Chiến lược giao dịch ngày 17/10/2011

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi hungami, 17/10/2011.

7559 người đang online, trong đó có 344 thành viên. 21:33 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 2264 lượt đọc và 42 bài trả lời
  1. Tranlong1109

    Tranlong1109 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2011
    Đã được thích:
    0
  2. long701

    long701 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2011
    Đã được thích:
    34
    Điều tra tại 147 DN FDI: Vẫn một bức tranh xám!


    Rất nhiều DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam không ngừng báo cáo thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng lại không ngừng mở rộng quy mô sản xuất.
    Nhóm tư vấn chính sách Dự án hỗ trợ phân tích chính sách tài chính (Bộ Tài chính) và Chương trình hỗ trợ phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) tại VN đã có cuộc điều tra tại 147 DN FDI thuộc 20 nước đang đầu tư tại 17 tỉnh, TP. ở miền Bắc, miền Nam và Tây Nguyên, hoạt động ở 17 ngành, lĩnh vực, với trên 50% DN là Cty TNHH MTV (100% vốn FDI). Kết quả điều tra đã cho một cái nhìn rõ nét hơn, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.

    25,8% DN thua lỗ
    Theo báo cáo, trong năm 2010, có 109 DN FDI có lãi, tăng 23 DN so với năm 2008. Tuy nhiên, tổng lợi nhuận trước thuế của các DN này là 24.974 tỉ đồng, chỉ tăng 1.876,9 tỉ đồng, tương đương 8% so với năm 2008, trong khi số lượng DN có lãi tăng tới 26%. Như vậy hiệu quả tăng là rất thấp.

    Tỉ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu năm 2010 của các DN FDI đạt 15,9%, giảm tới 19% so với năm 2008. Trong đó nhóm Cty liên doanh có tỉ suất lợi nhuận lớn nhất tới 26,3%, nhóm CTCP hiệu quả chỉ đạt 2,7%. Tỉ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh năm 2010 chỉ đạt 7,5% và tỉ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu chỉ đạt 8,3% và có xu hướng giảm qua các năm. Tuy nhiên, trong 3 năm, số lợi nhuận chuyển về nước của các DN trên là 10.861,5 tỉ đồng.

    Theo báo cáo, năm 2010, số lỗ là 38 DN, chiếm 25,8% tổng số DN FDI được điều tra. Tổng số lỗ luỹ kế của các DN này đến thời điểm điều tra là 11.614,9 tỉ đồng và có chiều hướng tăng lên qua các năm, nhiều DN thua lỗ kéo dài. Theo kết quả khảo sát, có tới 16 DN từ khi thành lập đến nay chưa phải nộp thuế thu nhập DN; 34 DN trong 3 năm không phải nộp thuế.

    Nhiều DN rơi vào tình trạng nguy hiểm
    Theo điều tra, tổng vốn đầu tư của 147 DN FDI tính đến 31.12.2010 là 7.920 triệu USD, gấp 1,9 lần so với vốn đăng ký ban đầu. Tổng nợ phải trả của các DN này năm 2010 là 133.206,9 tỉ đồng, chiếm 55% trong cơ cấu tổng nguồn vốn và tăng 73% (tương đương 56.112,9 tỉ đồng) so với năm 2008. Trong đó, nợ ngắn hạn là 62.689,8 tỉ đồng, tăng 31% và nợ dài hạn là 70.450,6 tỉ đồng, tăng tới 140% so với 2008.

    Báo cáo cũng cho biết, hệ số tự tài trợ của các DN FDI trong các năm 2008, 2009, 2010 lần lượt là 0,50; 0,43; 0,46. Sự giảm sút này cho thấy các DN đã dần dần phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn vay và vốn chiếm dụng. Trong đó, nhóm Cty TNHH MTV có hệ số tự tài trợ rất thấp trong cả 3 năm và đều nằm dưới mức 0,3; nhóm Cty liên doanh ở mức 0,49. “Đây chính là nguy cơ tiềm tàng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và đảm bảo khả năng thanh toán của DN” - báo cáo nhận định.

    Đáng chú ý hơn là có tới 41 DN FDI có hệ số tài trợ rất thấp, dưới mức 0,3 trong đó có 8 DN có hệ số tự tài trợ âm. Điều này đang thể hiện DN đã mất toàn bộ vốn chủ sở hữu hoặc tỉ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn rất thấp, phải phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vốn vay và chiếm dụng, đã đưa DN vào tình trạng rủi ro trong kinh doanh và đang ở trong nguy cơ mất khả năng thanh toán.

    Điều này thể hiện ở hệ số khả năng thanh toán tổng quát cuối năm 2010 giảm khoảng 9% so với cuối năm 2008; 11 DN có hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn ở mức nhỏ hơn 1. Chính vì vậy đã khiến các DN này rơi vào tình trạng báo động, không đảm bảo khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn, chậm thanh toán tiền lương cho người lao động và chi trả các khoản chi phí trọng yếu của DN.

    Lỗi do hệ thống pháp lý?

    Hiện tại, chưa có giải pháp kiểm soát các dự án về tiến độ giải ngân, kiểm soát chuyển giá. Đặc biệt, chưa có hướng dẫn cụ thể về cơ chế giám sát về tài chính đối với các dự án đầu tư nước ngoài, cũng như chưa có hướng dẫn về phân công, phân cấp giữa TƯ và địa phương. Do chưa có sự phân luồng về nơi tiếp nhận báo cáo tài chính của DN FDI, nên khó kiểm soát được việc chấp hành chế độ báo cáo của DN, thậm chí còn nhiều DN không nộp báo cáo tài chính.
    Hiện tại, Bộ Tài chính mới tiếp nhận được rất ít báo cáo tài chính dù đây là một trong những tài liệu quan trọng nhất, làm cơ sở phân tích, đánh giá về thực trạng và hiệu quả đầu tư của loại hình DN này. Ngoài ra, đến nay vẫn chưa có quy định phân cấp rõ ràng giữa Bộ Tài chính và các sở tài chính về thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính.

