Hóa giải cơn sốt U$D

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi bigheads, 01/06/2008.

6667 người đang online, trong đó có 442 thành viên. 08:05 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 18274 lượt đọc và 208 bài trả lời
  1. bigbelll

    bigbelll Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/03/2007
    Đã được thích:
    0
    Cty e Nhập khẩu thường xuyên tỷ giá là nỗi ám ảnh phát sợ, Pác Pm cho em một số DN Xuất khẩu để thoả thuận tỷ giá với được không???, Ký hợp đồng 10 năm luôn nhá, thank bác trước
    Các đồng tiền có thể thoả thuận là VNĐ, USD, CNY, EUR, vậy bác nhé....
  2. access_x2hx

    access_x2hx Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Đã được thích:
    0
    làm j có cái tỉ giá thoả thuận trong 10 năm .Em tính sơ sơ mỗi năm lạm phát 7-10% thì 10 năm sau tỉ giá sẽ phụ thuộc vào thằng nào mạnh hay yếu thôi
  3. rose4love

    rose4love Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    28/12/2007
    Đã được thích:
    28
    NHNN sắp bán USD ra để bình ổn
  4. bigheads

    bigheads Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/04/2007
    Đã được thích:
    5
    Hóa ra các bác NHNN vẫn đang bức xúc với chất vấn của QH. Đây, thì trả lời nhé.
    Ngày mai bắt đầu chiến với Speculators...hoan hô

    Thống đốc Ngân hàng Nhà nước báo cáo giải trình chất vấn của Đại biểu Quốc hội

    Tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XII, Ngân hàng Nhà nước đã nhận được chất vấn của 9 Đại biểu Quốc hội thuộc Đoàn Đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố: Hải Dương, Kiên Giang, Bình Dương, Bến Tre, Đồng Tháp, Hà Nội, Nghệ An, Gia Lai, Yên Bái và một số ý kiến của cử tri cả nước do Ban Dân nguyện Quốc hội tổng hợp. Nội dung chất vấn của các vị Đại biểu tập trung vào vấn đề điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, ngoại tệ, lãi suất và việc cấp giấy phép thành lập tổ chức tín dụng. Thực hiện sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, chiều ngày 30/5/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo giải trình chất vấn của Đại biểu Quốc hội tại Hội trường Ba Đình.


    1. Về điều hành chính sách tiền tệ:


    Trong bối cảnh nền kinh tế của Việt Nam nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng phát triển thuận lợi, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ năm 2004. Riêng năm 2007, kinh tế thế giới và trong nước có những biến động phức tạp, khó lường, từ giữa năm 2007, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt nhằm kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng, cụ thể: (i) Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc gấp 2 lần kể từ ngày 28/5/2007; (ii) ban hành Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Đặc biệt, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 18/2007/CT-TTg ngày 1/8/2007 về một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường và Chỉ thị số 23/2007/CT-TTg ngày 31/10/2007 về tăng cường thực hiện các giải pháp điều hành giá cả, bình ổn thị trường trong những tháng cuối năm 2007, Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường bán tín phiếu để thu tiền từ lưu thông về và ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007 về đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán. Tuy vậy, công tác thống kê, dự báo và thanh tra, giám sát ngân hàng còn hạn chế cho nên những điều chỉnh trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước chưa theo kịp với diễn biến của nền kinh tế và đạt hiệu quả chưa cao.


    2. Giải pháp để ổn định tiền tệ, tín dụng và góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô:


    Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 75/TTg-KTTH ngày 15/1/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện các giải pháp: Nới lỏng biên độ điều hành tỷ giá; chủ động thu hút tiền từ lưu thông về để sử dụng mua ngoại tệ thông qua tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và từ ngày 19/5/2008, thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cơ bản cho phù hợp với Luật Ngân hàng Nhà nước, Bộ Luật dân sự và đáp ứng tính thị trường; kiểm tra chặt chẽ các ngân hàng thương mại cổ phần vừa được tái cơ cấu và chuyển đổi từ ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn lên đô thị; chỉ đạo các ngân hàng thương mại tập trung đầu tư tín dụng vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nhất là sản xuất nông nghiệp nông thôn, cho vay xuất khẩu, cho vay hộ nghèo, cho vay sinh viên và các đối chính sách khác để góp phần bảo đảm an sinh xã hội.


