Cuối tuần xin phép DD cho các đệ tử Phật được nghe các bài giảng và phim về Đạo Phật !

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi phongthuyBDS, 01/01/1970.

4063 người đang online, trong đó có 280 thành viên. 23:47 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 158794 lượt đọc và 2008 bài trả lời
  1. chicchoac

    chicchoac Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Đã được thích:
    1.869
    Khái niệm “Đạo Phật nguyên chất” được tôi vay mượn từ thiền sư Nhất Hạnh trong tác phẩm cùng tên được xuất bản vài năm trở lại đây.
    Dùng khái niệm này chúng tôi muốn mô tả về một hình thái đạo Phật do chính đức Phật Thích Ca truyền bá và nó tồn tại đến 300 năm sau khi đức Phật qua đời. Trong văn học của Phật giáo thế giới, người ta gọi là Phật giáo giai đoạn đầu hay là Phật giáo sớm, ở Việt Nam thường gọi là Phật giáo nguyên thủy, mà đúng ra phải là Phật giáo Thượng tọa bộ .
    Phật giáo nguyên thủy là một khái niệm gây ra các tranh cãi và mâu thuẫn hệ phái. “Nguyên chất” ở đây chỉ cho những lời dạy của đức Phật, chưa có sự chỉnh sửa của các nhà biên tập kinh điển. Đạo Phật nguyên chất lấy Tứ diệu đế làm pháp môn duy nhất, cách thức tu tập được thể hiện qua bát chính đạo với ba phương diện: đạo đức, thiền định, trí tuệ.

    Cốt lõi của đạo Phật nguyên chất là xây dựng một thế giới an lạc và hạnh phúc bây giờ và tại đây.
    Ngoài Bát chính đạo, sự thực tập của đạo Phật nguyên chất còn liên hệ đến 37 phẩm trợ đạo mà nội dung của nó đều xoay quanh bát chính đạo, ở phương diện này hay phương diện khác. Yếu tố đa văn và trí tuệ được lặp lại vài lần. Điều này cho thấy đức Phật rất đề cao vai trò của trí tuệ trong việc chuyển hóa khổ đau.
    “Đạo Phật pháp môn” là khái niệm chúng tôi sử dụng để chỉ “đạo Phật *****” do Trung Quốc khởi xướng, lấy những vị khai sáng tông phái làm hệ quy chiếu chân lý. Đạo Phật ***** và đạo Phật pháp môn dựa vào một (vài) bài kinh, tối đa là ba bài kinh làm nền tảng giới thiệu đạo Phật. Cách làm đạo này mang tính phiến diện. Những bài kinh khác thì các hành giả theo các pháp môn này được khích lệ không nên đọc.
    Trong đạo Phật ***** hay đạo Phật pháp môn, phương pháp chính của đức Phật không được giới thiệu đến.
    Ý chủ quan của các vị ***** sáng lập ra pháp môn đã được mọi người nâng lên thành chân lý. Chẳng hạn Pháp Hoa tông thì lấy Kinh Pháp Hoa làm nền tảng, nhưng nội dung của Kinh Pháp Hoa quá cao siêu, không phù hợp với Phật tử sơ cơ.
    Tại các trường đại học trên thế giới, Kinh Pháp Hoa được giảng dạy cho sinh viên thạc sĩ năm thứ hai. Ở Mỹ và Nhật, Kinh Pháp Hoa được dạy ở cấp tiến sĩ năm thứ nhất. Trong khi đó, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và Nam Bắc Triều, Kinh Pháp Hoa được sử dụng đọc tụng như kinh điển vỡ lòng cho người mới bắt đầu. Thực tế, Phật tử sơ cơ chưa đủ kiến thức để hiểu Kinh Pháp Hoa.
    Hiểu không nổi thì mê tín kinh điển, họ chỉ chú trọng vào bảy ngàn hai trăm công đức mà Kinh Pháp Hoa mô tả.
    Thế là từ một bài kinh triết lý, Kinh Pháp Hoa trở thành một bài kinh tín ngưỡng cho người tín ngưỡng.
