HAG - Cổ đông sát cánh cùng anh Đức - Sức mạnh của sự đa dạng: Nông nghiệp và BĐS vàng tại Myanmar

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi Daigia2011, 06/04/2014.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
6920 người đang online, trong đó có 1055 thành viên. 14:35 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 99306 lượt đọc và 1614 bài trả lời
  1. Vietbac1

    Vietbac1 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    10/05/2010
    Đã được thích:
    1.271
    Đọc bài này mới thấy lý do anh Đức lại nuôi bò:
    "
    Thân, lá ngô lai VN8960 cho bò sữa
    Đã khá lâu, tôi mới có dịp trở lại Cty CP Sữa Đà Lạt. Thật bất ngờ, những cánh đồng cỏ voi bát ngát trước đây để làm thức ăn cho đàn bò sữa được thay bằng những ruộng ngô ngút tầm mắt.

    Dẫn chúng tôi thăm cánh đồng ngô xanh tốt, đang trong thời kỳ thu hoạch, anh Nguyễn Đắc Cường, Tổng GĐ Cty CP Sữa Đà Lạt phấn khởi: "Toàn bộ cánh đồng ngô này được trồng để lấy thân, lá và bắp sữa làm thức ăn cho bò đấy. Từ năm 2007 Cty đã chuyển từ cho bò từ ăn cỏ sang ăn ngô, do vậy lượng sữa và chất lượng sữa đã tăng lên nhiều".

    Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết sau khi bắp ngô chín sữa thì Cty thu hoạch toàn bộ cây và bắp băm nhỏ cho bò ăn. Một phần Cty để bắp chín mới thu hoạch, sau đó băm nhỏ toàn bộ cây, lá và bắp ủ với muối dự trữ đến mùa khô làm thức ăn cho bò.

    [​IMG]
    Ngô lai VN8960 trồng mật độ dày nhưng bắp vẫn to, thân lá được sử dụng làm thức ăn cho bò sữa

    Theo anh Cường, ủ cỏ làm thức ăn dự trữ cho bò chỉ để được khoảng 3 - 4 tháng nếu không dùng hết thì phải bỏ, còn ủ thân, lá và bắp chín sữa của cây ngô có thể để được đến 2 năm mà chất lượng thức ăn vẫn đảm bảo nguồn dinh dưỡng.

    Những năm trước đây cứ vào mùa khô do cỏ không phát triển được, Cty phải chạy đôn chạy đáo tìm mua rơm làm thức ăn cho bò. Nay chỉ việc lấy thân, lá và bắp chín sữa đã dự trữ cho bò ăn. Để nuôi 800 con bò sữa thì nhu cầu nguồn thức ăn rất lớn (1 con bò trưởng thành mỗi ngày cần 50 kg thức ăn khô). Do vậy mỗi năm Cty trồng khoảng 300 ha ngô.

    "Vì trồng ngô làm thức ăn cho bò nên chúng tôi phải tìm được giống thoả mãn các yêu cầu chống chịu hạn tốt trồng trong mùa khô, với mật độ trồng dày mà trái bắp vẫn đạt yêu cầu phải to, đẫy hạt. Khi bắp chín thì lá vẫn xanh, và đặc biệt là bò ăn vào sẽ cho năng suất sữa cao, chất lượng tốt...", anh Cường chia sẻ.

    Trước đây Cty Sữa Đà Lạt đã sử dụng nhiều giống ngô khác nhau trồng làm thức ăn cho bò nhưng những giống đó năng suất sinh học (thân, lá và trái bắp) chỉ đạt khoảng 38 - 40 tấn /ha.

    Trong khi đó trồng trong mùa khô năng suất còn thấp hơn nữa; trồng trong mùa mưa thì mưa kéo dài khiến đầu bắp bị thối, chất lượng hạt giảm sút. Khi bắp chưa chín thì bộ lá đã bị bệnh cháy lá nên các giống đó không phù hợp trồng làm thức ăn cho bò.

