, đây là sai lầm vô cùng nghiêm trọng.



    [Hoạch nhi bất tiến], hoạch là ngừng lại, tại đây, hoạch là nói không thể tiến hơn được nữa, điều này thật đáng tiếc. Cho nên, những cảnh giới thù thắng hiện ra trước mắt, cũng coi như không có gì. Về sau dù cảm thấy bản thân trí huệ khai mở, cũng vẫn coi như chưa khai mở, đây là tốt, chúng ta mới có thể có tiến bộ.



    Liễu Phàm tiên sinh nói một đoạn dài như vậy, phía sau mới cử ra ví dụ, đưa ra các ví dụ về việc sửa lỗi của người xưa, để khuyên dạy con ông.



    [Tích Cừ Bá Ngọc đương nhị thập tuế thời, dĩ giác tiền nhật chi phi nhi tận cải chi hĩ.]



    Cừ Bá Ngọc là quan đại phu của nước Vệ thời đại Xuân Thu, ông sửa sai làm mới rất có hiệu quả, trên lịch sử lưu lại tấm gương cho hậu thế. Đây là người mà cũng là thánh hiền nhân, 20 tuổi, khi còn rất trẻ, ông đã biết tầm quan trọng của việc cải lỗi làm mới, đoạn ác tu thiện, nên đã chân thành, nỗ lực làm.



    [Chí nhị thập nhất tuế, nãi tri tiền chi sở cải vị tận dã]



    Tuy rằng ông ngày ngày sửa sai, chân thành nỗ lực mà sửa đổi, sửa được một năm, cảm thấy lỗi lầm trong năm này của mình vẫn chưa sửa được triệt để, chưa được rốt ráo.



    [Cập nhị thập nhị tuế, hồi thị nhị thập nhất tuế, do tại mộng trung]. Năm này kiểm điểm lại năm trước.



    [Tuế phục nhất tuế, đệ đệ cải chi, hánh niên ngũ thập, nhi do tri tứ thập cửu chi phi.]



    Đến năm bản thân ông 50 tuổi, quay đầu phản tỉnh tỉ mỉ lại những việc năm ngoái, tức năm ông 49 tuổi ông đã làm, thấy vẫn còn làm sai.



    [Cổ nhân cải quá chi học như thử]



    Xứng đáng cho chúng ta noi theo. Lỗi lầm lớn nhất của một người là cái gì? Không biết được lỗi lầm của bản thân, đây là sai lầm lớn nhất. Bởi vì bạn không biết mình sai, bạn sẽ không có tâm muốn sửa sai. Không có ý niệm sửa sai, lỗi lầm chồng chất, do lổi nhỏ tích thành lỗi lớn, lỗi lớn tích thành cực đại, không còn giới hạn nữa, quả báo sau này thật không thể tưởng tượng nổi. Phàm phu nặng nề như thế, làm sao sau khi chết không đọa vào ba ác đạo chứ? Nguyên nhân là tại chỗ này, phía trước Liễu Phàm tiên sinh có nói “minh tu lương bằng đề tỉnh-cần có bạn tốt thường cảnh tỉnh ta”, vấn đề này rất quan trọng.



    Bạn đi đâu để tìm ra một người bạn tốt như thế chịu thường thường nhắc nhở bạn? Nói lời thật, cha mẹ đều làm không được. Cha mẹ quả thật là ngày ngày đều nhắc nhở bạn, bạn nhất định sẽ oán giận cha mẹ, sẽ thấy cha mẹ ồn ào; sẽ thấy cha mẹ quá phiền phức.



    Cho nên, phương pháp mà Phật Bồ Tát nghĩ ra quá hay, vi diệu cùng cực! Dùng rất nhiều cách biểu pháp để đề tỉnh bạn. Ý nghĩa của biểu pháp cần phải hiểu. Thí như phía trước chúng ta nói “cúng nước”, phía trước Phật cúng một li nước, bạn vừa nhìn thấy liền hiểu rằng: “Tâm ta phải thanh tịnh giống như li nước này, phải bỉnh đẳng như nước, vĩnh viễn phải bảo trì được tâm thanh tịnh, bình đẳng”. Nếu rời khỏi Phật đường lại quên mất thì sao? Ai sẽ đề tỉnh bạn? Bạn phải biết, chỉ cần thấy nước, bạn liền nghĩ đến. Chúng ta bình thường uống nước, tại đây rót ra một li nước, lập tức liền đề tỉnh bản thân. Khi ra bên ngoài làm khách, người khác chiêu đãi, đơn giản nhất cũng là một li nước trà; nhìn thấy nước, liền phải nghĩ đến: “Tâm chúng ta phải thanh tịnh, phải bình đẳng”. Nếu như bạn nghĩ rằng: “chỉ có li nước ở niệm Phật đường đó mới là biểu pháp, còn cái khác thì không phải”, vậy thì bạn cái gì cũng không thể học được, bạn là quá hồ đồ rồi, bạn phân biệt chấp trước quá mức.



    Thí như thắp hương, bạn thắp cây hương này là đại biểu cho giới định huệ. Chúng ta ở bất cứ đạo tràng nào nghe thấy mùi hương thì đều nghĩ đến giới định huệ.



    Hương đề tỉnh cho tỷ căn, bất kể mùi gì đều dùng một từ “hương” để đại biểu; chỉ cần có mùi hương, nghe đến mùi hương, thì đều nghĩ đến giới định huệ. Sau này bạn mới minh bạch, hư không pháp giới nơi nào lại không phải là nơi Phật Bồ Tát học chứ? Nơi nào không phải là đạo tràng cho chúng ta dụng công? tất cả thời, tất cả xứ, vốn dĩ đều là đạo tràng. Đạo tràng không phải chỉ ở trong am đường chùa miếu, xứ xứ đều là đạo tràng!



