Chút Gieo Duyên 03: Núi Tu Di Chúa VNI 18xx 25xx

Discussion in 'Thị trường chứng khoán' started by FBV, Feb 3, 2025.

7941 người đang online, trong đó có 769 thành viên. 12:39 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 2 người đang xem box này(Thành viên: 1, Khách: 1)
thread_has_x_view_and_y_reply
  1. FBV

    FBV Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    Jul 29, 2015
    Likes Received:
    355,028
    CHỮ QUỐC NGỮ Ở CUỐI SÔNG THU BỒN

    Nếu mở cuốn "Từ điển Việt -Bồ - La" xuất bản tại Roma năm 1651, dòng đầu tiên bạn đọc được sẽ là tiếng Việt – nhưng không phải thứ tiếng Việt đã qua chuẩn hóa theo giọng Hà Nội, cũng không phải giọng Huế hay Sài Gòn. Đó là tiếng Việt mang đậm âm sắc Quảng Nam, một vùng đất nơi con chữ lần đầu được dùng để phiên âm lời ăn tiếng nói của người Việt. Từ “chẳng” được viết thành “chảng”, “tôi” viết là “tui”, “tao” thành “tau”, “mày” ghi là “maai”, và “và” được chép thành “ùa”. Chữ Quốc ngữ, như vậy, đã từng là giọng Quảng trước khi thành hệ thống hoàn chỉnh như ngày nay.

    Không dừng lại ở đó, trong một văn bản hiếm hoi còn sót lại từ hội nghị các giáo sĩ Dòng Tên tại Macao khoảng giữa thế kỷ 17, người ta tìm thấy câu rửa tội được chấp thuận để sử dụng bằng tiếng Việt: "Tau rữa maai nhân danh Cha ùa Con ùa Spirito Santo." Chỉ một dòng ngắn, nhưng vang lên trọn vẹn âm hưởng của người Quảng thì cách phát âm không thể lẫn, quen thuộc với bất kỳ ai từng lớn lên ở Quảng Nam. Trong câu chữ ấy, người ta có thể nghe thấy tiếng người Quảng gọi nhau trên ruộng, nghe tiếng các cha quát con giữa buổi trưa nắng, nghe cả sắc âm hơi gằn mà thẳng như mặt đất miền Trung.

    Không cần tìm đâu xa, chữ Quốc ngữ, thứ chữ ngày nay cả dân tộc đang dùng để viết, để học, để yêu nhau qua tin nhắn và cãi nhau trên mạng thai nghén từ Quảng Nam. Từ những buổi học lặng lẽ giữa lòng Dinh trấn Thanh Chiêm đầu thế kỷ 17, nơi giáo sĩ phương Tây lần đầu cầm bút dùng mẫu tự Latinh viết lại tiếng nói của người Quảng bằng chính cách người Quảng phát âm.

    Năm 1619, giáo sĩ Francisco de Pina, một tu sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha, đặt chân đến An Nam qua cửa ngõ thương cảng Hội An, không phải để buôn bán, mà để để truyền đạo rồi học tiếng Việt.
    Từ Hội An, ông đi ngược lên Thanh Chiêm – khi ấy là Dinh trấn Quảng Nam, trung tâm hành chính và quân sự của cả vùng Đàng Trong. Trong thư gửi về cho Dòng Tên, Francisco de Pina viết: “Ở đây, tiếng nói chuẩn hơn, người ta dễ học hơn, không bị pha nhiều giọng.” Thanh Chiêm không phải là một đô thị sầm uất theo nghĩa buôn bán, mà là một vùng đất ven sông có đông quan lại, nho sĩ và dân bản xứ sinh sống bằng nghề canh nông, thủ công.

    Chính môi trường giao tiếp tự nhiên, mạch lạc, không pha tạp ấy đã khiến nơi đây trở thành điểm khởi đầu để tiếng Việt được phiên âm bằng mẫu tự Latinh, đặt nền móng cho sự hình thành chữ Quốc ngữ sau này.