    Những biện pháp này bước đầu đã đưa các chỉ tiêu tiền tệ biến động theo hướng góp phần kiềm chế lạm phát: (i) Tổng phương tiện thanh toán đến tháng 5/2008 tăng 3,73% so với cuối năm 2007, thấp hơn so với mức tăng 17,57% của cùng kỳ năm trước; (ii) Tốc độ tăng dư nợ tín dụng tăng 18,42%, tuy vẫn còn ở mức cao so với tốc độ tăng 13,36% của cùng kỳ năm trước, nhưng có xu hướng giảm dần (tốc độ tăng dư nợ tín dụng của tháng 1/2008 là 6,3%, tháng 2/2008 là 2,35%, tháng 3/2008 là 3,78%, tháng 4/2008 là 3,36% và tháng 5/2008 là 2,25%).


    Để tiếp tục góp phần tích cực thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, từ nay đến cuối năm 2008, Ngân hàng Nhà nước tập trung triển khai một số giải pháp sau: (1). Định hướng kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán năm 2008 không vượt quá 30% so với cuối năm 2007. (2). Điều hành tỷ giá và lãi suất linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với quan hệ cung cầu. (3). Tăng cường giám sát thị trường tiền tệ, thiết lập hệ thống thông tin nhanh để kịp thời đánh giá đúng diễn biến thị trường và có biện pháp can thiệp phù hợp. (4). Tăng cường công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước và chấn chỉnh toàn diện hoạt động quản trị, điều hành, kiểm soát, kiểm toán nội bộ, việc chấp hành các quy định về bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng.


    3. Vấn đề đưa tiền vào lưu thông và hút tiền về từ lưu thông:


    Trong năm 2007, lượng tiền Ngân hàng Nhà nước cung ứng vào lưu thông bằng 82% chỉ tiêu kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Lượng tiền Ngân hàng Nhà nước rút về từ lưu thông đạt 80% lượng tiền đã cung ứng để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà nước.


    Các biện pháp chủ yếu Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng để hút tiền về là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, thu hồi các khoản cho vay tái cấp vốn đến hạn.






    Được bigheads sửa chữa / chuyển vào 21:01 ngày 04/06/2008
  5. bigheads

    bigheads Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/04/2007
    Đã được thích:
    5
    4. Về tác động của các biện pháp thắt chặt tiền tệ đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp xuất khẩu:


    Để hạn chế những tác động không thuận lợi cho thị trường tiền tệ khi chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ nới lỏng sang thắt chặt theo chỉ đạo của Chính phủ, những biện pháp hút tiền về trong những tháng đầu năm 2008 của Ngân hàng Nhà nước được áp dụng có chọn lọc tuỳ theo từng loại hình tổ chức tín dụng: tăng 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc (không áp dụng đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn) và theo quyết định, các tổ chức tín dụng có 45 ngày chuẩn bị trước khi thực hiện; phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc chỉ áp dụng đối với 41/88 ngân hàng thương mại có quy mô vốn huy động bằng VND trên 1.000 tỷ đồng (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương), trong đó tỷ trọng mua của các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm 47,5%, 18/41 ngân hàng mua với mức thấp từ 100 tỷ đến 150 tỷ và các tổ chức tín dụng có 35 ngày chuẩn bị.