    Chúng ta tại trước Phật cúng dường hoa, cúng dường quả. Hoa là đại biểu cho nhân, hoa nở được tốt thì nhân tốt; nhân tốt, quả nhất định tốt. Quả là đại biểu cho quả, hoa đại biểu cho nhân. Thiện nhân thì đắc thiện quả; ác nhân thì gặp ác báo, chúng là biểu thị cho ý nghĩa này.



    Cúng hoa quả cho Phật, chúng ta phải hiều được ý nghĩa này; bất cứ khi nào nhìn thấy hoa, đều phải hiểu được chúng ta phải tu nhân tốt. Bất luận là lúc nào, cho đến xem thấy người khác mặc y phục, trên y phục có thêu hoa, nhìn thấy bông hoa đó, chúng ta biết phải tu nhân tốt. Bất kể tại nơi nào nhìn thấy hoa quả, trái cây, chúng ta đều hi vọng có quả báo tốt, quả báo tốt thì nhất định phải tu nhân tốt. Đây không phải là giáo học trong nhà Phật hay sao? không phải là giáo học của Như Lai hay sao? Tận hư không biến pháp giới, mắt bạn nhìn thấy, tai bạn nghe thấy, mũi bạn ngửi thấy, lưỡi bạn nếm được, thân thể bạn xúc chạm đến, có pháp nào không phải là phật pháp chứ? Vốn dĩ, nơi nơi đều là phật pháp. Cho nên, nhà phật thường nói “phật pháp vô biên”! Ý nghĩa của câu nói này bạn có hiểu không? Cho nên bạn phải thể hội học tập! Bạn nếu như có thể thể hội được, tất cả thời, tất cả xứ, bạn quyết định không mê. Tại sao? Chúng đều là biểu pháp, đều giúp đề tỉnh bạn, bạn làm sao có thể mê được? Người không thể hội được mới mê, người chấp trước mới mê. Chấp trước nhất định phải là cúng ở phật đường mới là biểu pháp, bên ngoài phật đường thì không phải, vậy thì không hiểu được cái gì gọi là biểu pháp. Học như vậy, học đến hồ đồ, đần độn mất rồi.



    Khổng lão phu tử nói: “cử nhất ngung, bất dĩ tam ngung phản-dạy một điều mà không tự hiểu ra ba điều khác”, thì Phu tử không dạy nữa, quá ngốc rồi; cũng như nói với chúng ta, chỉ có thể hiểu một cách, mà không hiểu được những trường hợp tương tự. Phật pháp dạy bạn một điều, bạn hiểu được, thì tất cả mọi điều bạn phải đều hiểu được, mọi thứ đều thông đạt, đây mới là phật pháp. Cho nên phật pháp dạy học, đạt đến cảnh giới nghệ thuật cao nhất.



    Trên công phu mà nói, Cừ Bá Ngọc là một tấm gương tốt nhất, chúng ta phải hướng đến ông ta mà học tập. Điều này quyết định không thể lơ là khinh suất! Liễu Phàm đến cuối đời mà vẫn học, học Cừ Bá Ngọc. Đây là công phu có nền tảng căn bản, mới biết được tính chất quan trọng của dũng mãnh tinh tấn, mới tăng cường đem cảnh giới của bản thân không ngừng nâng cao lên, hiệu quả ngày càng rõ rệt, đời sống thường ngày càng ngày càng khoái lạc, sự nghiệp ngày càng thuận lợi, xác thực là tiêu tai phước đến, một điểm cũng không giả.



    Chúng ta hôm nay chỉ giảng đến đây thôi.
  3. nguyend_uyanh

    nguyend_uyanh Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    22/09/2006
    Đã được thích:
    116
    Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 12)
    2013-06-21 14:10:19


    (PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 18/04/2001.




    Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!



    Mời xem tiếp đoạn văn phía sau:



    [Ngô bối thân vi phàm lưu, quá ác vị tập, nhi hồi tư vãng sự, thường nhược bất kiến kì hữu quá giả, tâm thô nhi nhãn ế dã.] (Chúng ta đều là phàm phu, lỗi lầm đầy mình. Nếu nhìn lại quá khứ mà không thấy lỗi lầm, người đó tâm nhãn thô trệ.)



    Đoạn văn đến chỗ này, sau khi cử ra tỉ dụ, đây mới là chánh thuyết. Chúng ta thân là phàm phu, sai lầm, ác nghiệp đã quá nhiều qúa nhiều rồi. “Vị tập” là tỉ dụ, giống như con nhím, gai của chúng mọc khắp thân nó.



    [Nhi hồi tư vãng sự], chúng ta suy nghĩ về quá khứ, thường thường cảm thấy “bản thân mình hình như không có lỗi lầm gì cả”, không thấy được bản thân mình có lỗi. Cho nên, con người chúng ta thường nói “tôi không có lỗi lầm gì lớn cả, hoặc tôi không làm gì sai”, điều này bản thân chúng ta đều có, chúng ta cũng thường hay có cảm giác này. Đây là nguyên nhân gì vậy? Vì tâm chúng ta quá thô. Tâm nhãn chúng ta quá tối tăm, quá u mê; nên không nhìn thấy được lỗi lầm của mình. Cho nên, Cừ Bá Ngọc thực sự là một tấm gương rất tốt cho chúng ta học tập. Phía sau, đoạn văn cho chúng ta biết, ác nghiệp cũng có dự báo:



    [Nhiên nhân chi quá ác trọng giả] (Người có tội ác thâm trọng)



    Trong Phật pháp nói ác nghiệp thâm trọng, người đó nhất định sẽ có dự báo không tốt.