    Dù việc chuyển giá, báo lỗ của các DN FDI là chủ đề nóng trong thời gian qua, nhưng theo báo cáo, việc giám sát tài chính DN FDI hiện rất hạn chế. Các cơ quan nhà nước mới tập trung vào việc giám sát trước đối với các dự án FDI.

    Ngày cả quy định về vốn đầu tư, vốn điều lệ cũng chưa đầy đủ. Nhóm tư vấn cho rằng, trong trường hợp âm vốn chủ sở hữu do thua lỗ thì cần quy định nhà đầu tư phải bổ sung thêm vốn để bù đắp bằng mức vốn điều lệ. Trường hợp không bổ sung thêm vốn thì phải thực hiện các thủ tục phá sản theo quy định tại Luật Phá sản.
  3. long701

    long701 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2011
    Đã được thích:
    34
    Đầu tuần, vàng vững giá 44,3 triệu đồng/lượng


    Khoảng cách với vàng thế giới duy trì ở 1,6 triệu đồng/lượng. Các nhà phân tích hầu hết dự báo giá vàng sẽ tăng trong tuần này.
    Giá vàng trong nước hôm nay đi ngang vì vàng thế giới hầu như không biến động so với chốt phiên cuối tuần trước.

    9h00 sáng 17/10

    Tại Hà Nội, giá vàng SJC của công ty VBĐQ SJC Hà Nội niêm yết ở 44,13 – 44,33 triệu đồng/lượng, tăng 10 nghìn đồng so với ngày cuối tuần. Giá vàng SJC tại công ty VBĐQ Bảo Tín Minh Châu giao dịch ở 44,1 – 44,35 triệu đồng/lượng, giữ nguyên mức hai ngày qua

    Tại Tp. Hồ Chí Minh, giá vàng SJC của công ty VBĐQ Sài Gòn SJC niêm yết tại 44,05 – 44,25 triệu đồng/lượng. Giá vàng SBJ của công ty VBĐQ Sacombank SBJ là 44,06 – 44,24 triệu đồng/lượng.

    Trên thị trường thế giới, giá vàng sau khi tăng 1% phiên cuối tuần trước, sáng nay biến động nhẹ và hiện ở quanh 1.681 USD/ounce, tăng 1,5 USD so với chốt phiên 14/10.

    Quy đổi theo tỷ giá USD ngân hàng là 20.915 đồng, cộng thêm thuế và các khoản phí liên quan, giá vàng trong nước hôm nay đắt hơn vàng thế giới khoảng 1,6 triệu đồng/lượng.

    Nhận định về xu hướng giá vàng tuần này, hầu hết các nhà phân tích đều cho rằng giá vàng sẽ tăng, thậm chí còn tăng đột biến, vì những dữ liệu kinh tế tốt lành đến từ Mỹ và lạc quan vào châu Âu. Khảo sát của Kitco News cho kết quả 21/25 người dự báo giá tăng, trong khi khảo sát của Bloomberg thì kết quả là 22/25 người lạc quan giá vàng đi lên. Đây là các cuộc khảo sát có số người dự báo giá vàng tăng nhiều nhất kể từ trung tuần tháng 7.
  4. long701

    long701 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2011
    Đã được thích:
    34
    Đằng sau sự phá sản của 49.000 doanh nghiệp

    Khi không thể tiếp tục vay vốn, dự án dở dang sẽ nằm bất động, trang thiết bị, máy móc cũng trở thành sắt vụn.
    Nếu phá sản, giải thể, sẽ có tác động lớn, đó là vốn vay ngân hàng sẽ khó có thể thu hồi.

    Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, đến tháng 9 năm nay, có gần 49.000 DN đã giải thể, phá sản, ngừng hoạt động, ngừng nộp thuế. Trong đó, phá sản, giải thể là 5.800 DN, khoảng 11.500 DN ngừng hoạt động và 31.500 DN ngừng nộp thuế.

    Như vậy bình quân một quý có trên 12.000 DN giải thể, phá sản,ngừng hoạt động, ngừng nộp thuế. Với tốc độ này, dự báo cả năm 2011 số DN lâm vào tình trạng như trên có thể chiếm tới 10% trong tổng số 600.000 DN cả nước hiện nay.

    Trong nền kinh tế thị trường, chuyện DN giải thể, phá sản, ngừng hoạt động là chuyện bình thường, nhưng khi DN lâm vào tình trạng này, những tác động mà nó gây ra cho xã hội không phải là nhỏ. Trước hết, một lượng lớn những người lao động sẽ bị nợ lương, nghỉ việc. DN thì nợ bảo hiểm xã hội, nợ tiền điện, viễn thông, nước, nợ ngân hàng...

    Chẳng hạn, khi Công ty cổ phần Thép Vạn Lợi (Hải Phòng) phải ngừng sản xuất thời gian qua, thì hơn 2.000 lao động hiện không có việc làm, phải nghỉ việc, bị nợ lương. Vạn Lợi hiện đang nợ tiền điện hơn 11 tỷ đồng và nợ Bảo hiểm xã hội TP. Hải Phòng gần 7 tỷ đồng. Ngoài ra, DN này đang là con nợ của 6 tổ chức tín dụng, với nhiều món nợ xấu, giá trị lớn lên tới hơn 1.000 tỷ đồng. Đó là thực tế khác xa với tương lai của Vạn Lợi được "vẽ" ra hơn một năm trước. Thời điểm tháng 7/2010, trên sàn OTC, quy mô Vạn Lợi được "vẽ" với 14 doanh nghiệp thành viên, "doanh số khoảng 10.000 tỷ đồng/năm và sẽ đạt 1 tỷ đôla vào năm 2012".