    Tuy Ngân hàng Nhà nước đã triển khai chủ trương, giải pháp điều hành tiền tệ theo hướng thắt chặt ngay từ cuối năm 2007 và tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngân hàng đầu tháng 1/2008, nhưng hầu hết các tổ chức tín dụng chậm điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho phù hợp, vẫn tăng nhanh dư nợ tín dụng (dư nợ tín dụng tháng 1/2008 tăng tới 6,3% so với tháng trước) nên nhất thời đã gặp khó khăn về thanh khoản. Về chủ quan, Ngân hàng Nhà nước đã dự báo trước những tác động của các biện pháp hút tiền về, nhưng chưa lường hết các phản ứng phụ nảy sinh đối với một số ngân hàng thương mại sử dụng vốn vay trên thị trường liên ngân hàng để tăng dư nợ tín dụng và chưa thực hiện đầy đủ quy định của Ngân hàng Nhà nước về bảo đảm an toàn.


    Việc các doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn trong việc bán ngoại tệ tại một số thời điểm là do lượng ngoại tệ dư thừa quá lớn, các ngân hàng thương mại đăng ký bán cho Ngân hàng Nhà nước có ngày lên đến 739 triệu USD, trong khi Ngân hàng Nhà nước chỉ can thiệp mua ở mức rất thấp do phải giảm lượng tiền cung ứng để kiềm chế lạm phát.


    Để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp xuất khẩu, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng nhiều giải pháp: (i) tăng lượng tiền cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn (thời hạn từ 1-2 tuần) để hỗ trợ vốn thanh khoản; (ii) nới lỏng biên độ điều hành tỷ giá mua ?" bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng từ ±0,5% lên ±1%; (iii) Tiếp tục mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà nước trên cơ sở lượng tiền rút về từ lưu thông và ưu tiên mua đối với các tổ chức tín dụng đã mua ngoại tệ của doanh nghiệp xuất khẩu.


    5. Về vấn đề dự trữ ngoại tệ quốc gia:


    Hiện nay, Bộ Tài chính được Chính phủ giao quản lý một số nguồn ngoại hối thuộc sở hữu Nhà nước, bao gồm: (1) Quỹ ngoại tệ tập trung được thành lập theo Quyết định 93/2000/QĐ-BTC ngày 06/6/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Quỹ này được hình thành từ các khoản thu bằng ngoại tệ của ngân sách nhà nước (thu từ bán dầu thô và một số khoản thu quan trọng khác). (2) Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài được thành lập theo Quyết định số 10/2006/QĐ-BTC ngày 28/2/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính để tập trung các khoản thu từ nguồn vốn cho vay, viện trợ nước ngoài, các khoản thu phí bảo lãnh của Chính phủ để đảm bảo việc hoàn trả nợ nước ngoài.


    6. Về việc thực hiện chức năng quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước


    Theo quy định tại Nghị định số 86/1999/NĐ-CP ngày 30/8/1999 của Chính phủ về quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối nhà nước. Dự trữ ngoại hối nhà nước được chia thành 2 quỹ: (i) Quỹ Dự trữ ngoại hối được sử dụng để đầu tư trên thị trường quốc tế và đáp ứng cho nhu cầu ngoại hối đột xuất, cấp bách của Nhà nước theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; (ii) Quỹ Bình ổn tỷ giá và giá vàng được sử dụng để can thiệp thị trường ngoại tệ và thị trường vàng trong nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Việc tổ chức thực hiện chức năng quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước của Ngân hàng Nhà nước luôn đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước.


    7. Vấn đề mua hơn 9 tỷ USD tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước trong năm 2007:


    Từ đầu năm 2007, luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng đột biến, Ngân hàng Nhà nước đã mua hơn 9 tỷ USD tăng dự trữ ngoại hối nhà nước (chủ yếu mua trong 6 tháng đầu năm 2007 với số tiền là 8,1 tỷ USD). Đây là biện pháp cần thiết, vừa để giảm áp lực dư cung ngoại tệ, hạn chế tình trạng đôla hoá cho nền kinh tế, vừa để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước theo chủ trương của Chính phủ. Để trung hoà lượng tiền VND đưa ra mua ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng nhiều biện pháp hút tiền về từ lưu thông như tăng dự trữ bắt buộc lên gấp 2 lần từ ngày 28/5/2007, tăng khối lượng phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước? Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước chưa kịp thời dự báo được mức độ tăng của luồng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam khá lớn để có kế hoạch chủ động điều tiết việc đưa ra mua ngoại tệ và thu hồi tiền trở lại từ lưu thông.