    Sau khi tìm hiểu đặc tính của các giống ngô trên thị trường, Cty thấy giống ngô lai VN 8960 của Cty CP Giống cây trồng Nha Hố có thể đáp ứng được những tiêu chuẩn này. Từ năm 2008 Cty đã thử nghiệm trồng giống ngô lai VN 8960 để lấy thân, lá và bắp chín sữa làm thức ăn cho bò. Kết quả thật bất ngờ, giống ngô VN 8960 cho năng suất sinh học (thân, lá, và trái bắp) trên 55 tấn/ha, cao hơn các giống khác từ 5 - 10 tấn/ha.

    [​IMG]
    Anh Nguyễn Đắc Cường (trái), TGĐ Cty Sữa Đà Lạt và TS Vũ Xuân Long kiểm tra thức ăn bằng ngô VN 8960 cho bò sữa

    Mặc dù mùa khô tại đây rất khắc nghiệt nhưng cây ngô vẫn phát triển tốt. Còn mùa mưa, do lá bi che phủ kín hết đầu bắp nên gặp mưa kéo dài thì đầu trái bắp vẫn không bị thối. Đặc biệt là bắp chín nhưng lá vẫn còn xanh từ gốc lên đến ngọn, do vậy làm thức ăn cho bò là rất tốt, năng suất sữa cao.

    Theo anh Cường, giá giống ngô VN8960 rẻ hơn so với các giống ngoại nhập nên mỗi năm Cty đã tiết kiệm được một khoản chi phí khá lớn. Ngoài ra, giống ngô này kháng sâu bệnh rất tốt. Vào cuối vụ các giống khác thường xảy ra tình trạng cháy lá nhưng VN8960 hoàn toàn không bị nhiễm.

    Giống ngô lai VN 8960 do Viện Nghiên cứu ngô chọn tạo, năm 2004 được công nhận là giống quốc gia. Từ năm 2005, Cty CP Giống cây trồng Nha Hố (tỉnh Ninh Thuận) đã trồng thử nghiệm tại vùng đất khô hạn tỉnh Ninh Thuận. Kết quả cho thấy năng suất đều vượt trội so với các giống ngô đối chứng trong cùng điều kiện chăm sóc như nhau.

    TS Vũ Xuân Long, Tổng GĐ Cty CP Giống cây trồng Nha Hố cho biết: VN 8960 là giống ngô lai ngắn ngày, thời gian từ khi gieo đến khi thu hoạch khoảng 85 - 95 ngày. Với nhiều ưu điểm vượt trội, VN 8960 đã được người trồng ngô ưa chuộng bởi khả năng chịu hạn tốt, kháng sâu bệnh, không đổ ngã, dạng hạt bán đá, đóng hạt sâu, năng suất bình quân đạt 7 - 8 tấn hạt khô/ha. Nếu thâm canh tốt có thể đạt 11 - 12 tấn hạt khô/ha.


    VN8960 không kén đất, thích hợp trồng xen canh và gối vụ, dạng hình gọn, lá đứng nên cho phép tăng mật độ, không những tận dụng được quỹ đất mà còn làm cỏ dại không phát triển được.

    Điểm đặc biệt nữa của VN8960 là khi bắp chín thì bộ lá vẫn còn xanh nên có thể tận dụng thân, lá làm thức ăn cho gia súc. Những năm qua, nhiều địa phương trồng VN8960 đều cho mùa màng bội thu. "
    http://www.nhahoseed.com.vn/tin-tuc-su-kien/than-lá-ngo-lai-vn8960-cho-bo-sua-c8a141.html
    _NeMo_, TrachvanDoanh, Warren B1 người khác thích bài này.
    Vietbac1 đã loan bài này
  2. Vietbac1

    Vietbac1 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    10/05/2010
    Đã được thích:
    1.271
    SỬ DỤNG NGỌN MÍA LÀM THỨC ĂN CHO GIA SÚC NHAI LẠI
    Nguyễn Xuân Trạch

