Điện thắp sáng tương lai mùa Covid

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi linhcdb, 09/08/2021.

3854 người đang online, trong đó có 312 thành viên. 12:50 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 5 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 5)
Chủ đề này đã có 132971 lượt đọc và 801 bài trả lời
  1. hathinhuy

    hathinhuy Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/07/2009
    Đã được thích:
    59
    Gió còn thổi thì GEG còn tăng. :x
    ThanTuDo thích bài này.
  2. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.739
    ThanTuDo thích bài này.
  3. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.739
    Bước tiến dài sau 15 năm gia nhập WTO
    Tác giả Hải Yến / baodautu.vn

    05/01/2022 17:20
    Nam miền Bắc Nữ miền Bắc Nữ miền Nam Nam miền Nam
    Sau 15 năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), quy mô thương mại của Việt Nam đã có bước tiến dài, kim ngạch xuất nhập khẩu đã đạt tới 668,5 tỷ USD vào cuối năm 2021.

    [​IMG]
    Xuất khẩu thủy sản đạt 8,9 tỷ USD vào cuối năm 2021

    Kỳ tích mở rộng thị trường xuất khẩu

    “Trong 15 năm qua, năng lực sản xuất của May Hưng Yên đã khác rất nhiều. Năm 2006, chúng tôi chỉ có 3 nhà máy may, với 3.000 công nhân, thì hiện là 12 nhà máy với 15.000 lao động. Doanh thu gia công (CM) năm 2006 là 15 triệu USD, đến cuối năm 2021 đạt 126 triệu USD, tăng gần 10 lần; kim ngạch xuất khẩu tăng từ 40 triệu USD lên 350 triệu USD”, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty cổ phần Dệt may Hưng Yên cho biết.

    Ở phạm vi toàn ngành, 15 năm trước, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may mới có 5,9 tỷ USD, đến cuối năm 2021, một lượng hàng hóa dệt may, xơ sợi, nguyên liệu trị giá 39 tỷ USD đã được xuất khẩu ra thế giới. Nếu không có dịch bệnh, nhu cầu thị trường tiếp tục được tăng lên, dệt may có thể nhận đơn hàng xuất khẩu với giá trị 45-46 tỷ USD.

    Theo ông Dương, việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO từ đầu năm 2007 đã mang lại cho Việt Nam nhiều thay đổi. Không chỉ đón một lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn, làm gia tăng năng lực sản xuất, đưa Việt Nam vào top 3 nhà cung ứng lớn trên toàn cầu, hội nhập đã tạo sức ép để doanh nghiệp trong nước phải tự nâng mình lên để thích ứng, đủ sức giao thương với đối tác tại nhiều thị trường lớn từ Mỹ, EU, Nhật Bản.

    “Trước đây, chúng tôi chủ yếu xuất khẩu vào khu vực 2 thuộc EU, thì nay, Mỹ đang chiếm 65% tổng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp, 35% còn lại là vào Nhật Bản, EU và Trung Quốc, Đài Loan. Đó là tác động tích cực nhất của hội nhập và WTO đã giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu”, ông Dương nói.

    Ngoài dệt may, các ngành xuất khẩu chủ lực như giày dép, thủy sản, đồ gỗ cũng hội nhập sớm cùng đất nước. Hơn ai hết, lãnh đạo các ngành này nhìn thấy được sự chuyển mình mạnh mẽ của các ngành sản xuất nhờ mở cửa.

    Chẳng hạn, 3,56 tỷ USD là tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành da giày năm 2006, năm 2019 đã nâng lên 22 tỷ USD. Dù 2 năm 2020- 2021, con số đã sụt giảm nhẹ còn 20 tỷ USD mỗi năm do dịch Covid-19, nhưng ít ai phủ nhận sự trưởng thành của ngành sản xuất này cùng quá trình mở cửa hội nhập của Việt Nam.

    Bà Phan Thị Thanh Xuân, Tổng thư ký Hiệp hội Da - Giày - Túi xách Việt Nam (Lefaso) nhận định, năng lực cung ứng của ngành giày dép, túi xách đã đạt 25-27 tỷ USD nhờ thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã trở thành cứ điểm sản xuất lớn, một mắt xích quan trọng khó có thể thay thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

    Đơn cử, Nike (Mỹ) đang hợp tác sản xuất giày, quần áo, túi xách với gần 200 nhà máy tại Việt Nam. Việc “chọn mặt gửi vàng” của Nike với các nhà máy tại Việt Nam là lý do khiến hàng tỷ USD vốn FDI từ các tập đoàn giày dép lớn như Pouchen, Tae Kwang Vina Industrial… đến Việt Nam đầu tư mở hệ thống nhà máy quy mô xuất khẩu trên 1 tỷ USD/năm tại Bình Dương, Đồng Nai, Long An…

    Nhưng hơn hết, việc gia nhập sân chơi thương mại toàn cầu đã thúc đẩy doanh nghiệp thích ứng với những tiêu chuẩn khắt khe của thị trường lớn. Ông Dương chia sẻ: “Trước đây, doanh nghiệp chỉ làm đồ bảo hộ lao động xuất khẩu vào Đông Âu, sau đó chuyển sang làm hàng chất lượng vào Tây Âu. Nhưng từ khi làm ăn với Mỹ, nhiều lô hàng rất lớn, có lô vài triệu sản phẩm, doanh nghiệp buộc phải sản xuất theo quy mô lớn tại các công xưởng lớn”.