    Về nguồn tiền mua ngoại tệ, hàng năm, Ngân hàng Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chỉ tiêu lượng tiền cung ứng (tiền phát hành) để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và tái cấp vốn hỗ trợ khả năng thanh toán cho các tổ chức tín dụng; phê duyệt mức dự trữ ngoại hối nhà nước dự kiến đạt được trong năm. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt mức dự trữ ngoại hối nhà nước dự kiến đạt được trong năm 2007 tại Quyết định số 922/QĐ-TTg ngày 24/7/2007.


    8. Vấn đề các tổ chức tín dụng vi phạm quy định về lãi suất tại Bộ Luật dân sự; Ngân hàng Nhà nước chậm công bố mức trần lãi suất cơ bản theo quy định của pháp luật.


    Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, Khoá IX của Đảng, căn cứ vào điều kiện thực tế về kinh tế, tiền tệ trong nước và được sự chấp thuận của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002, quy định: lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hành được thực hiện theo cơ chế thoả thuận; Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản trong từng thời kỳ để định hướng lãi suất thị trường.


    Khi Bộ Luật dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006, các hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng được ký kết từ sau thời điểm này đã gặp vướng mắc do Khoản 1, Điều 476 quy định: ?oLãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại vay tương ứng?.


    Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng 2 phương án xử lý: (i) Điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm lên hơn 10%/năm. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất cơ bản hơn 20% là sự điều chỉnh có tính ?ođột biến?, biến động sẽ gây xáo trộn thị trường tiền tệ trong nước; (ii) Phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan, trình Chính phủ và Quốc hội xem xét, chỉnh sửa các nội dung liên quan đến lãi suất quy định tại Điều 474 và 476 Bộ luật Dân sự để đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ trong nước.


    Thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ, ngày 22/11/2006, Ngân hàng Nhà nước đã có tờ trình 154/TT-CP kiến nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khoá XI sửa đổi quy định liên quan đến lãi suất tại Bộ Luật dân sự. Tại Phiên họp cuối tháng 4/2008, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khoá XII đã có ý kiến về vấn đề này và tiếp thu ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành ngay Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 có hiệu lực từ ngày 19/5/2008 thay đổi cơ chế điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Ngân hàng Nhà nước.


    9. Giải pháp bảo đảm lãi suất dương cho người gửi tiền theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ:


    Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, lãi suất huy động vốn và cho vay của các tổ chức tín dụng được hình thành chủ yếu do cung ?" cầu vốn, mức lạm phát kỳ vọng, các chi phí kinh doanh của ngân hàng thương mại và tác động của yếu tố tỷ giá, lãi suất thị trường quốc tế. Ngoài ra, lãi suất tại các tổ chức tín dụng còn phải tính đến mối quan hệ lợi ích giữa người gửi tiền, tổ chức tín dụng và người vay tiền. Nếu lãi suất tiền gửi tăng cao sẽ làm cho lãi suất cho vay tăng theo và làm tăng chi phí đầu vào cho sản xuất, kinh doanh.


    Để hướng tới lãi suất thực dương cho người gửi tiền theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, cùng với việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, từ ngày 19/5/2008, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 8,75%/ năm lên 12%/năm. Hiện nay mặt bằng lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng ở mức 13,5%-15%/năm.


    10. Vấn đề cho vay đầu tư chứng khoán, bất động sản:


    Để kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và bất động sản của các tổ chức tín dụng, ngày 28/5/2007, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN, trong đó khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng.