    Mía là một loại cây trồng có năng suất sinh khối cao hơn nhiều loại cây cỏ nhiệt
    đới khác. Hơn nữa, theo Preston (1989) cây mía có một số đặc điểm nổi trội để có thể
    dùng như một loại cây thức ăn đầy tiềm năng cho gia súc ở các nước nhiệt đới. Những
    đặc điểm nổi bật đó là:
    - Mía là cây trồng hàng năm nhưng chu kỳ kinh tế của ruộng mía lại có thể kéo
    dài vài ba năm, thậm chí 5-7 năm.
    - Khối lượng và chất lượng dinh dưỡng của cây mía tăng theo khoảng cách thu
    hoạch, với các giá trị tối ưu có thể đạt được với khoảng cách thu hoạch giữa 12-18 tháng.
    Đặc điểm này hoàn toàn trái ngược với hầu hết các loại cỏ nhiệt đới khác là những cây
    thường có năng suất và chất lượng giảm xuống khi khoảng cách giữa các lứa cắt tăng lên.
    - Hàm lượng vật chất khô của mía trung bình là 30%, cao hơn hầu hết các loại cỏ
    khác. Do vậy, chi phí cho thu hoạch, vận chuyển và chế biến tính trên đơn vị vật chất khô
    đối với mía sẽ thấp hơn phần lớn các loại cỏ khác.
    - Cây mía dễ tách thành các phần khác nhau (như nước và bã) nên có thể cho phép
    sử dụng dưới các dạng thức ăn khác nhau.
    - Cây mía chịu được nhiều loại đất và điều kiện khí hậu khác nhau. Hơn nữa bằng
    việc duy trì tầng lá xanh quanh năm (hay phủ bởi lớp lá già) nó giúp cho việc chống xói
    mòn đất. Đây là một lợi thế so sánh hơn các loại cây thức ăn khác như sắn hay ngô.
    - Nông dân có truyền thống và nhiều kinh nghiệm trồng mía.
    Chính vì thế, trong vài chục năm gần đây nhiều nghiên cứu đã được tiến hành
    trong và ngoài nước nhằm khai thác tiềm năng dinh dưỡng của loại cây trồng này làm
    thức ăn cho gia súc.
    Năng suất ngọn mía
    Ngọn mía là phần trên của cây mía được chặt bỏ lại trên ruộng sau khi thu hoạch
    cây mía. Ngọn mía bao gồm 3 phần khác nhau: phần lá xanh phía trên, phần bẹ lá và
    phần lõi ngọn cây non. Năng suất ngọn mía thay đổi đáng kể tuỳ theo giống mía, thời
    gian thu hoạch, điều kiện trồng và chăm sóc. Thông thường ngọn mía chiếm khoảng 10-
    18% tổng sinh khối trên mặt đất của cây mía. Theo lý thuyết thì lượng ngọn mía thu được
    từ mỗi ha mía (khoảng 21 tấn) đủ để làm nguồn thức ăn xanh cả năm cho 2 con bò hay
    trong 4 tháng thiếu cỏ của vụ đông xuân/mùa khô cho 6 con bò. Nước ta là một nước
    nhiệt đới có khả năng và thực tế đã trồng rất nhiều mía để sản xuất đường. Ngọn mía là
    một nguồn sinh khối rất lớn có thể khai thác làm thức ăn cung cấp năng lượng cho gia súc
    nhai lại.
    Hạn chế của ngọn mía khi làm thức ăn gia súc
    Tính mùa vụ
    Ngọn mía cho gia súc ăn tốt nhất là ngay sau khi thu hoạch. Tuy nhiên, việc thu
    hoạch mía mang tính mùa vụ (thường từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau). Khi
    thu hoạch ồ ạt thì gia súc ăn không hết (Sơ đồ 1), còn việc bảo quản lâu dài sẽ có một số
    khó khăn liên quan.
    Sơ đồ 1: Sơ đồ lý thuyết về tính mùa vụ trong sản xuất cỏ xanh và ngọn mía