    Ngành thủy sản cũng nhanh chóng chớp thời cơ từ hội nhập. Nếu khởi điểm năm 2006, xuất khẩu thủy sản đạt gần 3,4 tỷ USD, thì đến năm 2020 đạt 8,41 tỷ USD và cán đích 8,9 tỷ USD vào cuối năm 2021. Các doanh nghiệp mạnh tay đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút các dòng vốn ngoại. Mắt xích trong chuỗi cung ứng toàn cầu đặt tại Việt Nam trở nên vững chắc, khó thay thế hơn. Trong đợt dịch Covid-19 lần thứ tư bùng phát tại Việt Nam, 90 CEO các nhãn hàng hàng đầu của Mỹ như Adidas, Coach, Gap, Hanebrands, Nike, VF, Under Amour... đồng loạt kêu gọi Chính phủ Mỹ gửi thêm vắc-xin cho Việt Nam để duy trì chuỗi cung ứng được liên tục.

    [​IMG]
    “Liều thuốc” tiếp sức cho kinh tế tăng trưởng

    Trong 15 năm là thành viên WTO, kinh tế Việt Nam đã có sự bứt phá liên tục, đạt được nhiều thành tựu ấn tượng và tiếp tục vươn ra biển lớn.

    Báo cáo Rà soát thống kê thương mại thế giới năm 2020 của WTO đã ghi nhận, trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới, Việt Nam có mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí thứ 39 vào năm 2009 lên vị trí thứ 23 vào năm 2019. Đến năm 2021, Việt Nam đã nằm trong danh sách 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế.

    Việc mở cửa nền kinh tế trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần không nhỏ duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm. Việt Nam đã thu hút được 34.424 dự án FDI từ 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đăng ký 405,8 tỷ USD. Nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đã chọn Việt Nam làm “điểm đến”. Nhiều dự án FDI có tổng vốn đăng ký lớn, tập trung vào các ngành có tính cạnh tranh cao như điện thoại, điện tử…

    Đến nay, Việt Nam đã đàm phán 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 15 FTA đã ký kết và có hiệu lực (mới nhất là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực - RCEP đi vào thực thi từ ngày 1/1/2022), nhiều FTA thế hệ mới như Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), HIệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) với những cam kết ở mức độ cao trong tất cả các lĩnh vực, kể cả truyền thống và phi truyền thống.

    WTO và hệ thống các FTA đã và đang mở rộng cánh cửa thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, là cơ hội để Việt Nam kết nối và tham gia sâu hơn chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Nhìn vào các con số tăng trưởng xuất nhập khẩu sẽ thấy rõ điều đó. Nếu năm 2006, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước chỉ ở mức 84,7 tỷ USD (xuất khẩu là 39,8 tỷ USD và nhập khẩu là 44,9 tỷ USD), thì đến năm 2021 đã lên tới 668,5 tỷ USD (xuất khẩu đạt 336,25 tỷ USD và nhập khẩu đạt 332,25 tỷ USD).

    Ấn tượng hơn cả là cán cân thương mại được cải thiện rõ nét, từ mức nhập siêu 4,8 tỷ USD năm 2006 và liên tiếp nhập siêu các năm sau đó, cao điểm là 14,2 tỷ USD năm 2007. Từ năm 2016, cán cân thương mại luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm (1,77 tỷ USD năm 2016; 2,1 tỷ USD năm 2017; 6,8 tỷ USD năm 2018; 10,9 tỷ USD năm 2019). Năm 2020 là năm có xuất siêu kỷ lục trên 19 tỷ USD. Và năm 2021, dù bị tác động của dịch bệnh, nhưng xuất siêu vẫn đạt 4 tỷ USD.

    Đáng chú ý, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến tăng từ 80,3% kim ngạch xuất khẩu năm 2016 lên mức 85,1% năm 2020 và tăng lên gần 89,2% trong năm 2021. Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD cũng tăng nhanh từ 9 mặt hàng năm 2006 lên 25 mặt hàng năm 2016 và 35 mặt hàng vào cuối năm 2021 (trong đó 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD).

    Ông Trần Tuấn Anh, Trưởng ban Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh, quá trình hội nhập sâu rộng, trong đó có WTO và 17 FTA chính là “liều thuốc” tiếp sức cho nền kinh tế tăng trưởng, đặc biệt trong giai đoạn đại dịch 2020-2021. Năm 2022 và các năm tiếp theo, Việt Nam vẫn là quốc gia trong khu vực châu Á được các tổ chức nước ngoài đánh giá có tiềm năng cao về xuất khẩu.

    Đạt được những thành tựu trên là kết quả của quá trình dài nỗ lực, bền bỉ và kiên định thực hiện đồng bộ nhiều chính sách đổi mới, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao năng suất và sửa đổi các quy định pháp luật. Điều đáng nói là, vai trò của Việt Nam trong hội nhập và đối ngoại quốc tế đã thay đổi rất lớn, từ chỗ chỉ tích cực tham gia trong các khuôn khổ hội nhập, cũng như trong các hợp tác quốc tế, thì nay đã chủ động dẫn dắt.

    “Việt Nam gần như đã thể hiện vai trò dẫn dắt trong ASEAN. Minh chứng rõ nét là Việt Nam đã đạt được việc ký kết các hiệp định CPTPP, RCEP trong khi rất nhiều nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN của các nước khác không thể kết thúc nổi đàm phán”, ông Trần Tuấn Anh nói.

    Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, TS. Trịnh Minh Anh khẳng định, Việt Nam là một trong số ít các nước chỉ sau 15 năm vào WTO đã đàm phán, ký kết 15 FTA, trong đó có 8 FTA ký kết trong khuôn khổ hợp tác ASEAN nội và ngoại khối. “Phạm vi đối tác FTA của Việt Nam khá rộng và toàn diện. Vì vậy, trong 3-5 năm tới, sẽ dần tiến đến tự do hóa thuế quan hầu hết các mặt hàng nhập khẩu với các đối tác thương mại chính, là thời cơ để xuất khẩu tăng tốc, tiếp tục củng cố vị thế Việt Nam trên toàn cầu”, ông Minh Anh nói.
    --- Gộp bài viết, 06/01/2022, Bài cũ: 06/01/2022 ---
    Xong MKP tím,rẻ bảo xúc thì chê :D
    --- Gộp bài viết, 06/01/2022 ---
    PET xứng đáng được trả giá cao hơn :D
    --- Gộp bài viết, 06/01/2022 ---
    sau PET cũng chữ P xúc PSH chắc có 28-30 đấy các cụ :>
    ThanTuDo thích bài này.
  4. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.739
    MẤY a lái VLB đánh ko cẩn thận mất hàng đừng khóc nhé :))
    --- Gộp bài viết, 06/01/2022 ---
    ThanTuDo thích bài này.
  5. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.739
  6. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.739
    Cấp thiết đầu tư tuyến cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2021 - 2025 trị giá 146.990 tỷ đồng
    Nữ miền Bắc Nữ miền Nam Nam miền Nam
    Hoàn thiện các tuyến cao tốc giai đoạn 2 không chỉ khép kín tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông mà còn tác động tích cực đến quá trình phục hồi phát triển kinh tế xã hội đất nước.

    [​IMG]
    Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể

    Sáng nay (4/1), tại Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể đã thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình số 568/TTr - CP về chủ trương đầu tư Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025.

    Dự án đặc biệt quan trọng của đất nước

    Theo đó, để sớm hoàn thành tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, tạo động lực, sức lan tỏa nhằm khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025.

    Cụ thể, Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025 dài 729 km, quy mô 4 làn xe bao gồm các đoạn Hà Tĩnh (Bãi Vọt) đến Quảng Trị (Cam Lộ); Quảng Ngãi đến Nha Trang (Khánh Hòa); từ Cần Thơ đến Cà Mau sẽ được chia thành 12 dự án thành phần vận hành độc lập và triển khai theo hình thức đầu tư công.

    Trên cơ sở nguồn vốn được Quốc hội dự kiến phân bổ cho các dự án trong kế hoạch đầu tư công trung hạn, Chính phủ đã rà soát, đánh giá điều kiện cụ thể của từng dự án để xây dựng danh mục dự án sử dụng vốn đầu tư công trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, theo nguyên tắc ưu tiên nguồn vốn đầu tư của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội cho các dự án trọng điểm, có tác dụng lan tỏa, liên kết vùng, thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế, có khả năng hấp thụ vốn và đẩy nhanh tiến độ hoàn thành.

    Sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ sẽ tiếp tục rà soát, điều hòa và sắp xếp lại kế hoạch đầu tư công trung hạn; trong đó tập trung, ưu tiên nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn bố trí cho Dự án, đáp ứng yêu cầu cơ bản hoàn thành năm 2025.

    Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết, sơ bộ tổng mức đầu tư của Dự án là 146.990 tỷ đồng, trong đó, giai đoạn 2021 - 2025 bố trí khoảng 119.666 tỷ đồng, gồm 47.169 tỷ đồng thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 theo Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội, phần còn thiếu 72.497 tỷ đồng sẽ được cân đối từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và từ nguồn vốn ngân sách đã bố trí cho ngành GTVT trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 – 2025; chuyển tiếp bố trí giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 27.324 tỷ đồng.

    Tiến độ thực hiện Dự án là từ năm 2021, cơ bản hoàn thành năm 2025.

    Tại Tờ trình số 568, Chính phủ kiến nghị Quốc hội giao chính phủ hoàn chỉnh hồ sơ chuyển mục đích sử dụng rừng của Dự án, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương trong bước nghiên cứu khả thi.

    Tổ chức triển khai thực hiện Dự án bảo đảm tiến độ, chất lượng và hiệu quả đầu tư theo đúng quy định của pháp luật; xây dựng phương án thu phí để thu hồi vốn hoàn trả vào ngân sách trung ương.

    Về công tác tổ chức thực hiện, Chính phủ cho biết là sẽ giao Bộ GTVT là đầu mối tổ chức thực hiện Dự án, trừ các dự án trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội có đề xuất riêng.

    Để đảm bảo nguồn cung ứng vật liệu, rút kinh nghiệm quá trình triển khai các dự án giai đoạn vừa qua, ngay trong bước nghiên cứu khả thi, Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ GTVT tính toán xác định cụ thể nhu cầu vật liệu đối với từng dự án, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương đánh giá kỹ tình trạng các mỏ đang khai thác, kịp thời triển khai các thủ tục điều chỉnh quy hoạch mỏ, quy hoạch sử dụng vật liệu và cấp phép các mỏ mới theo đúng quy định.

    “Chính phủ cũng sẽ có cơ chế, giải pháp quản lý chặt chẽ về giá vật liệu xây dựng, xử lý nghiêm các tình trạng đầu cơ, nâng giá, gây khó khăn trong triển khai đầu tư các dự án, bảo đảm không xảy ra tình trạng khan hiếm vật liệu, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các dự án”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể khẳng định.

    Theo người đứng đầu Bộ GTVT, hành lang vận tải trên trục Bắc - Nam có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Do tính linh hoạt cao, đóng vai trò kết nối cho tất cả các phương thức vận tải khác và rất lợi thế đối với vận tải cự ly ngắn và trung bình... nên đường bộ vẫn là hình thức vận tải phổ biến và luôn chiếm thị phần lớn nhất. Trong hệ thống đường bộ, đường bộ cao tốc là công trình hiện đại, năng lực thông hành lớn, tốc độ cao và an toàn, là công trình có tính lan tỏa cao, tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

    Tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông có tổng chiều dài 2.063 km, thời gian vừa qua Quốc hội và Chính phủ đã tập trung nguồn lực đầu tư các đoạn có nhu cầu cấp bách (đã đưa vào khai thác 478 km, đang đầu tư 829 km).