    [Diệc hữu hiệu nghiệm, hoặc tâm thần hôn tắc, chuyển đầu tức vong]. (Cũng có những triệu chứng như tâm thần bị hỗn loạn bế tắt, hay lãng trí trầm trọng.)



    Chúng ta hãy để tâm quan sát những người xung quanh chúng ta, có lúc chúng ta có thể phát hiện được. Người này không có trí nhớ, hồ đồ, đần độn, nói với anh ta chuyện gì, anh ta rất nhanh đã quên mất.



    [Hoặc vô sự nhi thường phiền não] (Hoặc tự nhiên cảm thấy bực bội không lý do).



    Những sự việc này, bản thân chúng ta hãy suy nghĩ thử xem, chúng ta có hay không? Khi không có vấn đề gì, không có ai trêu chọc, cũng tự sinh phiền não, chỉ cần tĩnh lặng quan sát liền có thể phát hiện được.



    [Hoặc kiến quân tử nhi noản nhiên tiêu tự]



    Đây chính là nói rất sợ phải gặp người chính nhân quân tử. Nhìn thấy người chính nhân quân tử, bản thân giống như rất xấu hổ. Những hiện tượng này, thực tại mà nói họ vẫn còn có thể cứu được. Tại sao? Bởi vì anh ta vẫn còn có tâm hổ thẹn.



    [Hoặc văn chính luận nhi bất lạc].



    Khi nghe người khác nói những lời chính nghĩa thì không hoan hỷ. Tại sao? Bản thân làm những việc ác nặng nề đã nuôi dưỡng thành ác tập khí. Nghe bàn luận đến điều chính nghĩa cùng với những việc làm của bản thân hòan toàn tương phản, cho nên rất không hoan hỷ tiếp nhận.



    [Hoặc thí ân nhi nhân phản oán].



    Chúng ta bố thí, dùng lễ vật cúng dường người, nhưng người lại lấy oán đáp lại. Dưới tình huống anh ta không thể không tiếp nhận, thí như nói khi anh ta chịu rét, chịu đói, chịu cơ hàn bó buộc, chúng ta đem cho anh ta một vài bộ quần áo, một ít vật thực, anh ta đương nhiên sẽ tiếp nhận, nhưng sau khi tiếp nhận anh ta không cảm kích, anh ta lại lấy oán đáp lại. Việc này đích thực là có, hiện tại trong thế gian này thường thường gặp phải, đây là dấu hiệu của ác nghiệp thâm trọng, chúng ta phải thường suy nghĩ.



    [Hoặc dạ mộng điên đảo].



    Buổi tối gặp ác mộng. Gặp ác mộng tuyệt đối không phải là dấu hiệu tốt, bản thân nhất định phải cảnh giác được ác nghiệp của mình rất nặng, cho nên buổi tối mới gặp ác mộng.



    [Thậm tắc vọng ngôn thất chí]



    Đây chính là nói không thể đề khởi tinh thần được, nói năng không mạch lạc.



    [Giai tác nghiệt chi tướng dã]



    Đây là ông lược nói một vài ví dụ, đây đều là tướng không tốt.



    [Cẩu nhất loại thử, tức tu phấn phát, xả cựu đồ tân, tân vật tự ngộ].



    Nếu như bản thân chúng ta biết phản tỉnh, chúng ta có một điều hay hai điều giống như ví dụ đã cử trên, chúng ta liền phải cảnh tỉnh, lỗi lầm ác nghiệp của bản thân nhất định là rất nghiêm trọng. Nếu cảnh giác được phải nhanh chóng hồi đầu, lập tức nỗ lực “xả cựu đồ tân”, chính là phải cải đổi làm mới.



    [Hạnh vật tự ngộ], câu nói này là để khuyến miễn chúng ta, hi vọng bạn ngàn vạn lần đừng tự lừa gạt mình. Sự việc này, nhất định bản thân phải nỗ lực hết mình, người khác không thể giúp được. Phương pháp sửa lỗi chỉ giảng đến đây.



    Phía sau, chương thứ ba là phương pháp tích thiện. Mở đầu đoạn văn này, Liễu Phàm tiên sinh dẫn ra hai câu trong “Kinh Dịch”, vì chúng ta mà nói:



    [Dịch viết: tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh].



    Hai câu nói này có thể lấy lịch sử để làm chứng. Từ xưa đến nay, phàm là gia đình thuần hậu trung thực và biết tích thiện, đời sau của họ sẽ đời đời phát đạt. Cho dù không có sự phát đạt lớn, chí ít cũng có thể bảo hộ được bình an qua ngày, không đến nỗi phải rước lấy những tai họa.



    Những điều này trên lịch sử có thể xem thấy, hiện tại chúng ta cũng có thể nhìn thấy được chỉ cần chúng ta tỉ mỉ để tâm quan sát. Câu này ý nói, nếu như là ngược lại, là do tiên nhân đời trước và cả bản thân họ đã tích ác, khi dối người khác, thậm chí làm những việc tổn người lợi mình, nguời này nhất định không thể có được phú quý lâu dài; ngay cả khi hiện tại anh ta là người đại phú đại quý.



    Cho nên, một số người xem thấy hiện tượng: “Người này không việc ác gì không tạo, tại sao vẫn được đại phú đại quý?” Đây là do bạn không hiểu được đạo lí, trong đời quá khứ của gia đình anh ta, hoặc là bản thân anh ta, hoặc là tổ tiên của anh ta đã tu được đại thiện. Nhà Phật thường nói “tu phước không tu huệ”, bởi vì anh ta không tu huệ, nên đời này anh ta mới tạo tác ác nghiệp, tạo ác nghiệp thì sẽ làm tổn giảm phước báu.