    Nhu cầu TA thô xanh
    Thiếu TA thô xanh
    Sản lượng ngọn
    mía
    Sản lượng cỏ
    xanh
    4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3
    tháng
    Dinh dưỡng không cân bằng
    Giá trị dinh dưỡng của ngọn mía sẽ tương đối thấp nếu chỉ cho ăn riêng nó bởi vì
    thành phần các chất dinh dưỡng trong đó không cân bằng để đáp ứng nhu cầu của vi sinh
    vất dạ cỏ và của gia súc. đặc biệt, trong ngọn mía hàm lượng và tỷ lệ tiêu hoá của protein
    rất thấp. Chính vì thế nếu chỉ cho gia súc nhai lại ăn bã mía mà không có các thức ăn bổ
    sung khác thì hoạt động của vi sinh vật dạ cỏ sẽ kém và do đó mà khả năng đáp ứng nhu
    cầu dinh dưỡng cho vật chủ sẽ bị hạn chế.
    Khó khăn trong thu lượm và vận chuyển
    Đối với các nông hộ chăn nuôi quy mô nhỏ thì việc thu lượm ngọn mía có thể
    không có gì khó khăn vì có nhiều lao động nhàn rỗi trong gia đình. Tuy nhiên đối với các
    cơ sở chăn nuôi lớn thì việc này do đòi hỏi nhiều công lao động nên chi phí có thể lớn.
    Để thu được 1 tấn ngọn mía thường cần 1 công lao động. Ở một số nước người ta dùng
    máy bó ngọn mía để dễ dạng cho việc thu lượm, vận chuyển và cất trữ.
    Mặc dù ngọn mía có thể không phải mất tiền mua, nhưng nếu thu lượm nhiều thì
    cần phải được phép của chủ trồng mía. Một số người trồng mía dùng ngọn mía như
    nguồn phân cải tạo đất và họ coi việc lấy ngọn mía ra khỏi ruộng là làm mất dinh dưỡng
    cho đất. Việc này có thể giải quyết bằng cách trao đổi phân chuồng lấy ngọn mía hay trả
    tiền cho người trồng mía để họ mua phân bón.
    Vận chuyển ngọn mía đi xa cũng là một vấn đề vì nó làm tăng chi phí và do sự
    cồng kềng. Điều này có thể hạn chế khả năng sử dụng ngọn mía để nuôi gia súc vì nơi
    trồng mía chuyên canh thường xa nơi chăn nuôi.
    Việc đốt mía để dễ dàng cho thu hoạch cây như mộ số nơi vẫn làm cũng là một
    khó khăn cho việc thu ngọn mía. Mặc dù có mất đi một phần vật chất khô, phần ngọn mía
    còn lại sau khi đốt vần là một nguồn thức ăn tốt cho gia súc nhai lại (ăn ngay hay ủ chua).
    Tổn thất ngọn mía do đốt tuỳ thuộc vào độ xanh ban đầu của lá, độ ẩm và mức độ gió khi
    đốt.
    Khó khăn khi bảo quản
    Việc ủ ngọn mía trong các hố ủ nhằm bảo quản được lâu dài sau khi thu hoạch đòi
    hỏi phải có chi phí, kiến thức và kinh nghiệm. Đây cũng là một trở ngại đối với người
    nông dân chăn nuôi nhỏ lẻ với tiềm lực hạn chế. Do vậy, việc chuyển giao được cho ông
    dân các kỹ thuật bảo quản ngọn mía thích hợp với điều kiện cụ thể của họ đòi hỏi phải có
    sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan nghiên cứu, đào tạo, khuyến nông và chính quyền
    địa phương.
    Những yếu tố khác
    Chùm hoa của cây mía thường không dùng làm thức ăn cho trâu bò. Một số giống
    mía ra hoa sớm và nhiều nên hạn chế lượng ngọn mía có để nuôi gia súc ở các nông hộ
    nhỏ. Tuy nhiên, trên quy mô lớn phần lớn hoa mía được thu cùng ngọn mía và được chặt
    bỏ. Thực ra giá trị dinh dưỡng của hoa mía hiện nay vẫn chưa được nghiên cứu.
    Mặt khác, hiện nay người ta có thể dùng hoá chất để làm mía chín trên quy mô
    lớn nhằm tăng hàm lượng sucroza của cây mía. Ảnh hưởng của việc này lên thành phần
    dinh dưỡng của ngọn mía cũng chưa được xác định.
    Thành phần và giá trị dinh dưỡng của ngọn mía
    Thành phần hoá học và tỷ lệ tiêu hoá
    Thời gian chặt ngọn rất thay đổi nên thành phần của ngọn mía có sự thay đổi rất lớn.
    Bảng 1 tổng hợp thành phần hoá học của ngọn mía và tỷ lệ tiêu hoá của chúng trên bò.
    Trong 1 kg VCK ngọn mía chỉ có 23g protein tiêu hoá. Tuy vậy, ngọn mía chứa một
    lượng đáng kể dẫn suất không đạm (DSKN) thích hợp cho quá trình lên men trong dạ cỏ