    Cực đoan hơn, nhiều người đọc một chữ Kinh thì lạy một lạy, tức là tín ngưỡng hóa kinh điển, thay vì ứng dụng trí tuệ của kinh điển để giải quyết các vấn nạn khổ đau. Như vậy, các vị ***** sáng lập tông phái và pháp môn thích cái gì thì chỉ truyền đạt và giới thiệu cái đó. Do đó, người theo đạo Phật pháp môn sẽ không hiểu được đạo Phật một cách toàn diện, mà lẽ ra, cần phải như thế.
    Vì vậy, muốn trở về với đức Phật gốc và đạo Phật gốc, chúng ta cần thấy rõ rằng đạo Phật nguyên chất vốn vượt lên trên rất cao so với đạo Phật ***** và đạo Phật pháp môn. Nếu không nhìn ra vấn đề này, ta sẽ không mạnh dạn làm, hoặc khi làm chỉ cần bị phê bình, chỉ trích, chúng ta sẽ bỏ cuộc giữa chừng. Không ít người lý luận rằng, mấy chục thế kỷ đã trôi qua, bao nhiêu vị Bồ-tát, bao nhiêu vị A-la-hán, bao nhiêu ***** chấp nhận đạo Phật *****, đạo Phật pháp môn, tại sao bây giờ chúng ta phải đặt lại vấn đề. Ông/ bà đặt vấn đề đó có bằng các vị *****, các vị cao tăng, A-la-hán, Bồ-tát không? Đó là cách lý luận theo kiểu "cả vú lấp miệng em".
    Ta có thể vận dụng cùng phương thức đó để lý luận như sau: Các vị *****, A-la-hán, Bồ-tát có bằng với đức Phật không?
    Câu trả lời là không. Như vậy, tại sao chúng ta không theo Phật mà phải theo tổ Trung Quốc?
    Sau khi nhận diện sự khác biệt giữa đạo Phật nguyên chất và đạo Phật *****, công việc làm đạo của chúng ta là “không phải tôn vinh mình mà là tôn vinh Phật; không phải ca ngợi kiến thức của mình, cách làm đạo của mình, mà thông qua đó để ca ngợi chính pháp.” Chúng ta không phải là người giỏi, mà vì chính pháp của đức Phật quá siêu việt, cho nên chỉ cần làm đúng 50% thôi, chúng ta đã trở nên vĩ đại rồi. Huống hồ, chúng ta tiếp cận và sử dụng càng nhiều những lời dạy nguyên chất của đức Phật.
    Không ai có thể phủ nhận một điều rằng càng xa thời của đức Phật thì càng có thể xảy ra sự biên tập, sự lý giải khác với những gì mà đức Phật chủ trương. Ngày nay chúng ta có lợi thế là được sống trong thời kỳ kĩ thuật số trở thành một công cụ mới, một loại phước báu mới. Trước đây, để có được một quyển kinh là rất khó. Kinh viết trên lá bối, khắc trên đá, kinh bản đồng, kinh bản gỗ, kinh bản giấy… tốn rất nhiều tiền, nhiều công sức, vì thế, việc truyền bá kinh cho quảng đại đa số là rất nan giải. Bây giờ, chúng ta có kinh điển dạng internet, kinh điển dạng sách nói... Chùa Giác Ngộ đi tiên phong trong lĩnh vực âm thanh hóa Kinh điển.
    ---------------------------------
    Đạo Phật Đại thừa dạy chúng ta sử dụng trí tuệ phương tiện, tận dụng các công cụ mới, các phương tiện mới nhằm giới thiệu Phật pháp.
    Nếu không làm mới cách làm đạo, chúng ta sẽ bị bỏ lại sau lưng bởi các tôn giáo khác.
    Nếu biết khéo léo sử dụng các phương tiện hiện đại để giới thiệu đạo Phật nguyên chất, chúng tôi tin rằng trong thời gian 10 năm, 20 năm, sự mê tín dị đoan của quần chúng Phật tử sẽ giảm dần. Không có tăng sĩ nào có thể đi thuyết pháp khắp mọi nơi vì sức khỏe và thời gian không cho phép. Nếu sử dụng các phương tiện hiện đại để truyền bá Phật pháp thì đồng nghĩa với việc tạo ra các giảng sư di động, các giảng đường di động cho quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi.