    Số DN cho người lao động nghỉ việc, nợ lương, nợ bảo hiểm xã hội ngày càng tăng. Chỉ tính riêng trong ngành xây dựng đến tháng 6/2011đã có 1.118 lao động mất việc làm; 4.549 lao động không đủ việc làm. Đáng chú ý là có 66 doanh nghiệp nợ lương người lao động với tổng số tiền 134 tỷ đồng; 79 đơn vị nợ tiền bảo hiểm xã hội với tổng số tiền 85 tỷ đồng.

    Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), bình quân trước đây, mỗi năm có khoảng 5.000-7.000 doanh nghiệp phá sản, giải thể. Năm nay, ước khả năng con số này sẽ gấp rưỡi đến gấp đôi. Điều này cho thấy tình hình "sức khỏe" của doanh nghiệp đang xấu đi, số phá sản giải thể vẫn tăng. Đây thực chất cũng có thể coi là sự thanh lọc nghiệt ngã sẽ diễn ra trên thương trường. Trong thời kỳ này, DN nào có năng lực cạnh tranh yếu, quản trị kém và trang thiết bị lạc hậu sẽ khó có thể tồn tại, dồn nguồn lực cho các DN có năng lực hơn.

    Tuy nhiên, có một vấn đề làm nhiều người băn khoăn, đó là trong số các DN giải thể phá sản, ngừng hoạt động có không ít DN vay vốn đang đầu tư thì bị hạn mức tín dụng khống chế.

    Do lạm phát tăng cao, từ đầu năm 2011, Chính phủ đã có chủ trương thắt chặt tín dụng. Hạn mức tín dụng cho phép trong năm 2011 tăng không quá 20%. Nhiều DN mặc dù đã được các ngân hàng chấp thuận, phê duyệt cho vay vốn và đã được giải ngân một phần, đang thực hiện dở dang phải dừng lại do ngân hàng đã chạm ngưỡng hạn mức dẫn đến dự án bị ngưng trệ, đình đốn...

    Với những DN này, khi không thể tiếp tục vay vốn, dự án dở dang sẽ nằm bất động. Trang thiết bị, máy móc cũng trở thành sắt vụn. Nếu phá sản, giải thể, sẽ có tác động lớn, đó là vốn vay ngân hàng sẽ khó có thể thu hồi.

    Bên cạnh đó, điều đáng nói là hiện nay nhiều ngân hàng không dám siết nợ các DN. Tại Hải Phòng, các DN thép đang nợ ngân hàng khoảng 4.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, cho đến giờ ngân hàng cũng không dám làm căng với DN. Vì khi cho vay, công tác thẩm định hiệu quả dự án, thiết bị sản xuất nhập khẩu... có khi không kỹ lưỡng. Do đó, nhiều thiết bị lạc hậu, công suất thấp, tiêu hao lớn được đưa về với giá cao. Khi thị trường gặp khủng hoảng, người cho vay càng không dám thực hiện siết nợ. Vì nếu có làm thì cũng không biết bán dây chuyền ấy cho ai để thu hồi nợ!

    Những khoản nợ này sẽ phải chuyển thành nợ xấu. Gánh nặng nợ xấu tăng sẽ liên quan đến sự an toàn của các ngân hàng và là " kẻ thù" của nền kinh tế.
  5. long701

    long701 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2011
    Đã được thích:
    34
    Khó khăn vốn: Ngân hàng đang ngồi trên lửa


    Diễn biến tăng nóng của lãi suất liên ngân hàng (NH)và thực trạng nguồn vốn huy động bị giảm sút, theo phản ánh của nhiều ngân hàng, sẽ làm bi đát thêm thanh khoản của không ít ngân hàng nhỏ.
    Giới đầu tư bắt đầu nhắc nhiều đến khả năng tái cơ cấu các ngân hàng trong nước.

    Không ngoài dự đoán

    Diễn biến tăng mạnh của lãi suất trên thị trường liên NH trong các ngày cuối tuần qua thực tế không nằm ngoài các dự đoán được đưa ra ngay sau khi NHNN tiến hành điều tăng một số lãi suất điều hành. Cụ thể kể từ ngày 10.10, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng từ 14%/năm lên 15%/năm và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên NH cũng tăng từ 14%/năm lên 16%/năm.

    Ngay sau ngày này, một số tổ chức đầu tư ghi nhận các mức lãi suất tăng đáng kể trong hai ngày 11 và 12.10. Ước tính lãi suất các kỳ hạn giao dịch như qua đêm, 1 tuần và 1 tháng đều lần lượt tăng mạnh trong đó có lãi qua đêm thậm chỉ lên tới 16%/năm, kỳ hạn 1 tuần lên quanh mức 18%/năm và thậm chí lên tới 20%/năm ở kỳ hạn 1 tháng.

    Chưa dừng ở mức trên, trong hai ngày cuối tuần, lãi suất giao dịch trên thị trường liên NH theo ghi nhận của một số Cty chứng khoán thậm chí còn lên tới 22%/năm ở kỳ hạn 1 tháng và dạo động quanh mức 18-21%/năm một số kỳ hạn giao dịch ngắn khác.

    NHNN cũng ghi nhận các biến động của mặt bằng lãi suất giao dịch trên thị trường liên NH sau khi có các điều chỉnh lãi suất. Số liệu mới nhất được cơ quan này cập nhật trong ngày 12.10 cho thấy, lãi suất bình quân liên NH các kỳ hạn qua đêm, 1 tuần, 2 tuần đến 1 tháng tăng dần từ mức 13,4% đến 14,69%.