    Tuy nhiên, còn lại 756 km chưa được đầu tư nên việc khai thác chưa đảm bảo tính đồng bộ, chưa phát huy tối đa hiệu quả khai thác. Theo kết quả dự báo nhu cầu vận tải, nếu không kịp thời đầu tư các đoạn còn lại trên tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông, nhu cầu vận tải sẽ vượt quá so với tổng năng lực của hệ thống hạ tầng giao thông hiện tại.

    Với vai trò là hành lang xương sống của quốc gia, việc đầu tư, đưa vào khai thác toàn tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông sẽ tạo động lực, sức lan tỏa, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao tính cạnh tranh của quốc gia, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ hiện đại hóa đất nước theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 đã được Đại hội XIII của Đảng thông qua.

    [​IMG]
    Thi công cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 đoạn qua Đồng Nai
    Nhiều tác động tích cực

    Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã và đang diễn biễn rất phức tạp, tác động nặng nề đến mọi mặt đời sống, kinh tế - xã hội, để giải quyết các vấn đề cấp bách trước mắt nhằm khắc phục các ảnh hưởng của đại dịch, cũng như tạo đà để phục hồi và cơ cấu lại nền kinh tế đất nước giai đoạn 2021 - 2025, Chính phủ đã xây dựng Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế và xã hội để trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định.

    “Chính phủ xác định việc đẩy nhanh tiến độ dự án đầu tư quan trọng quốc gia, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, trong ngắn hạn là kích thích tổng cầu, tạo việc làm, tiêu thụ hàng hóa, trong dài hạn là phát triển hạ tầng chiến lược nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong đó ưu tiên cao nhất cho hệ thống đường bộ cao tốc. Đồng thời, tại Kết luận số 18-KL/TW Bộ Chính trị đã kết luận đây là dự án đặc biệt quan trọng của đất nước, cần phải tập trung nguồn lực đầu tư để sớm hoàn thành Dự án”, Bộ trưởng Thể nhấn mạnh.

    Trên cơ sở sự cần thiết, tính cấp bách, hiệu quả của Dự án, để bảo đảm triển khai thành công và sớm hoàn thành Dự án, Chính phủ kiến nghị triển khai đầu tư công toàn bộ 12 dự án thành phần, sau khi hoàn thành sẽ tổ chức thu phí hoặc nhượng quyền thu phí để thu hồi vốn nhà nước, đây cũng là một hình thức huy động nguồn lực xã hội để tiếp tục đầu tư cho kết cấu hạ tầng nói chung và hạ tầng giao thông nói riêng.

    Theo tính toán sơ bộ, nếu nhượng quyền thu phí toàn bộ 12 dự án thành phần trong 5 năm đầu có thể thu hồi khoảng 18.300 tỷ đồng vốn nhà nước, trong 10 năm khoảng 37.881 tỷ đồng; nếu nhượng quyền thu phí 8 dự án thành phần (không thu phí 3 dự án đi trùng và nâng cấp một số đoạn đường Hồ Chí Minh hiện hữu), trong 5 năm đầu có thể thu hồi khoảng 14.800 tỷ đồng vốn nhà nước, trong 10 năm khoảng 30.000 tỷ đồng.

    Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể đánh giá, việc hoàn thiện các tuyến cao tốc giai đoạn 2, khép kín tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông sẽ mang lại nhiều tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế cũng như xã hội. Trong giai đoạn thi công, dự án sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm, không chỉ cho các kỹ sư, công nhân trực tiếp tham gia xây dựng mà còn cả những người dân địa phương.

    Theo thống kê tại Dự án xây dựng đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận, với tổng mức đầu tư 12,6 nghìn tỷ đồng, dự án đã tạo ra việc làm trực tiếp cho trung bình khoảng 1.200 lao động/năm.

    Bên cạnh đó còn có hàng nghìn cơ hội làm việc khác chưa thể thống kê hết từ các đơn vị cung cấp nguyên vật liệu, từ cộng đồng dân cư cung cấp dịch vụ thiết yếu cho sinh hoạt của người lao động tại dự án. Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ tăng lên làm tăng trưởng kinh tế địa phương, góp phần nâng cao đời sống và an sinh xã hội của cộng đồng.

    Khi dự án hoàn thành đưa vào khai thác, với giao thông thuận lợi, các cụm công nghiệp sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư, các vùng sản xuất nông nghiệp sẽ thuận lợi trong việc bán sản phẩm. Việc kết nối thuận lợi và nhanh chóng với hệ thống cảng biển, sân bay, cửa khẩu tạo ra động lực cho sự phát triển về kinh tế. Nhu cầu việc làm tại địa phương sẽ tăng lên, số người di trú tới các tỉnh/thành phố khác để làm việc sẽ giảm xuống, dẫn tới giảm áp lực về hạ tầng tại một số thành phố lớn.

    Nhờ đó, chất lượng cuộc sống của cộng đồng cũng được nâng cao thông qua việc cải thiện y tế và an toàn do giảm tai nạn giao thông, rút ngắn thời gian tiếp cận với các cơ sở y tế, giáo dục.
  7. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.739
    Thủ tướng: '20 năm làm được hơn 1.000 km cao tốc, mỗi năm chưa tới 50 km'
    07-01-2022 08:11:45+07:00

    23 phút trước

    Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, sau 20 năm khởi động làm đường cao tốc, tới nay chúng ta mới làm được hơn 1.000 km, mỗi năm chưa làm được 50 km.