    Điều chúng tôi mơ ước là khi hình thái đạo Phật nguyên chất được phát triển mạnh thì ở tất cả ngôi chùa các vị trụ trì đều phải giảng kinh thuyết pháp tối thiểu một tuần một lần vào ngày chủ nhật. Chùa lớn, chùa vừa, chùa nhỏ đều phải tổ chức thuyết giảng cho quần chúng. Hiện nay, trên 70% các chùa không có thuyết giảng, nhiều tỉnh hội Phật giáo lớn chỉ có một hoặc hai giảng đường. Như thế, việc Phật tử bị mù chữ Phật pháp là điều dễ hiểu.

    Nhiều tăng sĩ quá thờ ơ với hạnh phúc của Phật tử nên đã đánh mất trách nhiệm truyền bá lời Phật dạy cho họ một cách có hệ thống, giúp họ nương vào lời Phật, dạy sống hạnh phúc hơn, gia đình của họ an lạc và phát triển bền vững hơn. Để làm được việc này, sự góp mặt của tất cả chư tôn đức là một nhu cầu không thể thiếu.

    ( THÍCH NHẬT TỪ )
  2. traderdoclap

    traderdoclap Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    08/08/2015
    Đã được thích:
    1.640
    Cám ơn bác.
    Bài này thật hay và thâm sâu.
    Kể mà làm đc điều này thì sự mê tín sẽ giảm đi rõ rệt
  3. chicchoac

    chicchoac Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Đã được thích:
    1.869
    Bác đọc kỹ sẽ thấy có vô vàn điều mà sách phật giáo ngày nay viết sai. Chúng ta theo đạo thì cái đầu tiên là phải biết phân biện. Ko phải cái nào cũng nghe
    suutapdoco thích bài này.
  4. chicchoac

    chicchoac Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Đã được thích:
    1.869
    Trong bài này vẫn có chỗ ko ổn lắm.
    Đạo nào thì đạo, nếu ta đi vào gốc của vấn đề thì nó ko rờm rà như ngày nay ta thấy.
    Thiên chúa giáo, kito giáo, phật giáo hay lão giáo, ... đều gần như giống nhau cả mà thôi.
  5. suutapdoco

    suutapdoco Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/11/2007
    Đã được thích:
    4.317
    Hay lắm!
    Thời Phật tại thế cũng đã nhiều lần nhắc các đệ tử rằng:
    " tin ta mà ko hiểu ta là phỉ báng ta"
    " Mỗi người tu tập đều phải thực hành " Văn - Tư - Tu ":
    Văn là nghe,nạp ... từ đâu đó,
    là tư duy,suy nghĩ xem đúng sai rồi mới Tu tức là tu học,tu sửa tu hành ... để lợi mình lợi người, độ mình độ người...
    [​IMG]
    Hỏi :
    Kính bạch Hòa thượng! Mỗi ngày, con dành ra tám đến chín tiếng đồng hồ để thâu sang những băng đĩa giảng kinh VCD, ngòai thời gian đó ra chỉ chuyên tâm niệm Phật. Xin hỏi hòa thượng, làm công việc đó có phải tự tư tự lợi không? Con tính làm việc vài năm nữa là buông hết chuyện thế gian, nhất tâm niệm Phật, như thế có đúng không? Xin hòa thượng chỉ dạy cho con rõ .

    Đáp :
    Mỗi ngày Phật tử dành thời gian để in sang băng đĩa truyền bá Phật Pháp. Đây là việc làm rất tốt, đem lại lợi lạc cho người khác. Khi chúng ta làm việc,mình dùng máy niệm Phật để thay, thì việc trì danh niệm Phật cũng không mất.chẳng trở ngại công phu tu tập của mình.

    Phàm khi làm việc, chúng ta tập trung ý vào công việc , buông câu danh hiệu xuống, chuyên tâm làm việc, khi công việc xong rồi, lại chuyên tâm niệm Phật. Như thế công việc làm rất tốt, khi niệm phật cũng rất tốt. Phật tử muốn bỏ hết trần duyên, nhất tâm niệm Phật, việc này cần phải xem lại cuộc sống của chính mình. Nếu điều kiện đầy đủ, cuộc sống không có vấn đề gì trở ngại thì có thể làm được. Nếu hoàn cảnh cuộc sống, chưa ổn định mà mình cố làm một cách bất chấp hoành cảnh, buông bỏ hết đưa đến cuộc sống gia đình khó khăn, thì điều này không được. Mình tu tại gia không chỉ tu cho mình còn phải cho toàn thể gia đình, và cho xã hội tốt thêm lên, không được để cho mọi người hiểu lầm: “Người đó học phật sai rồi, học mê tín, và toàn thể gia đình mình không chấp nhận” vô tình để mọi người hủy báng và tạo khẩu nghiệp, điều này không thể được.

    (Trích trong Tịnh Độ Vấn Đáp)

    PS. TỊNH KHÔNG

    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

    Nguyện đem công đức này, cầu cho khắp Pháp giới chúng sanh đồng sanh Cực Lạc, đồng thành Phật đạo
    quocdai307, Binh Yenchicchoac thích bài này.
  6. suutapdoco

    suutapdoco Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/11/2007
    Đã được thích:
    4.317
    [​IMG]
    quocdai307Binh Yen thích bài này.
  7. suutapdoco

    suutapdoco Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/11/2007
    Đã được thích:
    4.317
    “Phật hóa hữu duyên nhân”
    [​IMG]
    Trong đạo Phật có câu: “Phật hóa hữu duyên nhân”, đức Phật giáo hóa người có duyên với Ngài mà thôi. Ai có duyên thì đến với Phật, chớ Phật không nói đạo Phật là đúng, đạo khác là sai. Chúng ta học Phật phải tập tâm cởi mở, xả bỏ những cố chấp riêng tư, dù chấp tôn giáo mình cũng là bệnh nữa.

    Những gì chúng ta thấy đều do Phật dạy, mình biết mình tu.
    Ai thấy hợp thì tu theo, còn thấy không hợp thì thôi, ta chỉ cười chớ đừng giận.
    Đạo mình kính trọng mà nghe ai nói ngược lại, mình nổi sùng lên thì chưa gọi là hiểu đạo. Không cố chấp thì cuộc đời an vui, hạnh phúc, sống với mọi người rất hòa nhã.