    Trong đó, hai kỳ hạn 2 tuần và 1 tháng lần lượt có lãi suất bình quân là 14,07% và 14,69%/năm. So với hai ngày trước đó, ngày 10.10, lãi suất cao nhất ở các kỳ hạn này chỉ là 13,78% trong lúc lãi suất thấp nhất ở kỳ hạn qua đêm chỉ ở mức 12,09%. Doanh số giao dịch ở kỳ hạn qua đêm trong ngày 12.10 vẫn chiếm chủ yếu với 12.259 tỉ đồng và kỳ hạn 1 tuần có doanh số giao dịch là 6.568 tỉ đồng. Trên thị trường này, doanh số vay mượn các kỳ hạn dài 3-12 tháng chỉ ở mức thấp với vài trăm tỉ đồng cho mỗi kỳ hạn.

    Tái cơ cấu ngành ngân hàng?

    Tác động dây chuyền của lãi suất liên NH tăng cao với bài toán thanh khoản của các NH trong bối cảnh mặt bằng lãi suất đầu vào nhà nhà giống nhau thực tế được nhiều tổ chức đầu tư đưa ra từ rất sớm. Động thái tăng lãi suất điều hành sẽ làm tăng lãi suất liên NH, theo nhiều đánh giá, sẽ ảnh hưởng đến thanh khoản các NH nhỏ nhiều nhất, bởi các nhà băng nhóm này thường không nắm giữ nhiều giấy tờ có giá và do đó việc huy động thanh khoản chủ yếu phụ thuộc vào vay liên NH và tái cấp vốn.

    Cùng với việc hút ròng trên thị trường mở, động thái nâng một số lãi suất điều hành của NHNN mang đến giả thiết là cơ quan này muốn sàng lọc để tái cơ cấu lại các NH là hoàn toàn hợp lý. Khi đưa ra giả thiết này, nhóm chuyên gia của Cty Chứng khoán Thăng Long cũng cho rằng, việc nâng lãi suất tái cấp vốn còn khiến cho kỳ vọng lãi suất giảm nhanh trở nên khó khăn hơn.

    Trong báo cáo được đưa ra cuối tuần qua, Cty Chứng khoán TPHCM (HSC) cho rằng, với việc các NH nhỏ gặp khó khăn về thanh khoản do vốn huy động tiền đồng dần giảm sút và lãi suất liên NH kỳ hạn ngắn tăng mạnh trong 10 ngày gần đây, chủ trương củng cố ngành NH trở nên cấp bách hơn. Việc trần lãi suất 14% được áp dụng chặt được cho là sẽ buộc các NH nhỏ phải dùng đến kênh tái cấp vốn để có vốn hoạt động và đây được coi là công cụ chính để thực hiện mục tiêu loại bỏ các NH nhỏ và yếu kém.

    Trên tinh thần cuộc họp của BCH Trung ương Đảng mới đây nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết của việc củng cố ngành ngân hàng, HSC cho rằng, NHNN đang chuẩn bị thực hiện một lộ trình theo đó sẽ có các bước chuẩn bị cần thiết cho việc sáp nhập và tái cơ cấu ngành NH.

    “Thành thực mà nói, NHNN đã và đang chuẩn bị cho điều này trong nhiều năm” – HSC viết trong báo cáo tuần qua. Cũng theo đơn vị này, khung pháp lý cho phép NHNN nắm cổ phần tại các NH yếu kém đã được ban hành từ đầu năm và hiện tại, dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi hiện tại đang được Quốc hội xem xét sẽ là một trong những bước chuẩn bị cuối cùng cho một khung pháp lý hoàn chỉnh.
  6. long701

    long701 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2011
    Đã được thích:
    34
    Không còn lý do để tiếp tục giữ lãi suất cao


    Hoạt động của ngân hàng đã bước đầu đi vào nề nếp, lãi suất đã giảm nhưng chưa thực sự hợp lý cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
    Thông tư 30 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định lãi suất cao nhất với tiền gửi dưới 1 tháng là 6%/năm; trên 1 tháng không vượt quá 14%/năm. Theo các chuyên gia kinh tế, đây là cơ hội để hạ lãi suất và đưa hoạt động ngân hàng vào nề nếp.

    Lãi suất sẽ không còn “mấp mô”?

    Tại cuộc họp mới đây của Hiệp hội Ngân hàng (VNBA) với 12 NHTM phía Bắc, bà Dương Thu Hương - Tổng thư ký VNBA cho rằng: Lãi suất đã đến lúc không thể ở mức cao mãi. Lần đầu tiên trong nhiều tháng, kể từ năm 2008 đến tháng 7-2011, tốc độ tăng của nguồn vốn (10,72%) đã lớn hơn tốc độ tăng trưởng của tín dụng (8,63%).

    Sau khi NHNN ban hành Thông tư 30, theo VNBA, từ đầu tháng 10 đến nay, xu hướng thị trường đang tốt lên. Các ngân hàng đã nghiêm túc thực hiện lãi suất cho vay từ 17-19%/ năm, lãi suất huy động 14%. Chưa phát hiện ra việc ngân hàng mặc cả lãi suất, tranh giành khách.

    Tuy nhiên, các NHTM cũng cho biết: Khi thực hiện nghiêm trần lãi suất huy động đã có sự dịch chuyển đáng kể nguồn vốn huy động, và có sự dịch chuyển nguồn vốn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Thực tế này khiến các ngân hàng nhỏ gặp khó khăn.

    Ông Trần Anh Tuấn, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Hàng hải (MSB) cho biết lượng tiền huy động giảm rất mạnh. Nhìn thấy lượng tiền từ ngân hàng nghiêm túc thực hiện sang ngân hàng chưa nghiêm túc. Việc vượt trần lãi suất được thực hiện bằng các biện pháp rất tinh vi. Hiện đang có một lượng tiền không nhỏ chuyển dịch ngay trong nhóm 12 ngân hàng lớn (chiếm 80% thị phần). Hiện tượng này đi ngược lại chủ trương của toàn hệ thống làm cho hoạt động của hệ thống ngân hàng không minh bạch.