    cũng như khi ủ chua. Nói chung tỷ lệ tiêu hoá VCK thấp (54%) và tỷ lệ tiêu hoá protein
    thô càng thấp (39%). Thành phần hữu cơ cấu trúc của ngọn mía được tóm tắt trong bảng
    2. Thành phần hoà tan trong chất tẩy trung tính (NDS) hầu như được tiêu hoá hoàn toàn
    (98%) trong khi đó tỷ lệ tiêu hoá in-vitro của xơ chỉ đạt 50,2% (Kevelenge et al., 1983a).
    Thành phần khoáng trung bình của ngọn mía (tính theo % VCK) như sau: Khoáng tổng
    số 9,6%, Ca 0,43%, P 0,15%. Na 0,05% và K 2,31% (Naseeven, 1989). Cừu được nuôi
    bằng ngọn mía duy nhất cho thấy có cân bằng dương về các nguyên tố khoáng đa lượng
    trừ phốt-pho (Kevelenge et al., 1983b).
    Năng lượng
    Theo Kevelenge và CS (1983) ngọn mía có giá trị năng lượng thô (GE) là 15,9
    MJ/kg VCK, năng lượng tiêu hoá (DE) là 8,3 MJ/kg VCK, năng lượng trao đổi (ME) là
    6,9 MJ/kg VCK. Như vậy, bình thường ngọn mía có giá trị năng lượng thấp hơn nhiều so
    với thức ăn xanh chất lượng tốt (10 MJ ME/kg VCK).
    Giá trị dinh dưỡng của ngọn mía khi cho ăn độc lập
    Gia súc nhai lại ít khi chỉ nuôi dưỡng bằng ngọn mía, mặc dù ngọn mía có tính
    ngọn miệng cao và gia súc ăn được khá nhiều (1,7-2kg VCK/100 kg thể trọng). Tuy
    nhiên nếu chỉ cho gia súc ăn ngọn mía thì chúng có thể giảm trọng hay chỉ đủ để duy trì
    cơ thể. Trong một vài trường hợp chúng có thể cho được một mức sản xuất thấp. Tuy
    nhiên nếu người chăn nuôi tách được các phần của ngọn mía và chỉ cho ăn phần non hay
    có nhiều ngọn mía cho con vật tự lựa chọn thì cho ăn ngọn mía có thể cho phép gia súc
    nhai lại đạt được một mức mức sản xuất trung bình. Phần lõi ngọn non bên trong và phần
    bẹ có hàm lượng đường cao hơn phần lá xanh. Tốc độ phân giải ở dạ cỏ của phần bẹ
    4thường cao hơn phần lá, mặc dù tiềm năng phân giải tối đa là tương tự nhau (Naseeven,
    1989).
    Phương pháp nâng cao khả năng sử dụng ngọn mía làm thức ăn cho gia
    súc nhai lại
    Ngọn mía thường được sử dụng làm thức ăn cho trâu bò trong mùa khô khi mà
    các nguồn thức ăn xanh trở nên khan hiếm. Ngọn mía có tính ngọn miệng cao và gia súc
    ăn được khá nhiều (1,7-2kg VCK/100 kg thể trọng). Tuy nhiên, do giá trị năng lượng
    tương đối thấp và thành phần dinh dưỡng không cân đối nên nếu chỉ cho gia súc ăn ngọn
    mía thì chúng có thể giảm trọng hay chỉ đủ để duy trì cơ thể, mặc dù trong một vài trường
    hợp chúng cũng có thể cho được một mức sản xuất thấp trên mức duy trì. Mặt khác, ngọn
    mía cho gia súc ăn tốt nhất là ngay sau khi thu hoạch, nhưng việc thu hoạch mía lại mang
    tính mùa vụ (thường từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau) nên khi thu hoạch ồ ạt
    thì gia súc ăn không hết. Do vậy, nhằm làm tăng khả năng sử dụng ngọn mía làm thức ăn
    cho gia súc nhai lại về nguyên tắc có 4 cách như sau:
    Cách 1: Chọn lựa những phần ngon cho gia súc ăn
    Nếu người chăn nuôi tách được các phần của ngọn mía và chỉ cho ăn phần non
    hay có nhiều ngọn mía cho con vật tự lựa chọn thì cho ăn ngọn mía có thể cho phép gia
    súc nhai lại đạt được một mức mức sản xuất trung bình. Phần lõi ngọn non bên trong và
    phần bẹ có hàm lượng đường cao hơn phần lá xanh. Tốc độ phân giải ở dạ cỏ của phần bẹ
    thường cao hơn phần lá, mặc dù tiềm năng phân giải tối đa là tương tự nhau (Naseeven,
    1989). Tuy nhiên, cách này chỉ phù hợp với chăn nuôi quy mô nhỏ mà không thực tế đối
    với chăn nuôi quy mô lớn.
    Cách 2: Bảo quản ngọn mía để cho ăn ngoài vụ thu hoạch
    Nếu trồng mía chỉ để làm thức ăn cho gia súc thì không cần phải ủ để bảo quản