    (HT. Thích Thanh Từ)
    --- Gộp bài viết, 03/09/2015, Bài cũ: 03/09/2015 ---
    Hay quá,các bạn thanh thiếu niên nên nghe !!!
    Những nụ cười ở lại -
    Thích Tâm Nguyên
    --- Gộp bài viết, 03/09/2015 ---
    Lòng ganh tị - Thích Tâm Nguyên
    --- Gộp bài viết, 03/09/2015 ---
    Tâm Sự Với Những Người Làm Cha Mẹ - Thích Tâm Nguyên
    quocdai307Binh Yen thích bài này.
  8. suutapdoco

    suutapdoco Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/11/2007
    Đã được thích:
    4.317
    NGỤ NGÔN HÒA BÌNH

    - Chuyện Đối Thoại Giữa Đức Phật Và Gã Chăn Cừu.
    [​IMG]
    Một trong những quyển sách đã có ảnh hưởng sâu đậm trên cách nhìn của tôi về cuộc đời có lẽ là quyển "Alexis Zorba" của Nikos Kazantzakis, một nhà văn hào Hy Lạp. Hồi đó tôi còn là sinh viên, và cũng như nhà trí thức vai chính trong truyện, tôi đọc đi đọc lại bài "Ðối thoại giữa đức Phật và gã chăn cừu":

    "Gã chăn cừu: - Bữa ăn ta đã sẵn, ta đã vắt xong sữa cừu. Cửa chòi ta đã khóa, lửa ta đã nhóm. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!

    Ðức Phật: - Ta không cần thức ăn và sữa uống. Gió là căn chòi của ta, lửa ta đã tắt. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!

    Gã chăn cừu: - Ta có cừu, có bò cái, ta có những cánh đồng ông cha ta để lại, và một con bò đực ấp ủ những con bò cái. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!

    Ðức Phật: - Ta không có bò đực, bò cái. Ta không có cánh đồng. Ta không có gì. Ta không sợ gì. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!

    Gã chăn cừu: - Ta có một nàng chăn cừu dễ bảo và trung thành. Từ nhiều năm nay, nàng là vợ của ta, và ta sung sướng chơi đùa buổi tối với nàng. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!

    Ðức Phật: - Ta có một tâm hồn dễ bảo và tự do. Từ nhiều năm nay ta rèn luyện nó và tập cho nó chơi đùa với ta. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!"

    Ðọc bài này, tôi không tránh khỏi phân vân trong một thời gian khá dài. Tuy ba chục năm đã qua, nhưng câu chuyện vẫn còn lẩn quẩn trong đầu óc tôi và không ngừng trở lại. Tôi tự hỏi giữa gã chăn cừu và đức Phật, ai là người có lý, ai là người đáng noi gương theo? Ai là người sống thực, ai đã không lãng phí đời mình? Giữa cuộc sống hồn nhiên và con đường hướng thượng, giữa đạo và đời, làm thế nào để lựa chọn?

    Và cũng như nhà trí thức trong truyện, tôi đã không tránh khỏi bị giằng co giữa hai nhân vật, hai khuynh hướng có mặt trong chính bản thân mình. Thoạt tiên, tôi cảm thấy gần gũi với gã chăn cừu hơn, bởi vì cũng như anh chàng Hy lạp Zorba, cách sống của gã hết sức tự nhiên, tràn đầy nhựa sống, và mang một tính chất rất "người". Trong khi đó, tuy rằng tôi rất thán phục đức Phật, coi đức Phật như hình ảnh lý tưởng của một con người hoàn mỹ, nhưng tôi cũng cảm thấy mình không thể nào - hay không đủ can đảm - noi theo gương đức Phật. Ở đây Phật xuất hiện trong tầm thước tuyệt đối, vượt lên khỏi loài người, vượt ra ngoài cuộc đời. Và như vậy vượt khỏi tầm tay của con người. Nhưng rồi tôi lại cảm thấy có một cái gì rất "Thiền" ở trong cách sống của gã chăn cừu. Bởi vì nhởn nhơ với đàn cừu, nghêu ngao trên đồng nội, đâu có khác gì lối sống của vị thiền sư giữa thiên nhiên:

    "Rảnh, ném trái rừng kêu vượn tiếp.
    Lười, câu cá suối gọi cò tranh".

    Ðói thì ăn trái cây, khát thì uống nước suối, mệt thì nằm ngủ trên rêu xanh. Không có vấn đề gì. Hạnh phúc sớm chiều một cách thanh thản, tự tại. Biết đâu cả hai con đường chỉ là một, dù là sống hồn nhiên, theo bản năng tự tính, hay rèn luyện tâm linh tới độ "sắc không"? Xét cho cùng, có lẽ tất cả bắt đầu từ một ngộ nhận, một ngộ nhận rất thông thường.

    Người ta thường nhìn đạo Phật như một con đường "khổ hạnh", một con đường "xuất thế". Tu theo đạo Phật, đối với nhiều người, là thoát ly hết, là noi theo gương thái tử Tất Ðạt Ða đã từ bỏ ngai vàng và vợ con, để một mình tĩnh tâm tu luyện cho tới khi đạt được Niết Bàn. Ðạo Phật thường được coi là đạo "diệt dục", đạo đòi hỏi ở con người đầy đủ sức mạnh ý chí, để từ bỏ những tình cảm hay kiềm chế những thú tính của mình. Do đó, nhiều Phật tử nhìn đạo Phật như một con đường cao xa không thể với tới được, bởi vì tự biết mình không đủ khả năng - hay không muốn - từ bỏ những sợi giây ràng buộc với thế gian.