    Thí dụ, phước mà trong đời quá khứ anh ta tu được có đến ức vạn tài phú, trong đời này tuy là phát tài, nhưng do tâm bất thiện, nơi nơi đều áp chế người khác, làm việc tổn người lợi mình, phước báu của anh ta bị tổn giảm, ngàn vạn tài phú biến thành trăm vạn tài phú, tổn thất quá lớn quá lớn; nhưng anh ta vẫn còn trăm vạn tài phú, so với người bình thường, anh ta vẫn là giàu có hơn rất nhiều. Nhân quả thông ba đời! Anh ta trong đời này dư phước hưởng hết, tội báo của anh ta liền hiền tiền. Có một vài người, quả báo của anh ta là ở đời sau; có những người ngay trong đời này lúc tuổi già bị sa sút, bị phá sản. Nguyên nhân tại sao? Vì gia đình tích ác, nên báo ứng của anh ta là như vậy. Mọi người nên hiểu được đạo lí này, hiểu rõ được chân tướng sự thật, nhất định phải biết đoạn ác tu thiện, tích công lũy đức đối với cá nhân chúng ta, đối với gia đình mình, đối với dòng họ mình, quyết định có đại lợi ích. Phía sau Liễu Phàm tiên sinh cử ra ví dụ:



    [Tích] tích là chỉ đời quá khứ.



    [Nhan thị tương dĩ nữ thê Thúc Lương Hột]. Đây là nói nhà họ Nhan sắp gả con gái của mình cho Thúc Lương Hột.



    [Nhi lịch tự kỳ tổ tông tích đức chi trường]



    “Lịch tự” chính là nói từng đời từng đời tổ tông của Thúc Lương Hột, họ đều tích đức. Gia đình này là gia đình tích thiện.



    [Nghịch tri kỳ tử tôn tất hữu hưng giả]



    “Nghịch” là dự liệu, dự đoán rằng con cháu sau này của gia đình ông ta nhất định được hưng vượng. Thúc Lương Hột là cha của Khổng Tử. Cho nên ngoại công của Khổng Tử đã dự đoán được gia đình ông tương lai nhất định sẽ hưng vượng, ông đem con gái mình gả cho Thúc Lương Hột, về sau sinh ra Khổng Tử. Ông làm sao xem thấy được? Nhìn thấy tổ tiên của Khổng Tử là đời đời tích thiện, cho nên biết trong nhà ông sẽ sinh ra đại thánh nhân. Câu chuyện này là nói đến tích thiện.



    Chuyện thứ hai:



    [Khổng tử xưng Thuấn chi đại hiếu]



    Người Trung Quốc nói về hiếu đạo, đầu tiên phải suy tôn Đại Thuấn. Người này là một tấm gương về tận hiếu, chúng ta từ trên ghi chép của lịch sử đọc được, nhất định phải hướng đến ông ấy mà học tập. Sau khi vợ của cha ông qua đời, cũng chính là mẹ của ông (gọi là sinh mẫu), cha ông liền cưới một người kế mẫu, sau đó người kế mẫu này cũng sinh một người con trai. Người kế mẫu đối xử với ông rất tệ, cha của ông chịu sự tác động của người kế mẫu; cha, kế mẫu, em trai do kế mẫu sinh ra; một gia đình bốn người thì cả ba người kia đều dùng tâm ác đối đãi với ông, nhiều lần sắp đặt cho ông đi vào chỗ chết. Hoàn cảnh gia đình này của ông thật quá ác, nhưng Thuấn vẫn có thể hiếu thuận, trong tâm mắt của ông, hòan toàn không nhìn thấy cha mẹ, anh em đối xử tệ với mình, ông luôn cho rằng bản thân làm không tốt, mới khiến cho cha ông không hoan hỉ, khiến cho người kế mẫu không vui, khiến em trai không vui, ngày ngày ông đều sửa đổi làm mới. Cứ như vậy sau vài năm, mới có thể cảm hóa được tòan gia đình. Đây gọi là đại hiếu, đây là chân chánh hiếu thuận. Tất cả Thuấn đều tùy thuận, tuy nhiên trong tùy thuận đó có trí huệ cao độ, nhà Phật thường nói là “thiện xảo phương tiện”, nên ông có thể tránh miễn được sự tổn hại của người nhà đối với ông, có thể bảo toàn tính mạng của mình; ông bằng tâm chân thành, tâm yêu thương mà phụng sự cha mẹ, anh em. Đây là việc mà người thường không làm nổi, nhưng ông làm được. Cho nên Khổng tử tán thán ông:



    [Viết: tông miếu hưởng chi, tử tôn bảo chi, giai chí luận dã]. (Tổ tiên được hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ nghiệp của tổ tông, đều là những lời nghị bàn chí lí.)



    Ngoại tổ phụ của Khổng tử cùng Khổng phu tử tán thán đại Thuấn, đây đều là danh ngôn chí lí.



    [Thí dĩ vãng sự vi chi].



    Lại đưa ra những gia đình tích thiện đời xưa, bạn xem xem sự phát đạt của hậu nhân họ, trong lịch sử có ghi chép lại. Hiện tại trong xã hội, chúng ta cũng có thể xem thấy. Phía dưới ông cử ra mười ví dụ. Người thứ nhất là:



    [Dương thiếu sư Vinh, Kiến Ninh nhân, thế dĩ tế độ vi sanh, cửu vũ khê trướng, hoành lưu xung hủy dân cư, nịch tử giả thuận lưu nhi hạ, tha chu giai lao thủ hóa vật, độc thiếu sư tằng tổ cập tổ, duy cứu nhân, nhi hóa vật nhất vô sở thủ, hương nhân xi kì ngu.]