    nhờ đặc điểm sinh trưởng của nó. Đó là vì giá trị dinh dưỡng của cây mía cao nhất vào
    đúng mùa khô khi mà các loại cỏ khác giảm sút cả về năng suất và chất lượng, trong khi
    đó cây mía lại có thể để nguyên trên ruộng đến khi nào cần thì thu hoạch. Tuy nhiên, nếu
    trồng mía để sản xuất đường là chính và sử dụng ngọn để nuôi gia súc thi việc ủ bảo quản
    lại rất cần thiết vì trong trường hợp này ngọn mía chỉ có sẵn nhiều vào vụ thu hoạch mía.
    Thực tế nhiều phương pháp bảo quản để sử dụng được ngọn mía ngoài vụ thu hoạch đã
    được nghiên cứu và thử nghiệm bao gồm từ việc ủ trong các túi nylon nhỏ, ủ trong các
    hào ủ dưới đất, ủ trong các silo đơn giản trên mặt đất (1-4 tấn), trong các silo bê-tông (2-
    6 tấn) và trong các silo bê-tông cở lớn (100-4000 tấn).
    Việc ủ ngọn mía trong các silo bê-tông cở lớn và vừa đã được sử dụng thành công
    ở nhiều nước khác nhau. Ngọn mía được chặt và phun thêm rỉ mật đã được hoà loãng với
    nước (1-5% vật chất tươi), cho vào silo và nén chặt, sau đó được phủ bằng các tấm nhựa.
    Tổn thất thức ăn ủ chua rất thấp (5%) và chất lượng thức ăn ủ rất tốt. Chất lượng ngọn
    mía ủ với rỉ mật (1-5% ngọn tươi) và sunphát amôn (1%) tương đương với các tiêu chuẩn
    chất lượng của cỏ ủ chua ôn đới (Deville và CS, 1979).
    Gần đây người ta cũng đã ủ ngọn mía thành công với urê trong silo bê-tông cở
    nhỏ (1-4 tấn) trong các nông hộ. Thức ăn ủ được nông dân đánh giá cao và bò ăn rất tốt.
    Tỷ lệ urê dùng là 4-6% VCK của ngọn mía. Trong khi đó, việc ủ ngọn mía trong các hố ủ
    vách đất (ngọn mía chặt ngắn và chất đống vào hố ủ, giẫm chặt, thêm urê, rồi che phủ bởi
    các tấm lylon và đất ở phía trên) cho kết quả không ổn định, dễ bị hỏng, đặc biệt là trong
    mùa mưa.
    Một điều cần lưu ý khi ủ ngọn mía, đặc biệt là mía cả cây, là hàm lượng đường dễ
    tan trong đó có thể quá cao. Nếu không có thêm các chất bổ sung khác, phần lớn đường
    này có thể chuyển thành rượu và do đó mà giá trị dinh dưõng bị giảm rất nhiều. Do đó,
    cần có các biện pháp bảo vệ để đảm bảo cho vi khuẩn lắctic phát triển tốt nhứ không phải
    là nấm men. Có thể sử dụng amôniac (24g/kg VCK) hay hỗn hợp urê với phân bò cho
    phép lên men trước khi trộn với mía thái đem ủ nhằm mục đích chống nấm men phát
    triển (đồng thời bổ sung N).
    Cách 3: Bổ sung để cân bằng dinh dưỡng
    Bổ sung hợp lý dinh dưỡng là mấu chốt cho việc nâng cao năng suất của gia súc
    nuôi bằng ngọn mía. Tuy vậy, cho đến nay người ta vẫn đang còn ít quan tâm đến vai trò
    hết sức quan trọng của việc bổ sung dinh dưỡng như là một phương tiện để tăng hiệu quả
    sử dụng ngọn mía làm thức ăn cho gia súc. Theo Preston (1989), có 2 nguyên tắc chính
    khi bổ sung dinh dưỡng là:
    - Đáp ứng nhu cầu của vi sinh vật dạ cỏ về nitơ lên men (amôniac), các vi chất
    dinh dưỡng (peptit, axit amin, khoáng và vitamin) và góp phần tạo ra các điều kiện cho
    một hệ sinh thái dạ cỏ có hiệu lực cao (cung cấp một lượng nhỏ chất xơ dễ tiêu).
    - Cung cấp các nguồn protein, tiền thân glucoza và axit béo mạch dài có khả năng
    thoát qua sự phân giải ở dạ cỏ để cân bằng với các sản phẩm lên men cuối cùng tuỳ theo
    nhu cầu sản xuất của gia súc.
    Vì ngọn mía có hàm lượng protein tiêu hoá thấp (nếu không xử lý urê) nên trước
    tiên cần bổ sung thêm một nguồn nitơ nào đó. Hạt bông, cám gạo, các loại khô dầu, bã
    bia, bột cá, và urê có thể sử dụng làm nguồn bổ sung N/protein khi cho gia súc nhai lại ăn
    ngọn mía tươi hay ngọn mía ủ chua. Gần đây người ta đã nghiên cứu sử dụng bánh dinh
    dưỡng chứa rỉ mật với hàm lượng urê cao để bổ sung một phần N để có thể sử dụng ngọn