    Chiều 6.1, thảo luận tại tổ về về chủ trương đầu tư Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2021 - 2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, sau 20 năm khởi động làm đường cao tốc, tới nay chúng ta mới làm được hơn 1.000 km.

    "Như vậy mỗi năm mình làm chưa được 50 km", Thủ tướng nói.

    [​IMG]
    Thủ tướng Phạm Minh Chính thảo luận tại tổ chiều 6.1. Gia Hân

    Thủ tướng cho biết Chính phủ đang cho tổng kết lại một cách nghiêm túc để xem nguyên nhân vì sao, do chủ trương, chính sách, cơ chế hay tổ chức thực hiện. "Theo Nghị quyết Đại hội XIII là đến năm 2025, phải cơ bản hoàn thành tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông", Thủ tướng nói.

    Từ đó, Thủ tướng cho rằng Chính phủ đang xem lại cách tổ chức thực hiện, tháo gỡ chính sách, thể chế thế nào để từ đó đẩy nhanh tiến độ, tiết kiệm ngân sách và đảm bảo chất lượng, chống tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm, tham ô tham nhũng. "Đó là những yêu cầu hết sức quan trọng, đặt ra", theo Thủ tướng.

    Người đứng đầu Chính phủ cũng cho biết tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương (5.1 vừa qua), vấn đề nổi lên chính là phân cấp, phân quyền.

    "Trong phân cấp phân quyền thì có nhiều vấn đề như giao thông, chuyển đổi đất lúa, đất rừng... Tất nhiên, những đề nghị đó phải tiếp tục rà soát, song chủ trương của Chính phủ là cố gắng phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng kiểm tra, giám sát cùng với bố trí nguồn lực, đào tạo nhân lực để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ", Thủ tướng phân tích, đồng thời đề nghị các đại biểu Quốc hội nghiên cứu vấn đề này.

    Thủ tướng cũng cho biết vừa qua có đại biểu nêu ý kiến băn khoăn với một số nội dung về chính sách đặc thù trong Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế mà Chính phủ vừa trình ra, tuy nhiên băn khoăn như thế để tìm đường ra, tìm nhiệm vụ giải pháp cho phù hợp để thúc đẩy, chứ không phải "băn khoăn rồi mình ngại mình thôi". "Ý các đồng chí nói tôi cũng hiểu", ông nói.

    Theo Thủ tướng, ví dụ như Bộ GTVT mỗi năm được giao 40.000 tỉ làm các dự án quan trọng quốc gia và các dự án khác "thì các đồng chí thấy rồi, cũng ì ạch lắm". Do đó, giờ giao thêm mỗi năm 50.000 tỉ nữa thì khối lượng công việc là gấp đôi, trong khi nhân lực và thời gian chỉ có thế.

    Do đó, theo Thủ tướng, ngoài chủ trương cho tăng bội chi, cho tăng nợ công, nợ Chính phủ, muốn tiêu được đồng tiền này thì phải có thêm một số cơ chế chính sách khác, và mong là Quốc hội ủng hộ "cho nó nhanh".

    "Trong quá trình đó vừa phải làm nhanh nhưng phải có chất lượng, và phải chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí", Thủ tướng nói.

    Xin Quốc hội 3 chính sách đặc thù hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế

    Trong tờ trình dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (gọi tắt là Chương trình), Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép thí điểm áp dụng 3 chính sách đặc thù đối với các dự án đầu tư công.

    Cụ thể, thí điểm áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với các gói thầu tư vấn, gói thầu phục vụ và gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư; chỉ định thầu xây lắp kèm theo yêu cầu tiết kiệm khoảng 5% dự toán giá trị gói thầu để đẩy nhanh công tác đấu thầu và có thể lựa chọn được các nhà thầu tốt, nhất là các nhà thầu mạnh.

    Thứ hai, cho phép chủ đầu tư được khai thác các mỏ khoáng sản nằm trong Hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng dự án làm vật liệu xây dựng thông thường (nhằm thực hiện dự án), không phải thực hiện thủ tục cấp phép.

    Thứ ba, phân cấp, phân quyền, bố trí nguồn vốn cho UBND cấp tỉnh của một số địa phương có năng lực, kinh nghiệm quản lý và có văn bản đề xuất làm cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các đoạn tuyến/dự án đường cao tốc đi qua địa bàn theo hình thức đầu tư công; Bộ GTVT thực hiện các đoạn tuyến/dự án còn lại theo quy định.
    --- Gộp bài viết, 07/01/2022, Bài cũ: 07/01/2022 ---
    MKP cây CE nữa ko, rẻ bảo múc chê XANH TÍM lại đua :))
    --- Gộp bài viết, 07/01/2022 ---
    Trả lại tên cho e không nhỉ, TCD sao mà dưới 3x được ta :D
  8. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.739
    LCG cũng CE, rẻ hô các cụ xúc thì chê. Xanh tím lại đua =))
  9. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.739
    Hàng loạt địa phương xin làm đường cao tốc trong gói phục hồi kinh tế

    Thảo luận về chính sách tài chính và tiền tệ trong chương trình phục hồi kinh tế, nhiều đại biểu Quốc hội ở các địa phương đề xuất ưu tiên xây đường cao tốc khi giải ngân gói này.

    [​IMG]
    Với gói cơ sở hạ tầng, nhiều địa biểu Quốc hội ở địa phường đồng loạt đề xuất ưu tiên xây cao tốc qua địa phương mình.