    (Thiếu Sư Dương Vinh, người Kiến Ninh. Tổ tiên ông đều sống bằng nghề đưa đò. Có lần trời mưa lâu ngày ngập lụt, nước chảy xiết cuốn trôi nhà cửa, người dân và súc vật. Các thuyền khác lo vớt của cải trôi trên mặt nước, còn ông cố và ông nội của Thiếu Sư chỉ lo cứu người, không lấy của. Dân làng cho họ là ngu.)



    Chúng ta xem trước một đoạn. Dương Vinh, làm quan đến chức Thiếu Sư, Thiếu sư là thầy của hòang đế thời xưa. Thầy của vua thì gọi là Thái sư hoặc Thiếu sư; đại đa số thiếu sư là thầy của Thái tử. Còn thầy của vua thì gọi là Thái sư, phần lớn gọi thầy của thái tử là Thiếu sư. Cho nên, lão sư được xưng hô gồm có Thái sư, Thái phó và Thái bảo.



    Dương thiếu sư Dương Vinh, “Kiến Ninh nhân”, Kiến Ninh hiện tại là Kiến Âu, tỉnh Phúc Kiến. Tôi đã ở nơi đây hết 6 năm, nhà của Dương Vinh tôi đã tới qua, là nhà tứ hợp viện ba mặt rất lớn. Hiện tại hình như đã đổi thành thành phố Kiến Âu rồi. Tổ tiên của ông, đời đời kiếp kiếp đều là “dĩ tế độ vi sanh”, đây là nói nghề chèo đò, là làm cái nghề nghiệp này. Do đó có thể biết, đời sống của họ cũng vô cùng gian khổ.



    Ở đây gặp phải một trận mưa lớn. Mưa kéo dài, nước sông dâng cao gây ngập lụt. Con sông này hình như là thượng du sông Mân Giang, từ Phúc Châu chạy thẳng ra biển. Nước dâng lên ngập hết làng mạc cư dân, rất nhiều người bị ngập chết, người chết đuối thuận theo dòng chảy mà trôi xuống. Đương nhiên, người chèo thuyền cũng rất nhiều. Nhưng họ đều đi nhặt tài vật, không ngó ngàng đến người bị chìm trôi trong nước, họ chỉ lo tìm kiếm của cải mà thôi. Duy chỉ có tổ tiên của Dương Vinh, chính là ông nội và ông cố của ông là lo đi cứu người. Người dân làng nhìn thấy việc làm của họ, đều nói rằng họ ngu si, “cứu người nào có ích lợi gì chứ? Rất nhiều của cải của người khác trôi nổi trên măt nước, bạn nhặt được thì là của bạn”. Nhưng tổ tiên của Dương Vinh không cần tiền mà chỉ lo cứu người, đây chính là tích đức.



    [Đãi thiếu sư phụ sanh, gia tiệm dụ]



    Đến khi cha của Dương Vinh ra đời, hòan cảnh gia đình của ông dần dần phú quý sung túc.



    [Hữu thân nhân hóa vi đạo giả, ngữ chi viết, nhữ tổ phụ hữu âm công, tử tôn đương quý hiển, nghi táng mỗ địa, toại y kì sở chi nhi biếm chi, tức kim chi bạch thố phần dã, hậu sanh thiếu sư, nhược quan đăng đệ, vị chí tam công, gia tằng tổ tổ phụ như kì quan, tử tôn quý thịnh, chí kim thượng đa hiền giả].



    (Có vị thần hóa thành một ông đạo sĩ đến nói: Ông nội của ông có nhiều âm đức, cho nên con cháu sẽ vượng thịnh. Ông có thể chôn cất họ ở nơi này. Cha Thiếu Sư nghe lời làm theo. Đó là Mồ Thỏ Trắng nổi tiếng hiện nay. Sau đó Thiếu Sư ra đời, hai mươi tuổi đã đậu tiến sĩ và làm quan đến Tam Công. Sau đó hoàng đế còn truy phong ông cố, ông nội và cha của Thiếu Sư đều là Thiếu Sư. Con cháu của Thiếu Sư rất thịnh vượng. Mãi đến bây giờ vẫn còn có nhiều người tài giỏi.)



    Đây là lấy câu chuyện của Dương Vinh để chứng minh cho “gia đình tích thiện, tất hữu dư khánh”. Ông cố, ông nội của ông tuy là nghèo khó, nhưng đến đời của cha ông thì hòan cảnh gia đình dần dần chuyển biến tốt hơn. Lúc này có một vị đạo trưởng, ở đây viết là “thần nhân hóa vi đạo trưởng”, chúng ta chỉ nói là “có một vị đạo trưởng”, nói với cha của ông rằng: “tổ phụ của ngươi có tích âm công”. Tổ phụ chính là ông cố của Dương Vinh, “từng đã cứu rất nhiều mạng người, cho nên có âm công”, con cháu đời sau nhất định được phú quý vinh hiển.



    [Nghi táng mỗ địa], đạo trưởng chỉ dạy cho ông, đây là phong thủy mà người Trung quốc chúng ta nói đến, có một khu đất có phong thủy rất tốt. Cha của Dương Vinh, liền đem ông nội của ông mai táng ở chỗ người đạo trưởng nói, chính là “bạch thố phần-mồ thỏ trắng” ngày nay.



    [Hậu sanh Thiếu sư], về sau Dương Vinh ra đời. “Nhược quan đăng đệ”, nhược quan là hai mươi tuổi, hai mươi tuổi thì thi đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Tam công, Thiếu sư là một trong tam công. Hòang đế đối với ông vô cùng cảm kích, truy phong ông cố, ông nội và cha của ông là “như kỳ quan-chức quan như ông”. Quan vị của ông là Thiếu Sư, cho nên ông cố, ông nội, và cha ông đều được truy phong là Thiếu Sư.