    mía nuôi bò sữa. Mặt khác, có thể có được các vi chất dinh dưỡng và hệ sinh thái dạ cỏ
    tốt bằng cách bổ sung các loại thức ăn xanh dễ tiêu hoá như ngọn khoai lang, lá các loại
    cây bộ đậu như lá cây keo đậu. Mức bổ sung các loại lá này thường là 600g VCK/100kg
    thể trọng.
    Nguyên tắc bổ sung dinh dưỡng thoát qua là làm sao cho các chất dinh dưỡng
    nhạy cảm (axit amin, tinh bột, axit béo) phải tồn tại ở trạng thái khó bị tấn công bởi vi
    sinh vật của dạ cỏ. Do vậy, bổ sung bột sắn và rỉ mật là những chất dễ bị phân giải ở dạ
    cỏ sẽ kém hiệu lực hơn bổ sung bột ngô như là một nguồn tiền thân glucoza. Tuy nhiên,
    rỉ mật cũng có thể dùng để bổ sung thêm năng lượng cho gia súc có nhu cầu sản xuất khá
    cao. Bổ sung rỉ mật ở mức 1-1,5% thể trọng có thể không làm ảnh hưởng đến tiêu hoá và
    thu nhận ngọn mía khi có đủ nguồn cung cấp N/protein trong khẩu phần. Cám gạo là một
    nguồn bổ sung các chất dinh dưỡng thoát qua rất tốt vì nó giàu các axit amin không thay
    thế, tinh bột và lipit. Các thức ăn bổ sung khác hay kết hợp giữa các loại thức ăn bổ sung
    (ví dụ khô dầu hạt bông hay kết hợp ngô hạt với bột cá) cũng mang lại kết quả tốt.
    Cách 4: Xử lý nâng cao giá trị dinh dưỡng của ngọn mía
    Ngoài việc sử dụng hợp lý các loại thức ăn bổ sung thích hợp, có thể áp dụng các
    phương pháp xử lý nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng của ngọn mía, đặc biệt là các
    6phương pháp kiềm hoá. Tuy nhiên kết quả thu được như trong bảng 3 cho thấy xử lý urê
    không làm tăng tỷ lệ tiêu hoá VCK của ngọn mía như đối với xử lý rơm. Chưa có giải
    thích nào cho trường hợp này và cần phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa để làm sáng tỏ
    hơn. Tuy nhiên, ưu điểm của xử lý urê là làm tăng hàm lượng protein thô để tối ưu hoá
    hoạt động của vi sinh vất dạ cỏ. Hơn nữa, xử lý urê là một phương pháp tốt để bảo quản
    ngọn mía được lâu dài vì amôniac sinh ra có tác dụng chống mốc rất mạnh.
    Kết luận
    Ngọn mía là một nguồn phụ phẩm có sẵn trong vụ thu hoạch mía với khối lượng
    rất lớn. Nếu biết sử dụng ngọn mía một cách hợp lý để khắc phục những hạn chế của nó
    ta có thể có được một nguồn thức ăn thô dồi dào quanh năm cho gia súc nhai lại. Để sử
    dụng được ngọn mía trong những tháng khó khăn về thức ăn thô xanh ngoài vụ thu hoạch
    mía thì biện pháp hàng đầu là sử dụng các phương pháp bảo quản. Vấn đề giá trị dinh
    dưỡng tương đối thấp của ngọn mía thực ra là do thiếu kiến thức về việc bổ sung dinh
    dưỡng một cách chính xác để khai thác được tối đa khả năng của khẩu phần ăn. Do đó,
    rất cần phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa để tìm ra được các dạng bổ sung lý tưởng và rẻ
    tiền.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Deville J. P., Wong You Cheong Y., Leclezio P. and Duvivier P. (1979). Producción de
    ensilaje de cogollo de caña y su uso para el ganado bovino. Producción Animal
    Tropical, 4 (2):134–137.
    Ferreiro H.M. and Preston T.R. (1977) Digestibility and voluntary intake of derinded
    sugarcane stalk with and without addition of cane tops. Trop. Anim. Prod., 2:90–99.
    Kevelenge J.E.E., Said A.N. and Kiflewahid B. (1983). The nutritive value of four arable farm
    byproducts commonly fed to dairy cattle by small scale farmers in Kenya. Trop. Anim.
    Prod. 8:171–179.
    Naseeven M. R. (1989). Sugarcane tops as animal feed. In Sugarcane as animal feed. In FAO
    Animal Production and Health Paper 72.
    Preston T. R. (1989). Sugarcane as animal feed: An overview. In FAO Animal
    Production and Health Paper 72.
    Vietbac1 đã loan bài này
  3. Vietbac1