    Gói chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi kinh tế - xã hội dự kiện sẽ có giá trị khoảng 350.000 tỷ đồng, trong đó dự kiến chi khoảng 140.000 tỷ đồng cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Nội dung này thu hút sự quan tâm của nhiều đại biểu khi Quốc hội thảo luận về dự thảo các chính sách tài khóa và tiền tệ sáng 7/1.

    Nhiều đại biểu Quốc hội ở các địa phương như Bà Rịa - Vũng Tàu, Thái Bình, Nam Định, Điện Biên... đồng loạt xin ưu tiên sử dụng gói cơ sở hạ tầng này để xây dựng cao tốc qua địa phương.

    Bà Rịa - Vũng Tàu, Thái Bình, Nam Định, Điện Biên xin làm cao tốc

    Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Bà Rịa - Vũng Tàu) dùng từ "tha thiết" để đề xuất ưu tiên xây dựng tuyến cao tốc nối Biên Hòa (Đồng Nai) với Vũng Tàu bằng hình thức đầu tư công, thay vì đầu tư theo đối tác công - tư (PPP) như được phê duyệt chủ trương ban đầu.

    Theo ông Hùng, dự án đường cao tốc này được Thủ tướng phê duyệt chủ trương đầu tư theo hình thức PPP năm 2021 với tổng mức khoảng gần 20.000 tỷ. Tuy nhiên, dịch bệnh gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong thu hút tài chính.

    Dự án có vai trò đặc biệt quan trọng, phát huy liên kết vùng, nối các trung tâm kinh tế lớn như Bình Dương, TP.HCM và Đông Nai với cụm cảng Cái Mép - Thị Vải. Mặt khác, đường này sẽ giúp kết nối cảng hàng không quốc tế Long Thành trong tương lai, thúc đẩy kinh tế của nhiều tỉnh phía Nam.

    "Nếu làm bằng đầu tư công thì 2021-2023 có thể hoàn thành toàn tuyến", ông Tâm Hùng nói.

    Tương tự, các đại biểu đến từ Nam Định và Thái Bình đồng loạt xin ưu tiên xây dựng cao tốc Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình nối với Hải Phòng và Quảng Ninh.

    Đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung (Thái Bình) đề nghị trong gói cơ sở hạ tầng cần ưu tiên những tuyến cao tốc mang tính quan trọng, giải quyết các điểm nghẽn của nền kinh tế. Bà Dung cho rằng cao tốc qua tỉnh Thái Bình sẽ giúp tỉnh này có nhiều cơ hội phát triển.

    [​IMG]
    Đại biểu Nguyễn Hải Dũng (Nam Định) cũng đề xuất đẩy nhanh tuyến đường này để giải quyết điểm nghẽn về cơ sở hạ tầng cho các tỉnh phía nam đồng bằng sông Hồng. Dự án này dài 79 km, nằm trong quy hoạch đường bộ cao tốc Việt Nam, được phê duyệt năm 2016.

    Nói về sự cấp thiết, ông Dũng cho biết hiện khu vực Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình chỉ có các tuyến theo hướng đông - tây nhưng chưa có tuyến tây bắc - đông nam, chưa có tuyến ven biển nào. Cao tốc sẽ giúp đẩy nhanh liên kết vùng, khai thác kinh tế biển, hỗ trợ tuần tra an ninh, quốc phòng.

    "Qua các tỉnh này chỉ có quốc lộ 10 hiện đã quá tải. Chúng tôi thấy đầu tư tuyến này là rất quan trọng, cần thiết", ông Dũng nói.

    Cũng liên quan đến cao tốc, đại biểu Lò Thị Luyến (Điện Biên) đề nghị Chính phủ ưu tiên dùng tiền để làm cao tốc cho các vùng núi phía Bắc như Bắc Kạn - Cao Bằng, Sơn La - Điện Biên...

    Kiểm soát để tiền không đổ vào bất động sản

    Cũng trong phiên thảo luận, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai (Hà Nội) đề cập đến hiệu quả và cam kết sản phẩm đầu ra của chương trình. Đại biểu cho rằng mục tiêu cốt yếu của chương trình là chấp nhận bội chi, chấp nhận đi vay để sau một thời gian nhất định sẽ thu được chi phí lớn hơn.

    “Vấn đề hiệu quả thực tế chương trình phải đạt được là trả lời câu hỏi: Với hơn 346.000 tỷ đồng, chúng ta sẽ thu lại kết quả gì? Và với mục tiêu như vậy, chương trình cần quy định rõ hiệu quả nguồn lực, hiệu quả đầu ra?”, bà Mai đặt câu hỏi.

    Theo đại biểu, khi đối chiếu với nội dung nghị quyết, vấn đề này chưa được cụ thể hóa. Bà nhấn mạnh nếu không có cam kết về kết quả đạt được thì khó có thước đo chính xác để đánh giá hiệu quả.

    [​IMG]
    Đại biểu Đoàn Hà Nội cũng kiến nghị cần bổ sung căn cứ nguyên tắc, tiêu chí cụ thể để phân bổ đầu tư nguồn lực tương ứng với từng gói chính sách.

    Về danh mục dự án, đại biểu đề nghị tập trung vào 2 lĩnh vực cụ thể, gồm những ngành nghề bị ảnh hưởng nặng nề nhất do đại dịch và những ngành nghề có ý nghĩa thúc đẩy tăng trưởng quan trọng nhất.

    “Chúng ta chấp nhận rủi ro nhưng cũng cần có những bước đi thực sự vững chắc, cốt lõi chúng ta cần đạt được là hiệu quả thực chất”, đại biểu nói.