    [Tử tôn quý thịnh], (con cháu phú quý hưng thịnh) mãi cho đến ngày nay. Từ “kim” này là chỉ cho đời của Liễu Phàm tiên sinh, thời đại này chính là thời Minh Triều, trong gia đình ông vẫn còn rất nhiều hiền nhân, đời đời đều là hiền nhân, đây là tổ tông tích đức.



    Vị thứ hai là:



    [Ngân nhân Dương Tự Trừng].



    “Ngân” hiện tại là thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, thời xưa gọi là huyện Ngân. Có một vị tiên sinh tên là Dương Tự Trừng.



    [Sơ vi huyện lại]



    Ông làm quan thư biện trong huyện nha, giống như chức quan thư kí hiện nay, cũng đồng như quan văn thư. Người này:



    [Tồn tâm nhân hậu, thủ pháp công bình]



    Đây là đức hạnh của ông, ông tâm địa nhân hậu, hết mình vì người. “Thủ pháp công bình”- làm việc công bằng, quyết không nhận hối lộ của người khác.



    [Thời huyện tể nghiêm khắc]



    [Thời] là chỉ cho đương thời, đây là nói vị quan huyện này vô cùng nghiêm khắc.



    [Ngẫu thát nhất tù]



    Ngẫu nhiên cho người đánh một phạm nhân.



    [Huyết lưu mãn tiền, nhi nộ do vị tức]



    Phạm nhân này gặp cơn thịnh nộ của quan huyện, quan huyện cho người đánh anh ta một trận rất nặng, đánh đến nỗi toàn thân đổ máu, mà cơn giận của ông ta vẫn chưa tan.



    [Dương quỵ nhi khoan giải chi]



    Dương Tự Trưng quỳ xuống đất cầu xin dùm cho phạm nhân đó.



    [Tể viết]. Vị quan huyện nói:



    [Chẩm nại thử nhân việt pháp bội lí, bất do nhân bất nộ].



    Ông cầu xin giúp phạm nhân đó. Vị quan huyện nói: phạm nhân này làm quá nhiều điều xấu, “bất do nhân bất nộ-không thể khiến người không nổi giận”, vị quan huyện nói ra lí do ông nổi giận.



    [Tự Trừng khấu thủ viết]



    Dương Tự Trừng hướng đến quan huyện trình thưa.



    [Thượng thất kỳ đạo, dân tán cửu hĩ, như đắc kỳ tình, ai căng vật hỉ, hỉ thả bất khả, nhi huống nộ hồ, tể vi chi tễ nhan.]



    (Người trên lỗi đạo, khiến dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ.)



    Dương Tự Trừng nói được rất hay! [Thượng thất kỳ đạo-người trên lỗi đạo], câu nói này rất không dễ dàng nói ra được, từ chỗ này xem thấy, ông thực sự là tâm tính nhân hậu, không sợ bản thân bị mất chức, ông nói ra lời thật.



    “Thượng” là chỉ cho triều đình. Hiện tại bản thân triều đình có lỗi, nhân dân đối với triều đình đã mất đi lòng tin. Do đây có thể biết, bách tính phạm pháp, lỗi tại nơi đâu? Lỗi tại không người giáo dục họ. Ai phụ trách việc giáo dục? Giáo học nhà Nho cho rằng là quan viên địa phương, là huyện trưởng; thời xưa quan tri huyện được xưng là “quan phụ mẫu”, ngài là cha mẹ của nhân dân địa phương này, ngài là thầy của dân, ngài là lãnh đạo của dân.



    Nho gia nói “tác chi quân, tác chi thân, tác chi sư”; chữ “chi” là chỉ nhân dân. Người đứng đầu địa phương này là lãnh đạo của nhân dân, là cha mẹ của nhân dân, là thầy giáo của nhân dân, học trò của anh làm việc sai trái, là do anh dạy dỗ họ không tốt. Đây là “người trên thất trách”, hàm nghĩa ở đây rất sâu rộng.



    Dương Tự Trừng thật sự có đảm lược và học thức, ông có đức hạnh, can đảm, có học vấn và dám nói lời thật: Ngài thẩm vấn anh ta, thẩm vấn được sự tình, anh ta thật sự đã làm nhiều việc xấu, đáng phải chịu hình phạt nặng, nhưng ngài nên thương xót anh ta chứ không thể sinh lòng vui mừng; “hỉ thả bất khả, nhi huống nộ hồ”, ngài làm sao có thể nổi giận chứ? Quan huyện cũng không tệ, nghe được lời nói của Dương Tự Trừng, cơn thịnh nộ của ông cũng giảm xuống ôn hòa hơn, không còn giận dữ nữa.



    [Gia thậm bần]. Gia cảnh của Dương Tự Trừng rất bần hàn.



    [Quỹ di nhất vô sở thủ]



    Đương nhiên, ông có thể giúp đỡ những người khổ nạn này, đặc biệt là những phạm nhân này, ông ấy có tâm thương xót nên thường thường giúp đỡ họ. Người ta đương nhiên có nhiều người mang lễ đến nhờ cậy ông, nhưng ông “nhất vô sở thủ-một thứ cũng không nhận”, ông là đại công vô tư, dựa vào lương tâm của bản thân mà làm, tuyệt đối không nhận hối lộ.



    [Ngộ tù nhân phạp lương]. Gặp những lúc cơm tù cho phạm nhân bị thiếu hụt.