    Chia sẻ quan điểm này, ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Kỹ thương (Techcombank) nhận định vẫn còn hiện tượng ôm tiền từ ngân hàng này sang ngân hàng kia. Vì thế, ngoài việc tăng cường hoạt động của các cơ quan quản lý thì cần phát huy việc giám sát lẫn nhau giữa các ngân hàng.

    Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng, đây là sự điều chỉnh cần thiết để các luồng vốn của ngân hàng được đưa về đúng quy luật, rõ ràng, minh bạch, và đúng bản chất kinh tế. Từ thực tế này, VNBA kiến nghị, NHNN nên có chính sách thích hợp với các ngân hàng nhỏ để họ có đủ năng lực thanh khoản góp phần ổn định mặt bằng lãi suất.

    Các NHTM cũng bày tỏ việc không muốn lãi suất cao mà chỉ quan tâm đến chênh lệnh lãi suất đầu vào và đầu ra. “Nhiều ngân hàng nói là họ quá mệt mỏi khi khách hàng đến mặc cả, kỳ kèo mức lãi suất. Chính điều này đã biến hoạt động của ngân hàng thành một cái chợ. Trên thế giới, không có ngân hàng nước nào có cách giao dịch phải mặc cả, phải lách luật như ở Việt Nam trong mấy năm qua. VNBA kêu gọi các hội viên hãy tự giác chấp hành quy định trần lãi suất của NHNN để minh bạch hoạt động của mình” – bà Dương Thu Hương nói.

    Mới chỉ là bước đầu

    Trao đổi về việc thực hiện Thông tư 30, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành cho rằng: Thông tư này góp phần ổn định trật tự của một thị trường đang hỗn loạn. Đó là biện pháp tình thế trong giai đoạn này nhưng giải pháp này không giải quyết được vấn đề nhu cầu tín dụng với lãi suất hợp lý cho DN hoạt động và cho nền kinh tế vận hành ổn định, bền vững.

    Đó chỉ là một giai đoạn để phần nào đưa lại trật tự trong hoạt động của ngân hàng, bắt đầu bằng mức trần lãi suất huy động và áp dụng những biện pháp cần thiết để đem lại trật tự và nghiêm túc xử lý những vấn đề vi phạm giúp hệ thống ngân hàng quen với lối làm việc có kỷ luật.

    Việc NHNN gặp 12 NHTM lớn để chia sẻ thông tin là một tín hiệu tốt với thị trường. Tuy nhiên, các thông điệp và hành động thời gian qua vẫn chưa giải quyết được nhu cầu căn bản của nền kinh tế. Kinh tế Việt Nam đang hội nhập thế giới vì thế các chính sách phải tạo điều kiện để DN phát triển ổn định, bền vững, có khả năng, điều kiện cạnh tranh với thế giới.

    Các DN đều khẳng định lãi suất 17-18% thì không hoạt động được, chỉ cầm chừng chứ không phải là lãi suất để phát triển sản xuất. Trong thời kỳ hội nhập, DN phải cạnh tranh với DN toàn thế giới mà lại phải vay với lãi suất cao như vậy thì lấy đâu ra sức để cạnh tranh. “DN EU hoạt động với lãi suất 3-4%, châu Mỹ là 2-3%, Mỹ khoảng 3-3,5%, Nhật Bản là 2-3% và Trung Quốc khoảng 5-6%” – chuyên gia Bùi Kiến Thành dẫn chứng.

    Vấn đề căn bản hiện nay, theo ông Bùi Kiến Thành, là NHNN chưa giải quyết được nguồn tín dụng đầy đủ cho DN sản xuất kinh doanh về số lượng cũng như về chất lượng để có thể hoạt động được. “Bao nhiêu năm nay, tín dụng chảy về các lĩnh vực không phải sản xuất kinh doanh. Bây giờ phải xem lại, lĩnh vực sản xuất kinh doanh cần dùng bao nhiêu và lãi suất tới mức nào là họat động ổn định. DN không tiếp cận được nguồn vốn hợp lý dưới 10%, đó là trách nhiệm của cơ quan quản lý” – ông Bùi Kiến Thành nói.

    Với quan điểm áp dụng mức lãi suất cao để kiềm chế lạm phát, ông Thành cho rằng, ở Việt Nam, CPI cao một phần nào đó là do chính sách tiền tệ, tài khóa, ngoài ra còn do các tác nhân khác. Chúng ta phải nghiên cứu các tác nhân khác và giải quyết một cách nghiêm túc, ví dụ như rò rỉ đầu tư công, hoạt động không hiệu quả của các sàn chứng khoán, tham nhũng, mãi lộ…

    “Đừng bắt chính sách tiền tệ phải gánh hết tội vạ của nền kinh tế mà không giải quyết những tác nhân kia. Không thể bắt lãi suất phải giải quyết các vấn đề trong khi nền kinh tế hoạt động không hợp lý” – ông Bùi Kiến Thành nói.
  7. long701

    long701 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2011
    Đã được thích:
    34
    Tỷ giá USD ngân hàng vượt 20.900 đồng


    Ngân hàng Nhà nước công bố, tỷ giá USD bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 17/10 ở mức 20.708 đồng, không đổi so với ngày thứ Bảy 15/10.
    Tỷ giá trần cho các NHTM hôm nay là 20.915 đồng.

    Mở đầu tuần mới, các ngân hàng đồng loạt nâng tỷ giá USD thêm 20 đồng theo điều chỉnh của NHNN hôm thứ Bảy vừa qua, với giá bán ra kịch trần và mua vào sát trần.

    Tại Ngân hàng BIDV và Sacombank, tỷ giá USD hôm nay niêm yết tại 20.900 – 20.915 đồng.