    Đại biểu Mai Văn Hải (Thanh Hóa) cho rằng khi đầu tư y tế cơ sở thì phải có tiêu chí rõ ràng xã nào đạt tiêu chuẩn. Ông cho rằng nên nghiên cứu rà soát những xã đặc biệt khó khăn, có kế hoạch đầu tư trước. Đại biểu cũng cho rằng cần đầu tư cho trung tâm y tế, bệnh viện tuyến huyện sẽ phát huy nhanh tác dụng hơn.

    Đại biểu Hải cũng cho rằng cần hỗ trợ cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất kinh doanh, với gói tiền tệ gần 40.000 tỷ đồng, cấp bù lãi suất 2%/năm. Tuy nhiên, ông cho rằng cần có trọng tâm trọng điểm, vào những lĩnh vực chịu ảnh hưởng như du lịch, vận tải, đặc biệt là vận tải hành khách, dịch vụ nhà hàng, khách sạn, ăn uống, tạo việc làm…

    “Chúng ta cũng cần kiểm soát chặt chẽ việc hỗ trợ, tránh tiền đổ vào đầu tư bất động sản và những lĩnh vực rủi ro khác, làm cho suy giảm nền kinh tế”, ông nói.

    Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội tập trung vào 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu với quy mô thực hiện dự kiến trong năm 2022-2023.

    Thứ nhất, Chính phủ đề xuất chi khoảng 60.000 tỷ đồng để mở cửa nền kinh tế gắn với đầu tư nâng cao năng lực y tế, phòng, chống dịch bệnh.

    Thứ hai, chi khoảng 53.000 tỷ đồng để đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm.

    Thứ ba, chi khoảng 110.000 tỷ đồng để hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.

    Thứ tư, chi khoảng 114.000 tỷ đồng cho phát triển kết cấu hạ tầng, khơi thông nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển.
  10. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.739
    Kịch bản cho mục tiêu net-zero và năng lượng tái tạo: không chỉ là tiềm năng
    07-01-2022 - 16:27 PM | Doanh nghiệp


    BÁO NÓI - 7:09


    [​IMG]
    Tại Hội nghị COP26 2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đưa ra cam kết net-zero cho Việt Nam vào năm 2050. Đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam cùng nền kinh tế đang phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, thì kịch bản nào cho mục tiêu net-zero và vai trò của năng lượng tái tạo. Liệu có làn gió mới và thu hút dòng vốn đầu tư?


    [​IMG]
    Lễ hội mua sắm cuối năm: Doanh nghiệp hốt bạc tỷ nhờ chuẩn bị hạ tầng website đáp ứng lượng truy cập khổng lồ

    Cuộc đua tới… Net-zero

    Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc lần thứ 26 (COP26) đã diễn ra tại Glasgow, Scotland, Vương quốc Anh từ ngày 31/10 đến 13/11/2021. Đây là Hội nghị lần thứ 26 của các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu, đồng thời là cuộc họp thứ ba của các bên tham gia Hiệp định Paris. Kết thúc Hội nghị, 197 nước đã thông qua Hiệp định Khí hậu mới (Hiệp định Glasgow) và mang lại hy vọng lớn cho nhân loại với mục tiêu giữ nhiệt độ khí quyển chỉ tăng thêm 1,5oC vào giữa thế kỷ 21 bằng việc cắt giảm mạnh phát thải khí nhà kính và tiến tới đạt mục tiêu phát thải ròng khí nhà kính bằng "0" (net-zero) vào năm 2050.

    Hiểu ngắn gọn, net-zero là đạt được sự cân bằng giữa lượng khí nhà kính phát thải vào khí quyển và lượng được hấp thụ tại một giai đoạn bất kỳ. Đến nay, có 137 quốc gia, đại diện cho 88% tổng lượng phát thải thế giới, gồm các nước phát thải lớn như Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ đã cam kết hoặc hướng tới mục tiêu net-zero. Mỗi quốc gia tự đặt ra mốc thời gian để đạt mục tiêu này, phần lớn là vào năm 2050, một số ít ngoại lệ vào năm 2035 và muộn nhất vào năm 2070. Riêng Việt Nam, tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đưa ra cam kết net-zero cho Việt Nam vào năm 2050.

    Vậy đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam với nền kinh tế đang phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, mục tiêu liệu có khả thi? Những cam kết này sẽ mang lại những cơ hội và thách thức gì cho Việt Nam? Đâu là những điều kiện cần và đủ để chuyển hóa các cam kết chính trị thành những hành động cụ thể? Bằng cách nào? Do ai thực hiện? Nguồn lực ở đâu? Cần phải có đột phá gì, ở lĩnh vực then chốt nào? Tương lai phát triển của ngành năng lượng Việt Nam sẽ ra sao? Và năng lượng tái tạo có vai trò gì trong lộ trình hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 cho Việt Nam?

    Và vai trò của năng lượng tái tạo

    Để đạt được mục tiêu net-zero, mô hình dự báo tính toán các nguồn điện năng của Việt Nam cần được khử CO2 rất sâu, nguồn điện từ nhiên liệu hóa thạch chỉ còn chiếm 10% tổng công suất. Tuy nhiên, vẫn chưa đủ, cần các biện pháp tham vọng để giảm đáng kể phát thải trong các lĩnh vực khác, đồng thời tăng cường hấp thụ CO2.

    Tùy thuộc vào bản chất cũng như tính khả dụng công nghệ của từng ngành, sẽ có kịch bản mục tiêu giảm phát thải của từng ngành. Như chuyển đổi tối thiểu 85% phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang xe điện, cắt giảm 50% phát thải từ các hoạt động nông nghiệp, mức hấp thụ CO2 tăng lên 50%, đồng thời phát thải từ LULUCF giảm 30% so với BAU theo cam kết NDC.