    Nhưng hiểu như vậy là đã quên những lời dạy đầu tiên của đức Phật Thích Ca tại vườn Lộc Uyển:
    -"Này các tỳ kheo, có hai con đường cực đoan mà con người phải tránh nếu muốn đi tìm giải thoát: đó là con đường chấp chặt vào lạc thú giác quan, và con đường khổ hạnh, ép xác. Như Lai đã tìm được con đường ở giữa, đó là con đường trung đạo đưa tới trí tuệ và giác ngộ".
    Ðức Phật là người đã trải qua cả hai giai đoạn giàu sang và khổ hạnh, nên biết rõ hơn ai hết rằng cả hai con đường cực đoan đó đều là ngõ cụt, chỉ có con đường trung đạo mới có khả năng đưa tới giải thoát. Do đó, chúng ta phải bác bỏ hẳn quan điểm sai lầm "đạo Phật là khổ hạnh". Có lý nào đạo Phật chủ trương diệt khổ lại đi tìm cái khổ thân xác, để trầm mình trong đó và quên đi mục đích ban đầu?

    Trong câu chuyện trên, giả sử gã căn cừu cứ tiếp tục sống hạnh phúc trong căn chòi đơn sơ, bên bếp lửa ấm cúng, với người vợ dễ thương, với đàn cừu, đàn bò dễ bảo, rồi sinh ra một đứa bé kháu khỉnh, thì có gì để nói? Chỉ có điều cuộc đời thường không đơn giản như vậy. Rồi có thể một ngày kia, căn chòi sẽ cháy, đàn cừu và đàn bò sẽ ốm lăn ra chết, và nàng chăn cừu sẽ bỏ gã ra đi. Gã chăn cừu cũng có thể sẽ bê bết rượu chè, rồi tranh giành cướp giật. Hay đâm ra hoảng hốt, thẫn thờ, phẫn chí. Cái khổ có thể làm chìm đắm con người bất cứ lúc nào. Và trong sự cùng cực của khổ đau, gã chăn cừu bỗng nhớ tới lời đức Phật:
    -"Tất cả chỉ là ảo tưởng. Phải nhìn thấy sự hư ảo của cuộc đời, mới thấu được lẽ chân Không và đạt được chân hạnh phúc"...

    Nghĩ cho cùng, cuộc "đối thoại giữa đức Phật và gã chăn cừu" phải chăng chỉ là một cuộc đối thoại giữa hai khuynh hướng, hai khía cạnh, chung sống trong chính nội tâm mỗi người? Có thể gã chăn cừu tượng trưng cho phần xung động bản năng (cái ça của Freud), trong khi đức Phật tượng trưng cho phần siêu ngã tâm linh (cái surmoi). Trong mỗi người đều có hai khía cạnh đó, vừa chống đối nhau nhưng cũng vừa bổ túc cho nhau, gây phong phú cho nhau.

    Rồi có thể một ngày nào đó, trên con đường đời và đạo, cũng như nhà trí thức trong truyện "Alexis Zorba", hành giả sẽ tìm thấy sự thanh thản, sự hài hòa giữa tâm hồn và thể xác, giữa siêu ngã và bản năng. Không còn những tranh chấp nhị nguyên nữa. Chỉ còn lại cái ta đồng nhất, một cái ta tan biến trong cái không ta.

    Chúc các bạn một ngày mới an lành sức khỏe hạnh phúc...

    ''hvst''
    quocdai307Binh Yen thích bài này.
  9. suutapdoco

    suutapdoco Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/11/2007
    Đã được thích:
    4.317
    Vực Thẳm
    06/07/2015 17:29:00
    Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến
    [​IMG]

    (The Abyss - Gil Fronsdal)

    Nhà sư lãnh đạo các công việc của 1 tu viện, đã kể câu chuyện nầy như sau:

    Tôi giống như đang đứng ở khúc cuối của con đường cùng, sau hai mươi sống trong tu viện. Tôi đã cống hiến bản thân mình, siêng năng tu tập, cùng tuân thủ theo giới luật của tu viện. Nhờ tôi trải qua nhiều nỗ lực thực hành, nên những nguồn năng lượng trong tâm tôi như sự tập trung, sự tỉnh thức, và lòng từ bi, đã trở nên rất mạnh mẽ, nhiều đến nỗi vị sư trụ trì chưa bao giờ trông thấy ai như thế, trước kia. Mọi người đều cảm thấy sự an lạc, cùng với sự thanh thản, khi họ tiếp xúc với tôi. Tôi chỉ còn rất ít sự dính mắc, mà người khác trông thấy được.

    Tuy nhiên, tôi vẫn chưa giác ngộ. Ở tu viện nầy, có những nhà sư khác đến tu hành sau tôi, và họ cũng đã thực hành ít kỹ lưỡng hơn tôi, nhưng họ đã đạt được những cấp độ khác nhau của sự giác ngộ. Mọi người đều cho rằng trường hợp của tôi là kỳ lạ nhất.