    Pina sống giữa họ, học tiếng của họ, giảng đạo bằng tiếng Việt và bắt đầu thử nghiệm ghi âm tiếng Việt bằng chữ Latinh. Ông mua nguyên một căn nhà rộng và to của một người dân Quảng Nam để ở rồi đón học trò bản xứ đến cùng ở, vừa học vừa dạy lẫn nhau. Người Quảng khi ấy, có thể là một cậu bé chăn trâu, một ông đồ nho trong làng một tín hữu mới rửa tội, đều trở thành người thầy đầu tiên của chữ Quốc ngữ cho ông.

    Và trong những buổi sinh hoạt thường ngày ấy, các giáo sĩ phương Tây không chỉ học tiếng Việt mà còn tập sống đúng kiểu người Quảng. Họ làm quen với mỳ Quảng, cá nục kho dưa gang, cá chuồn kẹp nghệ, bánh tráng cuốn thịt heo, cơm chan mắm cái rưới ớt bột. Những món ăn tưởng bình dị ấy lại giúp họ nghe rõ hơn nhịp điệu của giọng Quảng, hiểu hơn vì sao tiếng ở vùng Thu Bồn thẳng mà ấm, mạnh mà tình.

    Không có những bữa ăn đó, họ sẽ không bao giờ hiểu vì sao người Quảng phát âm chút nặng ở cuối chữ, hay vì sao thanh điệu cứ lên xuống như nhịp chèo ghe trên sông Thu Bồn.

    Người ta không thể biết tên của những người đã dạy tiếng Việt Francisco de Pina với các từ rẹt địa phương như: Răng, rứa, hỉ, mô tê ra răng cho ông hiểu và đọc đúng, nhưng chắc chắn họ nói bằng giọng Quảng Nam. Và khi Pina bắt đầu phiên âm tiếng Việt ra chữ Latinh, ông ghi chính những gì mình nghe được như: “tui ciam biet”, “chảng có chi sốt”, “eng ăn mẹc tê”. Từ đó, một thứ chữ mới ra đời, mang giọng nói đặc sệt thổ âm của vùng hạ lưu sông Thu Bồn

    Nói tiếng Việt bằng giọng Quảng không dừng ở Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes, người sau này được xem là người hệ thống hóa chữ Quốc ngữ, cũng học tiếng Việt tại Thanh Chiêm, từ chính Pina và các cộng sự bản xứ. Sau này, khi ông xuất bản Từ điển Việt Bồ La và Phép giảng tám ngày, tất cả vẫn mang âm sắc Quảng Nam rõ rệt: từ cách đặt thanh điệu đến cách viết dấu, từ lựa chọn mẫu tự đến ngữ pháp thô sơ nhưng gần gũi.

    Những giáo sĩ cùng thời như Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa, Christoforo Borri… đều học từ dân địa phương và viết theo cách phát âm bản xứ. Có bản đồ vẽ “Thanh Chiêm” là “Cacham”, rồi “Cacciam”, có bản viết là “Dinh Cham”, rồi dần thành “Kẻ Chàm”. Sự tiến hóa đó không phải do ai quyết định, mà do tai người Quảng và miệng người Quảng dắt chữ đi.

    Thậm chí đến khi Alexandre de Rhodes rời Việt Nam, tiếng Việt mà ông mang theo về châu Âu vẫn là giọng Quảng Nam. Một linh mục người Ý tên Marini từng “phàn nàn” rằng ông Đắc Lộ nói tiếng Việt “giọng Quảng, thô kệch, quê mùa”. Chê là chê vậy, nhưng sách vở của Đắc Lộ in ở Roma năm 1651 lại chính là chuẩn mực đầu tiên của chữ Quốc ngữ. Và chuẩn ấy, lạ thay, không phải giọng Hà Nội mà là khẩu âm Quảng Nam.

    Dinh trấn Thanh Chiêm, nơi Pina và Alexandre de Rhodes từng sống, từng viết, từng học, đã từng là học viện Việt ngữ đầu tiên, nơi người bản xứ dạy tiếng Việt cho người phương Tây và cùng nhau thử nghiệm cách ghi lại tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh. Trong những lớp học không bảng đen, không giáo án ấy, có những thầy đồ Quảng Nam giảng Nôm, có giáo sĩ Bồ Đào Nha tra âm, và có cả những đứa trẻ Quảng chạy chơi trong sân, vô tình đọc to lên một chữ mà người nước ngoài đang loay hoay chưa phát âm được.