    Tỷ giá của Eximbank là 20.905 - 20.915 đồng.

    Tại ngân hàng VIB, tỷ giá hôm nay là 20.910 – 20.915 đồng, tương tự như tỷ giá niêm yết của Vietcombank.

    Mức trên 20.900 đồng cũng là cao nhất của tỷ giá USD ngân hàng kể từ trung tuần tháng 5 tới nay.


    Nguồn: SBV
    Ngoài thị trường tự do, theo nguồn tin Vnexpress, tỷ giá USD cuối tuần qua ở quanh 21.400 đồng, không có sự đột biến nào so với phiên trước đó, thậm chí có những điểm thu đổi ngoại tệ hạ giá mua vào khoảng 20 – 30 đồng.

    Trong 10 ngày qua, tỷ giá USD liên ngân hàng đã tăng tổng cộng 80 đồng với 7 lần điều chỉnh lên, thì giá USD ngoài thị trường tự do lại giảm gần 300 đồng. Cũng theo Vnexpress, sở dĩ có hiện tượng biến động trái chiều này là do nguồn cung ngoài “chợ đen” dồi dào hơn, trong khi nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ cuối năm của các doanh nghiệp ngày càng lớn, đẩy giá USD ngân hàng lên cao.
  8. long701

    long701 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2011
    Đã được thích:
    34
    PVL: Tổng CTCP Phong Phú-Cổ đông lớn-đăng ký mua 500.000 CP, bán 3,42 triệu CP


    Giao dịch dự kiến thực hiện từ 18/10 đến 9/12/2011.
    Giao dịch cổ phiếu của Tổng CTCP Phong Phú - Cổ đông lớn CTCP Địa ốc Dầu khí (PVL) như sau:

    Tên tổ chức thực hiện giao dich: Tổng CTCP Phong Phú

    Số lượng cổ phiếu nắm giữ trước khi thực hiện giao dịch: 3.417.000 CP (tỷ lệ 6,83%)

    Số lượng cổ phiếu đăng ký bán: 3.417.000 CP

    Số lượng cổ phiếu đăng ký mua: 500.000 CP

    Mục đích thực hiện giao dịch: Cơ cấu lại danh mục đầu tư của Công ty

    Phương thức giao dịch: Thỏa thuận và khớp lệnh

    Ngày dự kiến bắt đầu giao dịch: 18/10/2011

    Ngày dự kiến kết thúc giao dịch: 09/12/2011.
  9. long701

    long701 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2011
    Đã được thích:
    34
    BVS: Quý 3 lãi sau thuế 13,42 tỷ đồng


    Biến động giá BVS trong 6 tháng
    Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) sẽ là công ty tư vấn thực hiện sáp nhập CTCP Vinpearl vào CTCP Vincom.
    Theo thông tin từ BVSC, trong Q3, công ty đạt 49,68 tỷ đồng doanh thu và 13,42 tỷ đồng LNST.

    Hai mảng hoạt động đóng góp nhiều nhất cho kết quả kinh doanh là Môi giới và Tư vấn. Trong Q3, công ty đứng thứ 7 về thị phần môi giới cổ phiếu tại HoSE (tăng 1 bậc so với quý trước) với 3,4 thị phần. Tại HNX, sau gần 03 năm không nằm trong Top 10 công ty chiếm thị phần cao nhất, BVSC đã quay trở lại vị trí thứ 8 với 3,92% thị phần đồng thời BVSC đứng vị trí thứ 02 về thị phần đối với hoạt động môi giới trái phiếu trên sàn HNX.
    BVSC cũng cho biết sẽ thực hiện tư vấn cho thương vụ sáp nhập CTCP Vincom vào CTCP Vinpearl.

    Thời gian vừa qua, công ty đã thực hiện tư vấn cho nhiều thương vụ sáp nhập như Sáp nhập Kinh Đô Miền Bắc, Kido’s vào CTCP Kinh Đô; sáp nhập Hapaco Yên Sơn và Hapaco Hải Âu vào CTCP Tập đoàn Hapaco…

    BVSC đánh giá thương vụ tư vấn sáp nhập giữa VinPearl & Vincom sẽ là thương vụ M&A điển hình trong năm 2011 tại VN với vốn điều lệ của Công ty CP Vincom (VIC) gần 4000 tỷ, giá trị vốn hóa thị trường khoảng 37.000 tỷ; Công ty CP VinPearl (VPL) vốn điều lệ trên 2000 tỷ, vốn hóa thị trường trên 17.000 tỷ, sau sáp nhập sẽ thành công ty có vốn hóa gần 3 tỷ USD, lớn nhất TTCK Việt Nam.
  10. long701

    long701 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2011
    Đã được thích:
    34
    Lộ chiêu “lỗ giả lời thật”


    Sau TP.HCM, Lâm Đồng, mới đây tại Bình Dương lại “lòi” ra thêm hàng loạt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ lỗ thành lãi sau khi cơ quan thuế đẩy mạnh hoạt động chống chuyển giá.
    Sau TP.HCM, Lâm Đồng, mới đây tại Bình Dương lại “lòi” ra thêm hàng loạt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ lỗ thành lãi sau khi cơ quan thuế đẩy mạnh hoạt động chống chuyển giá.
    Dù đã bị “điểm mặt chỉ tên” nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn tìm cách biện bạch cho lý do “lỗ giả” của mình.




    Tăng 33 lần nhưng vẫn lỗ

    Theo hồ sơ của Cục Thuế Bình Dương, Công ty TNHH Sung Shin Vina (Hàn Quốc) có trụ sở tại Khu công nghiệp (KCN) Mỹ Phước 2, Bến Cát, Bình Dương, hoạt động tại Việt Nam từ năm 2007-2010 liên tục báo cáo lỗ. Số lỗ lũy kế đã lên đến hơn 55 tỉ đồng trong bốn năm. Tuy nhiên, nghịch lý ở chỗ dù liên tục thua lỗ nhưng doanh nghiệp (DN) này lại liên tục mở rộng sản xuất với doanh thu năm 2010 tăng gấp 33 lần so với năm 2007.