    Rồi một ngày kia, vị sư trụ trì kéo tôi ra bên cạnh ông, rồi ông nói chuyện với tôi thật lâu. Chúng tôi bàn luận về lý do tôi đã không có sự tiến bộ, lý do con người tôi như bị ai kéo ghì lại, bởi vì tôi đã sợ hãi để buông xả hoàn toàn. Mặc dù tôi tin tưởng rằng tôi đã đặt niềm tin vào đời sống tinh thần, nhưng tận trong trái tim tôi là một sự hoài nghi không-rõ-ràng, nhưng dai dẳng. Từ hồi còn bé đến giờ, một phần của tâm trí tôi như đứng trên ngọn đồi cao, nhìn xuống đợi chờ một thảm kịch kinh hãi, đe dọa đến gần. Vào phút cuối của buổi nói chuyện, nhà sư trụ trì bảo tôi rằng ông đã nghĩ ra một cách duy nhất, để thắp lửa vào ngọn đèn giác ngộ của tôi. Khi ông cho tôi cơ hội nầy, mắt tôi đầy lệ vì vui mừng ... nhưng rồi ông bảo tôi, điều nầy có nghĩa là tôi phải bước xuống căn phòng dưới tầng hầm, có tên là "Vực Thẳm".

    Đã qua rất nhiều thế hệ, không có một ai bước vào căn phòng nầy. Chỉ có những nhà sư trụ trì là biết được các điều bí mật xảy ra bên trong căn phòng. Và, không còn một ai khác. Cánh cửa mầu đỏ của căn phòng luôn khóa chặt, nhưng chắn chắn, đây là một điều không cần thiết. Một bầu không khí kinh hãi, phát ra từ phía bên trong, làm các nhà sư lo sợ khi họ phải đi ngang qua, gần cánh cửa phòng.

    Trong lúc chúng tôi đi bộ xuống tầng hầm, vị sư trụ trì giải thích cho tôi biết rằng, đây là cơ hội cuối cùng, và duy nhất của tôi vào căn phòng nầy. Một khi tôi bước vào căn phòng, tôi sẽ không có đường quay trở lại. Đứng trước cửa phòng, tôi có cảm giác buồn vui lẫn lộn trước khi bước vào. Vị sư trụ trì cẩn thận giải thích những lời hướng dẫn, mà vị thầy của ông đã truyền lại cho ông. Lời hướng dẫn của ông, tôi nhớ như sau: "Tôi sẽ phải bước vào phòng. Nhà sư trụ trì sẽ đóng ập cửa, rồi cánh cửa sau lưng tôi được khóa lại, và trong mọi trường hợp ông không được mở cửa ra nữa. Khi tôi vào phòng rồi, tôi đơn giản chỉ cần đi bộ đến phía bên kia của căn phòng, rồi bước ra ngoài bằng cánh cửa bên đó. Chuyện nầy nghe có vẻ khá dễ dàng".

    Sau đó, đột nhiên, nhà sư trụ trì mở cửa, rồi ông đẩy tôi ngay vào phòng. Trước khi tôi kịp bình tĩnh lại, tôi nghe thấy tiếng khóa cửa sau lưng tôi.

    Căn phòng nầy thật sự rất lớn, có lẽ chiều rộng khoảng 30 mét (tương đương với 100 feet). Ở mặt bên kia của căn phòng là cánh cửa, giống y hệt như cánh cửa tôi vừa bước vào.

    Căn phòng không có sàn nhà. Tôi đang đứng trên chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá, chiều ngang 60 xăng-ti-mét (tương đương với 2 foot), và có chiều dài bằng cánh cửa. Ngay chính giữa tôi và cánh cửa bên kia là một vực thẳm. Vực thẳm mà tôi chẳng nhìn thấy đáy. Từ đáy vực sâu, đưa lên âm thanh ken két như tiếng ghiền đá, cùng với âm thanh vỡ nứt. Thỉnh thoảng, một quả cầu lửa bắn lên trên.

    Tôi đã sợ hãi và bối rối. Tôi cần phải làm gì đây, làm sao tôi có thể đi qua phía bên kia được? Tôi đã dành trọn ngày đầu tiên đứng trên chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá để học hỏi về căn phòng, vì tôi tưởng rằng tôi sẽ tìm ra được cách bí mật để đi qua phía bên kia. Tôi đã dành trọn ngày thứ hai đập mạnh vào cánh cửa, để hy vọng rằng ai đó sẽ mở cửa cho tôi ra ngoài. Tôi đã khóc gần như trọn ngày thứ ba, rồi trong khi ngồi trên chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá, một chiếc dép đã rơi ra khỏi chân tôi. Khi chiếc dép rơi xuống vực, những âm thanh ken két như tiếng ghiền đá, vang vọng lên còn nhiều hơn trước.