    [Thường đa phương dĩ tế chi]



    Ông ngày ngày lo nghĩ phương cách để giúp đỡ họ, ông đến những người có thể hành thiện, xin họ giúp đỡ, để những phạm nhân đó có thể được ăn no.



    [Nhất nhật], có một ngày.



    [Hữu tân tù số nhân đãi bộ].



    Phạm nhân mới đến, có một số người không được ăn uống



    [Gia hựu khuyết mễ]. Trong nhà không còn gạo.



    [Cấp tù tắc gia nhân vô thực]. Ông lấy gạo trong nhà để cấp cho tù nhân, thì người trong nhà ông sẽ không có cơm để ăn.



    [Tư cố tắc tù nhân kham mẫn]. Nghĩ thấy tù nhân rất đáng thương.



    [Dữ kỳ thê thương chi]. Ông cùng với vợ mình thương lượng.



    [Thê viết: tù tùng hà lai. Viết: Tự Hàng nhi lai. Duyên lộ nhẫn cơ, thái sắc khả cúc.]



    Vợ của ông hỏi: Những tù nhân này từ đâu đến? Là từ Hàng Châu đến. Trên đường đi phải chịu đói rét, sắc mặt đều rất khó coi, mặt mũi vàng vọt.



    [Nhân triệt kỉ chi mễ chử chúc dục dĩ thực tù]. Đem một nửa số gạo của mình cho phạm nhân, trong nhà mình thì nấu cháo mà ăn.



    [Hậu sinh nhị tử]



    Về sau, Dương Tự Trừng sinh được hai con trai.



    [Trưởng viết Thủ Trần, thứ viết Thủ Chỉ, vi nam bắc Lại Bộ Thị Lang]. (Con lớn tên là Thủ Trần, con nhỏ tên là Thủ Chỉ. Cả hai đều làm quan đến Lại Bộ Thị Lang)



    Đây là quả báo, bản thân ông tích thiện tích đức, con cháu của ông liền được phú quý, vinh hiển. Hai người con của ông làm đến Lại Bộ Thị Lang ở miền Nam và miền Bắc. “Thị Lang” địa vị này ngày nay gọi là Phó Bộ trưởng. “Lại Bộ”, thời đó không gọi là bộ trưởng mà gọi là thượng thư, thượng thư là bộ trưởng, còn thị lang là phó bộ trưởng.



    [Trưởng tôn vi Hình bộ thị lang] (Người cháu lớn làm quan Hình Bộ Thị Lang).



    “Hình bộ” chính là Bộ Tư Pháp, Bộ Pháp Vụ ngày nay, cũng đều làm đến Thứ trưởng.



    [Thứ tôn vi Tứ Xuyên liêm hiến] (Người cháu nhỏ làm quan Liêm-Hiến ở tỉnh Tứ Xuyên)



    [Liêm hiến] là tên gọi của chức quan ngày xưa, về sau đến thời Minh gọi là Án sát sứ, thông thường được gọi là khâm sai đại thần.



    [Hựu cụ vi danh thần]. Đương thời cả hai đều là đại thần hiền đức nổi tiếng.



    [Kim Sở Đình, Đức Chánh]. Trong các trước tác lịch sử không có ghi tỉ mỉ về họ. “Kim” là thời đại của Liễu Phàm tiên sinh. Sở Đình, Đức Chánh hai vị này:



    [Diệc kỳ duệ dã]. Cũng là hậu duệ của ông, là đời sau của Dương Tự Trừng. Đây là một quan thư biện nhỏ của huyện nha.



    Do đây có thể biết, tích công lũy đức, không luận bản thân chúng ta cuộc sống hiện tại ra sao, trong xã hội có địa vị gì, làm nghề nghiệp gì, đều có thể làm thiện. Cơ hội thật là quá nhiều quá nhiều, chỉ cần có tâm làm lợi ích cho xã hội, lợi ích cho nhân dân, chính là tích công lũy đức. Làm việc tốt, không cầu quả báo, cái công đức này càng lớn hơn; không cầu quả báo, nhất định sẽ có quả báo thù thắng. Thiện tích được lớn, thiện tích được nhiều, bản thân mình sẽ cảm được quả báo. Giống như Liễu Phàm tiên sinh là một ví dụ, Du Tịnh Ý tiên sinh (người cùng thời với Viên Liễu Phàm) cũng là một ví dụ, cuối đời hưởng được quả báo, quả báo kéo dài đến đời con cháu ông ta.



    Ví dụ thứ ba là:



    [Tích Chánh Thống gian]. “Chánh Thống” là niên hiệu Anh Tông triều Minh.



    [Đặng Mậu Thất xướng lọan ư Phúc Kiến]



    Đặng Mậu Thất là một đạo phỉ đương thời, tức là cường đạo, là thổ phỉ, anh ta làm loạn tại khu vực Phúc Kiến.



    [Sĩ dân tùng tặc giả thậm chúng, triều đình khởi Ngân huyện trưởng Đô Hiến Giai Nam chinh, dĩ kế cầm tặc.]



    (Sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan Đô Hiến là Trương Giai người huyện Ngân, xuất quân xuống phương Nam, diệt trừ quân giặc.)



    Hoàng đế Anh Tông dùng Trương Giai của huyện Ngân dẫn binh nam chinh, đem lọan này bình đình trở lại, bắt giữ Đặng Mậu Thất, nhưng vẫn còn lại một vài dư đảng.



    [Hậu ủy Bố chánh tư Tạ Đô Sự, sưu sát đông lộ tặc đảng.]



    Kẻ cầm đầu bọn thổ phỉ đã bị bắt giữ, nhưng bên dưới vẫn còn có dư đảng. Cho nên triều đình lại ủy phái Bố chánh tư Tạ Đô Sự, Bố chánh tư tương đương với tỉnh trưởng hiện nay, Đô sự là một chức quan dưới Bố chánh tư, phái Tạ đô sự đi giết tặc đảng ở đường phía Đông, chính là để bình định một số còn sót lại.