    Tôi thường hình dung lớp học đầu tiên của “trường quốc ngữ” không phải trong trường, mà trong ngôi nhà ngói ba gian, dưới tán cau, trên chiếc phản gỗ ở Thanh Chiêm. Một bên là ông Tây gò lưng chép chữ, một bên là ông đồ già bắt lỗi phát âm. Cạnh đó là thằng nhỏ con nhà dân, ngồi ăn cơm nguội với cá nục kho, vừa nhai vừa nhắc: “Không phải cha, mà là choa!” – kéo dài âm “a” cho đúng tông Quảng. Cứ thế mà thành chữ.

    Nhưng việc truyền bá chữ Quốc ngữ thời đó không hề dễ dàng. Trong bối cảnh triều Nguyễn cấm đạo nghiêm ngặt, việc người dân ở vùng Thanh Chiêm âm thầm cưu mang các giáo sĩ phương Tây là điều không dễ. Chính Francisco de Pina từng viết rằng, ông đã thiết lập quan hệ tốt với quan trấn thủ Quảng Nam.

    Sự cởi mở từ tầng lớp nho sĩ địa phương đã tạo điều kiện cho ông thành lập một lớp học tiếng Việt ngay tại Dinh trấn, quy tụ các giáo sĩ phương Tây và nho sinh bản xứ. Lớp học ấy được xem là hình thái đầu tiên của “học viện Việt ngữ” ở Đàng Trong, nơi tiếng Việt được dạy và học nghiêm túc theo phương pháp mới: dùng chữ Latinh để ghi lại.

    Chữ Quốc ngữ ra đời không từ một viện hàn lâm nào, mà từ sự cộng sinh văn hóa giữa người Quảng Nam và các nhà truyền giáo, từ lòng tin vào lời nói, và từ sự kiên nhẫn học nhau bằng cả tấm lòng. Không hề có ý đồ lớn lao. Không hề nghĩ sau này nó sẽ là chữ của cả dân tộc.

    Không ai trong số những người dân xứ Quảng sống ở thế kỷ 17 nghĩ rằng giọng họ sẽ trở thành bản mẫu cho một hệ thống chữ viết mới. Họ không nhận mình là người làm ra chữ, cũng chẳng ký tên vào sách vở nào. Nhưng chính họ là những người đã nói tiếng Việt đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ, trước khi nó được cả nước dùng.

    Chữ ấy, ra đời không chỉ từ lý trí, mà từ nghĩa tình. Mà từ một miền đất nghèo khó nhưng thừa chữ nghĩa và thừa lòng dũng cảm để mở lòng cho chữ đến ở nhờ rồi trở thành người nhà mãi mãi...
    ---
    T.V
    2TDN and opla like this.
  2. FBV

    FBV Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    Jul 29, 2015
    Likes Received:
    355,028
    Thơ Tình Cuối Mùa Thu
    Xuân Quỳnh
    Cuối trời mây trắng bay
    Lá vàng thưa thớt quá
    Phải chăng lá về rừng
    Mùa thu đi cùng lá
    Mùa thu ra biển cả
    Theo dòng nước mênh mang
    Mùa thu vào hoa cúc
    Chỉ còn anh và em

    Chỉ còn anh và em
    Là của mùa thu cũ
    Chợt làn gió heo may
    Thổi về xao động cả:
    Lối đi quen bỗng lạ
    Cỏ lật theo chiều mây
    Đêm về sương ướt má
    Hơi lạnh qua bàn tay

    Tình ta như hàng cây
    Đã qua mùa gió bão
    Tình ta như dòng sông
    Đã yên ngày thác lũ

    Thời gian như là gió
    Mùa đi cùng tháng năm
    Tuổi theo mùa đi mãi
    Chỉ còn anh và em

    Chỉ còn anh và em
    Cùng tình yêu ở lại...
    - Kìa bao người yêu mới
    Đi qua cùng heo may
    2TDN likes this.

Share This Page