    Vào ngày thứ tư, sau nhiều lần tôi suy nghĩ về lời hướng dẫn, tôi cảm thấy tuyệt vọng. Lời hướng dẫn thật đơn giản: Hãy đi bộ đến bên kia của căn phòng, rồi bước ra bằng cánh cửa bên đó. Tôi có thể tin tưởng vào Nhà Sư Trụ Trì không?

    Mệt mỏi và đói bụng, vào ngày thứ năm tôi đã chẳng còn chút hy vọng nào nữa. Tôi tự thuyết phục tôi rằng, tôi không còn sự lựa chọn nào khác, ngoài việc cố gắng đi đúng theo lời hướng dẫn, tôi quyết định bước chân ra ngoài chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá. Tôi cố gắng không tưởng tượng, những điều gì đang chờ đợi tôi dưới vực sâu. Vì quá hãi sợ, nên tôi nhìn thẳng về phía trước, và đưa chân đi một bước về phía bên kia phòng, chân tôi đang bước vào nơi-tôi-không-biết. Khi tôi đặt chân xuống, chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá tự kéo dài ra về phía trước, nên giúp cho chân tôi đứng vững vàng.

    Phải mất thêm một ngày nữa, tôi mới dám bước chân thêm bước thứ nhì, và cuối cùng khi tôi quyết định đi tiếp, chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá một lần nữa tự kéo dài ra phía trước, để nhận lấy chân tôi. Tôi tiếp tục bước đi vào chỗ-hư-không (còn gọi là tánh-không, dưới cái nhìn Phật Giáo), và theo cùng với mỗi bước chân tôi đi, chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá kéo dài thêm ra. Và cứ như thế, chẳng mấy chốc, tôi đã đến phía bên kia phòng.

    Kể từ ngày hôm ấy, tự tôi buông xả, rồi tôi bước chân vào nơi tự do của sự giác ngộ, thật dễ dàng.


    -----------------------------------


    Source-Nguồn: http://www.insightmeditationcenter.org/books-articles/articles/the-abyss/


    The Abyss - Gil Fronsdal


    The work leader of the monastery told this story:

    I had reached an impasse after twenty-five years in the monastery. I had devoted myself diligently to monastic practice. Through much effort my powers of concentration, mindfulness, and compassion were among the strongest the Abbot had ever seen. I was known for my peace and equanimity. I had few obvious attachments.



    However, I had not yet attained realization. Other monks, with less time in the monastery and less thorough practice had reached various levels of awakening. Everyone thought my circumstance was most strange.

    Then one day the Abbot took me aside for a long talk. We discussed how I was held back by my fear of completely letting go. As much as I trusted the spiritual life, at my core was some deep, unarticulated nagging mistrust. As long as I could remember, a part of me was on the lookout for impending tragedy. At the end of the conversation the Abbot told me he could think of only one more catalyst for my enlightenment. Just the possibility brought me tears of joy … until he told me it meant entering a basement room called “the Abyss.”

    No one in many generations had entered this room. Only the abbot was entrusted with the secret knowledge of what was inside. No one else knew. While the red door to the room was kept locked, it didn’t need to be. An atmosphere of terror emanated from within and the monks were afraid to walk anywhere close to the door.

    Walking down to the basement the Abbot explained that my one and last opportunity was inside this room. Once I entered this room, there would be no turning back. Standing in front of the door I had mixed feelings about entering. The abbot carefully explained the instructions that had been transmitted to him. I was to step into the room. The abbot was to close and lock the door behind me and under no circumstance was he to unlock it again. On entering the room I was simply to walk to the other side of the room and exit through the door there. It sounded easy enough.

    Suddenly, the abbot opened the door and pushed me inside. Before I could get my bearings, I heard the door lock behind me.

    The room proved to be huge, perhaps 100 feet wide. On the other side of the room was a door just like the one I had entered.

    The room had no floor. I was standing on a two foot ledge as wide as the door. Between me and the other door was a gaping abyss. I could not see the bottom. From the depths came horrible grinding and cracking sounds. Occasionally a ball of flame shot upward.

    I was scared and perplexed. How was I supposed to walk across? I spent the first day standing on the ledge studying the room, certain that I was meant to discover some secret way to get across. I spent the second day banging on the door hoping that someone would let me out. I cried most of the third day until, while sitting on the ledge, one of my slippers fell off my foot. As it fell the grinding noises seemed to get worse.

    On the fourth day I desperately and repeatedly reviewed the instructions. They were so simple: Walk across the room and out the other door. Could I trust the Abbot?

    Tired and hungry, on the fifth day I gave up all hope. Convinced I had no other choice but to try the instructions, I decided to walk out off the ledge. I tried not to imagine what awaited me down in the depths. Terrified, I looked straight ahead and took a step into the room, into the unknown. As my foot came down, the ledge stretched forward, receiving me with a firm, stable base.

    It took me another day to take the second step, but when I finally did, the ledge again extended itself outwards to receive my foot. I continued walking into the emptiness and with each step the ledge became longer. Soon enough I had reached the opposite side.