    Vietbac1 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    10/05/2010
    Đã được thích:
    1.271
    Anh Đức làm khép kín chu trình nhỉ :drm1:drm1:drm1:drm1:drm1
  4. Daigia2011

    Daigia2011 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/01/2011
    Đã được thích:
    1.153
    Ok bác. Chống mắt đợi HaG vượt 3x rồi làm thớt mới!
  5. Vietbac1

    Vietbac1 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    10/05/2010
    Đã được thích:
    1.271
    Chắc cũng ko lâu đâu bác nhỉ
  6. mrhongbh

    mrhongbh Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    06/11/2013
    Đã được thích:
    2.619
    3x chắc sẽ vượt nhanh thôi tiềm năng quá mà.
  7. Daigia2011

    Daigia2011 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/01/2011
    Đã được thích:
    1.153
    Cứ qua mốc đó làm cái thớt mới, anh em ủng hộ nhé :).
    Warren BLaKimTai thích bài này.
  8. 2lan68

    2lan68 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2010
    Đã được thích:
    98
  9. theducbeo

    theducbeo Thành viên rất tích cực Not Official

    Tham gia ngày:
    13/02/2014
    Đã được thích:
    31
    Warren B thích bài này.
  10. Audi.M

    Audi.M Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/12/2010
    Đã được thích:
    185
    Thị trường Bò thịt ở Việt Nam là miếng mồi ngon cho HAG. với chi phí, giá thành thấp và tận dụng nguồn thức ăn có sẵn thì đây là dự án mới có rất nhiều tiềm năng. VNM, TH True milk... rất sợ tính cách Bầu Đức... HAG chuẩn bị đón rất nhiều Quỹ đến đặt vấn đề. http://dantri.com.vn/kinh-doanh/ba-...dat-cho-toi-tay-nguyen-se-thay-doi-859888.htm.
    chinhdalat thích bài này.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này