    Nguyên nhân dẫn đến những khoản lỗ khổng lồ này là do công ty đã nhập khẩu nguyên liệu đầu vào của công ty mẹ hoặc từ các chi nhánh của công ty mẹ với giá cao hơn rất nhiều so với giá mà các DN cùng ngành nghề nhập về. Tuy nhiên sản phẩm (môtơ điện các loại) xuất bán cho công ty mẹ hoặc giao hàng cho các công ty khác theo chỉ định của công ty mẹ bình quân trong các năm từ 2007-2010 đều thấp hơn giá thị trường 10-15%.

    Từ thực tế, Cục Thuế Bình Dương đã thu thập, đối chiếu thông tin..., cuối cùng DN này đã đồng ý xác định lại giá bán sản phẩm của công ty cho công ty mẹ theo giá thị trường. Từ chỗ lỗ lũy kế hơn 55 tỉ đồng, công ty đã có lãi hơn 88 tỉ đồng.

    Một DN khác là Công ty TNHH Myung Jin Vina chuyên sản xuất, gia công linh kiện ôtô tại KCN Mỹ Phước 3, Bến Cát, Bình Dương cũng sử dụng chiêu giao dịch liên kết nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế. Cụ thể Myung Jin Vina chủ yếu mua nguyên liệu đầu vào từ công ty mẹ là Tập đoàn Myung Jin Tec ở Hàn Quốc, sau đó bán lại toàn bộ thành phẩm cho một đơn vị khác trong cùng tập đoàn là Công ty TNHH DJV, cùng đóng trụ sở tại KCN Mỹ Phước 3, với giá thấp hơn giá thị trường.

    Sau khi làm việc với cơ quan thuế Bình Dương, phía DN đã điều chỉnh mức giá và giảm lỗ cho công ty năm 2008 là hơn 3,6 tỉ đồng. Qua hai năm 2008-2009, công ty đã điều chỉnh giảm giá vốn 3,4 tỉ đồng, điều chỉnh tăng doanh thu 5,9 tỉ đồng. Từ đó ra quyết định thu hồi thuế, phạt vi phạm với số tiền hơn 456 triệu đồng.

    Cũng sử dụng chiêu này, Công ty TNHH Ngũ Kim Chính Nguyên có trụ sở tại Tân Uyên, Bình Dương, chuyên sản xuất các sản phẩm máy tính, phụ tùng xe hơi, xe gắn máy, cửa nhôm, cửa thép... cũng có kết quả kinh doanh thua lỗ liên tục trong năm 2006-2007.

    Qua làm việc đồng thời căn cứ vào bảng kê chi tiết giá bán ra trong nước và xuất khẩu năm 2006-2007 do Công ty TNHH Ngũ Kim Chính Nguyên Việt Nam cung cấp, cơ quan thuế nhận thấy giá công ty bán cho công ty có quan hệ liên kết (Công ty Li Feng International Limited) luôn thấp hơn giá sản phẩm cùng loại công ty bán ra tiêu thụ thị trường nội địa. Từ đó buộc DN phải xác định lại giá bán theo giá thị trường dẫn đến kết quả kinh doanh có lãi, làm phát sinh thuế thu nhập DN.


    Hai dạng giao dịch liên kết của các doanh nghiệp FDI nhằm triệt tiêu lợi nhuận tại VN - Dữ liệu : A.Hồng - Đồ họa: V.Cường - Ảnh: T.V.N.
    Không thừa nhận... lãi

    Lãnh đạo Cục Thuế Bình Dương cho biết qua thu thập, đối chiếu thông tin, nơi này đã xác định “chiêu” lách thuế của DN là ký hợp đồng mua bán khép kín với công ty mẹ tại nước ngoài, hoặc thực hiện mua bán lòng vòng với các công ty trong cùng một nhóm. Từ đó các khoản lợi nhuận được biến thành các khoản lỗ nhằm trốn thuế.

    Ông Trương Cao Nghĩa, trưởng phòng thanh tra thuế số 3 Cục Thuế Bình Dương, cho rằng cái khó của cơ quan thuế ở chỗ các DN hoàn toàn chủ động và có nhiều lý do để biện minh hành động của mình.

    Ông Huỳnh Công Lý, kế toán trưởng Công ty TNHH Sung Shin Vina, cho rằng mặt hàng mà DN nhập nguyên liệu cũng như sản xuất là mặt hàng đặc thù, không có mặt hàng tương tự để so sánh. Do vậy DN khá băn khoăn khi cơ quan thuế áp mức giá thị trường để xác định lại doanh thu. “Mặt khác, do còn được miễn thuế nên chúng tôi chưa làm quy củ lắm, năm nay sẽ làm chi tiết hơn” - ông Lý nói.

    Ông kiến nghị cần có nguồn dữ liệu về giá rõ ràng hơn bởi rất nhiều DN sản xuất mặt hàng đặc thù để tính thuế. Còn hiện nay “cơ quan thuế tính sao chúng tôi nghe vậy chứ chưa có thời gian để... đi hỏi lại cho kỹ”.

    Tương tự, bà Ngô Thị Yên Hoài, kế toán trưởng Công ty TNHH Myung Jin Vina, giải thích công ty sản xuất một bộ phận nhỏ của hộp số xe hơi. Đây là những nguyên liệu đặc thù nên tìm một mặt hàng để đối chiếu ở Việt Nam rất khó.