    From that day on, letting go into the freedom of realization has come easily.
    quocdai307Binh Yen thích bài này.
  10. suutapdoco

    suutapdoco Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/11/2007
    Đã được thích:
    4.317
    Hãy Làm Khi Có Thể
    [​IMG]
    Pháp Nhật
    Bạn có từng nghĩ rằng một ngày nào đó những người thương của bạn sẽ không còn sống bên bạn nữa không. Chúng ta không một ai có thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai. Thậm chí chúng ta cũng không thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào một giờ sắp tới đối với những người thân của chúng ta, hay thậm chí đối với bản thân mình.

    Có thể bạn ta mới đến thăm ta ngày hôm qua, mà hôm nay ta được báo tin là người đó đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Nhận được tin ấy mà lòng ta bồi hồi xúc động, và ta dường như không thể tin vào những gì mà tai mình vừa mới nghe thấy. Ta nói với người đến báo tin với ta rằng “tôi mới nói chuyện với anh ấy ngày hôm qua mà” hay “chị ấy mới đến thăm tôi và còn tặng quà cho tôi nữa mà”. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Người bạn ấy của ta đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Và có rất nhiều, rất nhiều trường hợp tương tự như thế. Người ta mới thấy đó nhưng giờ đây đã không còn nữa.

    Khi chúng ta giao tiếp, cư xử với người xung quanh với ý thức rằng có thể ngày mai ta sẽ không có cơ hội nghe được giọng nói của người đó nữa. Có thể ngày mai ta sẽ không còn thấy được nụ cười tươi trên khuôn mặt người đó nữa. Thì tự nhiên ta sẽ trân quí sự có mặt của người đó, và ta sẽ không nỡ nói hay làm những gì có thể gây tổn thương cho người đó.

    Người đó có thể là ba mẹ chúng ta. Người đó có thể là chồng hay là vợ của chúng ta. Và người đó cũng có thể là con cái chúng ta… Chúng ta sống với ý thức về sự vô thường, ngắn ngủi của một kiếp người càng sâu sắc, thì cách sống của chúng ta, cách hành xử của chúng ta cũng sâu sắc và yêu thương hơn.

    Mỗi người trong chúng ta hay có khuynh hướng nghĩ rằng những người thương của chúng ta sẽ sống với chúng ta hoài, sẽ sống với chúng ta mãi. Chúng ta ít có khi nào nhớ rằng có thể chỉ sau một đêm thôi thì ta sẽ mãi mãi không còn gặp người ấy nữa. Ta muốn nói những lời xin lỗi của ta với người ấy, ta muốn nói lòng biết ơn của ta với người ấy hay ta muốn thể hiện tình thương của mình cho người ấy - nhưng đã trễ rồi. Người đó đã không thể nghe, và mãi mãi sẽ không thể nghe những gì ta muốn nói dù chỉ một lời.

    Vì vậy bạn hãy vui lên đi, bạn hãy cười tươi lên đi khi bạn vẫn có ba, có mẹ còn sống bên bạn. Bạn hãy hạnh phúc lên đi khi những người thương của bạn vẫn còn đó cho bạn. Và bạn hãy can đảm để nói cho người thương của bạn những gì sâu kín nhất trong lòng của mình. Vì có thể bạn sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa nếu bạn không nói ra điều ấy. Và bạn hãy tha thứ cho tất cả những ai đã từng làm hại bạn, làm tổn thương bạn vì có thể ngày mai bạn cũng sẽ không còn có mặt trên cõi đời này nữa.

    Điều mà tôi khám phá ra trong cuộc đời của mình cho đến tận bây giờ, điều mà làm cho tôi hạnh phúc đó là tình thương, sự tha thứ, bao dung. Có thể tôi thực tập yêu thương còn kém, có thể sự tha thứ, bao dung trong tôi còn kém nhưng đó là con đường mà tôi sẽ nguyện đi trên ấy mỗi ngày. Tôi tự nói với chính mình “hãy thương yêu khi có thể, hãy tha thứ, bao dung khi có thể, bởi vì chỉ một giây phút thôi thì những điều này sẽ trở thành không thể.”

    Và điều mà làm cho tôi hạnh phúc nhất không có gì khác hơn sau khi bạn đọc những dòng chữ này, thì sự thương yêu, tha thứ, bao dung trong bạn được biểu hiện. Và bạn đến nói với ba bạn, mẹ bạn, những người thương của bạn rằng bạn yêu họ lắm. Rằng ba mẹ vẫn còn sống bên bạn là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời bạn. Rằng bạn sẽ không cần gì hơn những điều như vậy. Rồi nụ cười hạnh phúc sẽ nở trên môi của bạn và khi đó bạn cũng biết rằng nụ cười hạnh phúc ấy cũng đang nở trên môi của tôi.

    http://www.daophatngaynay.com/vn/van-hoc/tuy-but/6567-Hay-Lam-Khi-Co-The.html
    --- Gộp bài viết, 04/09/2015, Bài cũ: 04/09/2015 ---
    Nhìn lên để khiêm hạ, nhìn xuống để yêu thương - Thầy Thích Trí Huệ
    quocdai307Binh Yen thích bài này.

Chia sẻ trang này