    Đối với sản xuất điện, tăng 90% nguồn điện năng từ năng lượng tái tạo sẽ dựa chủ yếu vào các nguồn phi thủy điện, do tiềm năng các nhà máy thủy điện đã gần như được khai thác hết. Hiện nay, các nguồn năng lượng tái tạo phi thủy điện khả thi nhất vẫn giới hạn ở năng lượng gió và mặt trời. Cơ cấu sản lượng ngày càng tăng của điện tái tạo đòi hỏi nguồn điện dự phòng ổn định để đảm bảo điều kiện vận hành an toàn của toàn hệ thống, do bản chất dễ thay đổi và khó dự báo của điện gió và điện mặt trời.

    [​IMG]

    Theo như Dự thảo Quy hoạch điện 8 gần đây đưa ra kịch bản mới về năng lượng điện gió và các nguồn năng lượng tái tạo khác vào năm 2030 cụ thể: đạt 17 GW công suất lắp điện gió trên bờ; đạt 13 GW trong vòng 9 năm tới = 1,4 GW/ năm trên thị trường; được thúc đẩy bởi phương pháp Đấu thầu; đạt 4 GW mục tiêu lắp đặt điện gió ngoài khơi, nhưng GWEC cho rằng Việt Nam có thể đạt được mục tiêu từ 5 – 10 GW vào năm 2030. Trong giai đoạn 2030 – 2045 mục tiêu lắp đặt điện gió trên bờ là 38 GW tương đương 1,4 GW/ năm và ĐGKN là 36 GW tương đương 2,1 GW/ năm.

    Ông Phạm Minh Tuấn - Phó Chủ tịch HĐQT Bamboo Capital và cũng là Tổng Giám đốc BCG Energy, một đơn vị đã xem năng lượng mặt trời là mảng đầu tư chiến lược của mình tin rằng Việt Nam có cơ sở đạt mục tiêu net-zero và đủ điều kiện cho cuộc cách mạng năng lượng tái tạo những năm tới. "Cá nhân tôi rất ấn tượng trước thông báo của Việt Nam về mục tiêu để đạt net-zero vào năm 2050. Việc cam kết đưa phát thải ròng về "0" và tham gia cam kết mê-tan đã gửi đi tín hiệu mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế, khai thông nguồn tài chính toàn cầu và là cơ hội cho Việt Nam phát triển".

    Theo ông Tuấn, Việt Nam đã nổi lên như một điểm nóng về đầu tư năng lượng sạch trong khu vực Đông Nam Á nhờ sự phát triển của điện mặt trời. Kể từ khi biểu giá FiT cho điện mặt trời đầu tiên được ban hành vào năm 2017, sự bùng nổ phát triển của điện mặt trời trong khoảng ba năm qua đã dẫn đến việc có thêm hơn 16 GW công suất điện. Trong 5 năm tới, các dự án điện gió dự kiến sẽ dẫn đầu trong việc bổ sung thêm công suất điện. Việc phát triển và triển khai các nhà máy điện tái tạo này sẽ tạo ra các cơ hội thương mại và việc làm tại Việt Nam. Sẽ có cơ hội cho sự đổi mới trong tương lai khi các công nghệ mới được phát triển và mở rộng quy mô để đạt net-zero cho đất nước.

    Cá nhân tôi rất ấn tượng trước thông báo của Việt Nam về mục tiêu để đạt net-zero vào năm 2050. Việc cam kết đưa phát thải ròng về "0" và tham gia cam kết mê-tan đã gửi đi tín hiệu mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế, khai thông nguồn tài chính toàn cầu và là cơ hội cho Việt Nam phát triển"

    Phạm Minh Tuấn - Phó Chủ tịch HĐQT Bamboo Capital

    Cuối tháng 7/2021, BCG Energy và Tập đoàn SP (công ty điện lực hàng đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương) đã bắt tay hợp tác với mục tiêu phát triển 500 MW điện mặt trời áp mái tại Việt Nam… Và mới đây nhất, ngày 9/12/2021, BCG Energy tiếp tục ký hợp đồng để phát triển các dự án năng lượng tái tạo lên đến 1.5 GW tại Việt Nam với Sembcorp Utilities (công ty con trực thuộc Sembcorp Industries – Top 30 doanh nghiệp lớn nhất trên Sàn giao dịch chứng khoán Singapore). Việc BCG liên tục ký kết hợp tác với các "ông lớn" quốc tế cũng cho thấy sức hút của năng lượng sạch và tầm nhìn của các nhà đầu tư nước ngoài.

    Ngoài ra, ông Phạm Minh Tuấn chia sẻ thêm: "Các khó khăn về hạ tầng truyền tải lưới điện hay chính sách chỉ là vấn đề trước mắt. Net-zero sẽ là đích đến chung của các quốc gia phát triển. Cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP26 cho thấy tầm nhìn đúng đắn của các doanh nghiệp chọn đầu tư vào mảng năng lượng. BCG xác định năng lượng là cuộc đua đường dài nên chúng tôi không vì một số khó khăn trước mắt mà thay đổi chiến lược kinh doanh".

    Đạt mức net-zero vào năm 2050 là một mục tiêu đầy tham vọng mà Việt Nam cần vượt qua một số thách thức. Trong đó có thách thức liên quan đến việc có được nguồn tài chính cần thiết để tạo điều kiện quá trình chuyển đổi năng lượng, tiếp đến là đưa các công nghệ mới vào Việt Nam để hỗ trợ quá trình chuyển đổi. Các chính sách và khuôn khổ pháp lý mới cần được phát triển để thu hút đầu tư cho các công nghệ hỗ trợ tích hợp năng lượng tái tạo này.
    concuabaoto thích bài này.

Chia sẻ trang này