    Theo bà, Cục Thuế Bình Dương cho rằng giá nhập về của công ty là quá cao nhưng công ty cung cấp đầy đủ hóa đơn thì cơ quan thuế không chấp nhận. “Cơ quan thuế cứ nói công ty chúng tôi kê khai mua cao bán thấp nên dẫn đến số liệu lỗ” - bà Hoài nói.

    Trả lời câu hỏi “Vì sao DN thấy lỗ mà vẫn bán, vẫn mở rộng sản xuất?”, bà Hoài cho biết: “Có nhiều lý do từ công ty mẹ nên không biết hết. Nhưng cái gì cũng thế, bán cho công ty mẹ cũng phải ưu đãi hơn”.

    Bà cũng cho rằng những năm đầu mới hoạt động chi phí rất cao, chưa ổn định nên phải có chi phí chạy thử nghiệm máy, vật phẩm dẫn đến giá thành cao. Năm 2010 công ty mới có lời thì cơ quan thuế lấy mốc làm chuẩn so sánh lại các năm trước, nên năm 2009 thay vì lỗ thì theo cách tính này công ty lại có lời.


    Số lượng các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ và lãi trên địa bàn TP.HCM qua các năm - Đồ họa: V.Cường
    Công khai việc nộp thuế

    Hiện nay Cục Thuế Bình Dương đang quản lý 2.020 dự án đầu tư có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), với tổng số vốn đăng ký hơn 14 tỉ USD, hơn 1.700 DN đang hoạt động. Thế nhưng từ năm 2006 đến nay cho thấy 50% DN FDI kinh doanh thua lỗ. Cục Thuế Bình Dương đã yêu cầu các DN kê khai thông tin giao dịch liên kết nhằm làm cơ sở xác lập danh sách các DN có dấu hiệu chuyển giá.

    Tuy nhiên trong số 1.425 DN kê khai nộp báo cáo tài chính, quyết toán thuế năm 2010 chỉ có 253 DN kê khai thông tin giao dịch liên kết theo mẫu của cơ quan thuế.

    Theo ông Lê Việt Dũng - phó giám đốc Sở Kế hoạch - đầu tư Bình Dương, thực trạng khai báo lỗ để trốn thuế chắc chắn là có, có điều chỉ tận mặt, bắt tận tay là không dễ. Ông cũng cho rằng đây là một vấn đề phức tạp mà nếu chỉ đứng ở góc độ của địa phương rất khó giải quyết.

    Ông Võ Thanh Bình, cục phó Cục Thuế Bình Dương, thừa nhận khoảng 700 DN FDI tại địa bàn Bình Dương (tương đương 50%) báo lỗ. Trong đó nhiều DN lỗ 3-5 năm liên tục nhưng vẫn mở rộng sản xuất. Đã có nhiều ý kiến cho rằng nên “lập ngân hàng dữ liệu về giá”, tuy nhiên cũng không đơn giản vì DN có nhiều lý lẽ. Chẳng hạn giá gia công một chiếc áo ở Malaysia là 10 đồng mà cũng với công đoạn đó ở Việt Nam giá chỉ 7 đồng. DN viện cớ vào một vài chi tiết khác nhau như: một đường chỉ, hai đường chỉ..., trong khi chúng ta lại không có áo ở Malaysia để đối chiếu.

    “Phải có giải pháp căn cơ từ tầm vĩ mô như thỏa thuận trước với nhà đầu tư về mức lợi nhuận theo kế hoạch hoặc mức giá ngay khi cam kết đầu tư” - ông Bình nói.

    Ông Trương Cao Nghĩa cho rằng từ những kết quả ban đầu đã phần nào đánh động đến các DN FDI khác trên địa bàn. Trong điều kiện chưa thể quản lý hết mọi dữ liệu như hiện nay, cơ quan thuế chủ yếu vận động để DN thấy được vấn đề, từ đó tác động đến nhận thức của DN về nghĩa vụ thuế.

    Theo ông Đỗ Hoàng Anh Tuấn - thứ trưởng Bộ Tài chính, công tác chống chuyển giá bước đầu đã đạt được kết quả tích cực, nhất là tại các cục thuế địa phương như Lâm Đồng, Bình Dương, TP.HCM... Đến nay có khoảng 20 địa phương đã có những thành công bước đầu trong công tác chống chuyển giá. Qua kiểm tra tại gần 500 DN FDI báo lỗ trên cả nước, kết quả đã giảm lỗ trên 3.600 tỉ đồng, tăng thu ngân sách khoảng 1.200 tỉ đồng.

    Ông Colin Clavey (chuyên gia Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế - OECD):
    Phải xây dựng đội ngũ chuyên gia tư vấn
    Với các quy định chuyển giá cho lãi tiền vay từ DN ở nước ngoài cho DN ở VN (ví dụ khoản vay của công ty mẹ ở Mỹ cấp cho công ty ở VN): thứ nhất, các quy định về chuyển giá phải quản lý được mức lãi suất của khoản vay đó, do đó nếu lãi suất ghi trong hợp đồng cao hơn lãi suất trên thị trường thì cơ quan quản lý có quyền áp dụng lãi suất thị trường khi tính thuế.
    Ngoài ra, để xác định có hay không có chuyển giá thì có thể cân nhắc hành vi của DN. Ví dụ: nếu DN cứ triền miên khai lỗ sau cả chục năm hoạt động thì có thể xem xét các giao dịch giữa họ và một bên không liên kết xem họ có tiến hành các thương thảo để giảm giá hay cứ ký hợp đồng bình thường và chịu lỗ.
    Theo kinh nghiệm của tôi, để thực thi quy định chuyển giá, chúng ta cần có đội ngũ chuyên gia chuyên sâu để có thể tư vấn cho các chuyên viên là người trực tiếp tiến hành thẩm tra việc chuyển giá ở các DN.
    H.GIANG ghi

Chia sẻ trang này