    [Tạ cầu tặc trung đảng phụ sách tịch]



    Vị Tạ đô sự này rất khó có được, đầu tiên ông tìm phương pháp truy ra danh sách bọn tặc đảng.



    [Phàm bất phụ tặc giả]



    Trong số tặc đảng, trên danh sách không có tên của những người này.



    [Mật thụ dĩ bạch bố tiểu kì, ước binh chí nhật, sáp kì môn thủ, giới quân binh vô vọng sát, toàn hoạt vạn nhân.]



    Đây là tướng lĩnh thống lãnh binh lính, ông hiểu được tích đức, không giết người oan uổng, không lạm sát người vô tội. Cho nên, ông dụng tâm đi thu thập danh sách của giặc đảng. Nếu như người nào không thực sự thuộc vào giặc đảng, ông không thể để người khác phải chịu oan uổng. Quan binh tiến vào thành tìm kiếm, ông dạy những người không liên quan đến tặc đảng, ông đưa cho họ một lá cờ trắng, dặn khi quan binh vào thành, “các ngươi đem là cờ này treo ở trước cửa nhà”, và ông cấm quan binh không được quấy nhiễu họ. Nhờ vậy “tòan hoạt vạn nhân-bảo toàn tính mạng cho vạn người”, đây là công đức ông tích được.



    Trong lịch sử Trung Quốc, từ xưa đến nay, có người làm tướng quân, có người làm đại tướng quân, người có thể bảo toàn được hậu duệ rất ít. Nguyên nhân tại sao? Do sát hại quá nhiều người, cho nên đời sau của họ đều không tốt. Trong số các võ tướng Trung Quốc, người có hậu nhân tốt xác thực là không nhiều, trên lịch sử chân thật số lượng đó có thể nêu ra được. Những người làm tướng quân này đều coi trọng tính mạng con người, tuyệt đối không lạm sát, kỉ luật quân đội rất nghiêm khắc, nhờ vậy mới có thể bảo toàn được đời sau.



    [Hậu Tạ chi tử Thiên, trúng trạng nguyên, vi Tể phụ, tôn Phi, hậu trúng Thám Hoa].



    Đây là nói quả báo của hậu nhân Tạ đô sự. Con trai của ông là Tạ Thiên đậu trạng nguyên, làm quan đến chức tể tướng. Cháu của ông là Tạ Phi, thi đỗ Thám Hoa, Thám Hoa là hạng thứ ba của cấp bậc Tiến sĩ. Đây đều là những chứng nghiệm cho việc “tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh”.



    Lại nói với chúng ta, ở Bổ Điền có Lâm gia:



    [Bổ Điền Lâm thị, tiên thế hữu lão mẫu hiếu thiện, đương tác phấn đoàn thí nhân, cứu thủ tức dữ chi, vô quyện sắc].



    Đây là nói đến Bổ Điền, cũng là tại Phước Kiến. Đời trước của ông có lão mẫu hiếu thiện, đây là tổ mẫu đời trước của ông thích làm việc thiện, thường thường làm bánh bao bố thí cho người, bố thí cho những người nghèo khổ. Mỗi ngày đều làm như vậy, cả đời đều không mệt mỏi, ngày ngày dùng cách này để bố thí, có người đến xin bà, ai ai bà cũng đều cho, một tơ hào cũng không chán mỏi, mỗi ngày đều làm việc bố thí.



    Làm việc thiện, hết lòng mà làm. Dùng thiện đối đãi với người, bản thân quyết định có quả báo tốt, không phải sợ chịu thiệt thòi, không sợ bị lừa. Ngạn ngữ thường nói: “Chịu thiệt được phước”, cho nên chúng ta thường thường nghĩ, chúng ta không có cái cơ duyên này, nếu như tôi có cơ hội này, tôi tình nguyện mở một nhà hàng, mở một nhà hàng miễn phí để cúng dường mọi người.



    Hiện tại chúng ta tại cư sĩ Lâm-Tân Gia Ba, tôi đem cách nghĩ này của tôi nói với cư sĩ Lí Mộc Nguyên, cư sĩ Lí Mộc Nguyên đã chân thật làm trong ba năm. Mỗi ngày đều cúng dường cơm chay, là hoàn toàn miễn phí. Bình quân mỗi ngày đến cư sĩ Lâm ăn cơm có đến môt ngàn người, cuối tuần có đến ba, bốn ngàn người. Đây là việc tốt!



    Cư sĩ Lâm có bị người ăn đến sụp đổ không? Không có, càng ăn càng hưng vượng. Gia nhân nhiều, vì có nhiều người như vậy đến ăn mà! Từ khi bắt đầu đến nay, nói cho chư vị hay, là chưa từng đi mua gạo, cũng không mua dầu, không phải mua rau, vậy mà ăn không hết. Nguyên nhân tại đâu? Mọi người biết được cư sĩ Lâm làm việc tốt, nên ngày ngày đều có người mang gạo đến, có người mang dầu đến, có người mang rau đến. Mang đến cúng dường rất nhiều, ăn không hết. Ăn không hết thì phải làm sao? Chúng tôi mang đồ dư như gạo, rau đó đến cúng dường cho các viện dưỡng lão, cúng dường cô nhi viện. Cho nên, ở Tân gia ba những viện dưỡng lão, cô nhi viện của nhiều tôn giáo đều nhận đồ cúng dường của chúng tôi. Đây là việc tốt!



    Hôm nay chỉ giảng đến đây thôi.

Chia sẻ trang này