    Đến cuối tháng 4/2008, dư nợ cho vay để đầu tư và kinh doanh chứng khoán của hệ thống các tổ chức tín dụng là 9.754 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,78% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; dư nợ cho vay đối với lĩnh vực bất động sản (gồm cho vay mua nhà ở, cho các doanh nghiệp vay đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh doanh, cho vay xây dựng nhà và văn phòng để bán và cho thuê?) là 135.000 tỷ đồng, chiếm 10,8% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế.


    11. Vấn đề sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn:


    Tính đến cuối năm 2007, số dư tiền gửi ngắn hạn tại hệ thống ngân hàng là 776.018 tỷ đồng, dư nợ cho vay trung, dài hạn là 456.751 tỷ đồng, trong đó các ngân hàng thương mại đã sử dụng 75.550 tỷ đồng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn (chiếm tỷ trọng 9,7%, thấp hơn mức tối đa 40% được sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn theo quy định hiện hành).


    12. Sự thay đổi về thị phần của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam từ đầu năm đến cuối tháng 4/2008:


    Thị phần cho vay của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam đang có xu hướng tăng, trong khi thị phần nguồn vốn huy động lại có xu hướng giảm; tốc độ tăng thị phần cho vay bằng ngoại tệ nhanh hơn tốc độ tăng thị phần tổng dư nợ.


    Nhằm đảm bảo cơ chế cho vay bằng ngoại tệ thống nhất với các quy định của pháp luật về ngoại hối, góp phần hạn chế tình trạng đô hoá nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành mới Quyết định về cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú (số 09/2008/QĐ-NHNN ngày 10/4/2008), tập trung cho vay 3 lĩnh vực nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; trả nợ nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài.
  6. coxchia

    coxchia Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    31/03/2007
    Đã được thích:
    0
    Hy vọng đây cũng giống như các cơn sốt khác trong năm nay.
    Xem phân bón đã sốt chưa thì sốt nốt đi để e còn đi tích trữ phân
  7. bigheads

    bigheads Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/04/2007
    Đã được thích:
    5
    FED Việt Nam giỏi:

    - Tung tiền đồng ra mua đô dự trữ => Tăng dự trữ $
    - Hút tiền đồng về bằng tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tín phiếu...
    - Tiếp tục mua đô vào đầu 08 (Lúc giá rẻ bèo) => Tăng tiếp dự trữ $
    - Hút tiền đồng tiếp bằng rút tài khoản kho bạc, cấp vốn ngắn hạn...

    Dẫn đến : VNĐ thiếu, $ cũng thiếu trên lưu thông

    Thảo nào vốn FDI, FII, Kiều hối, XK đổ vào ầm ầm mà cứ đi đâu hết. Ở kho của SBV chứ đâu. Ước chừng h các bác đang có đến 40 bil. $ chứ chẳng ít.

    Đang muốn hút nốt tiền đồng về để chống lạm phát đây.
    Ai mua đô kô nào ?
  8. leader001

    leader001 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/07/2007
    Đã được thích:
    2
    Em thi? lại đọc thấy:
    - Dự trưf Ngoại tệ Việt Nam co?n 18 ti? USD trong khi đến cuối năm 2007 đaf la? 23 ti? USD rô?i ! (theo báo cáo cu?a HSBC vư?a ra - thă?ng na?y nó nă?m vu?ng ơ? Việt Nam nên nó nắm rof hơn ca? chúng ta) ! Hic
    - Ngân sách bị bội chi, Bộ Ta?i chính pha?i đê? nghị NHNN bán đô cho các Ngân ha?ng, tiê?n đô?ng thi? bộ ta?i chính cho va?o cái phâ?n bội chi, co?n tiê?n đô thi? đưa cho mấy Ngân ha?ng . Vi? thế ma? đợt rô?i mấy Ngân ha?ng thiếu tiê?n đô?ng thế
    Có tiê?n đô các Ngân ha?ng lại cho vay nhập khâ?u ( cho nên đâ?u năm nhập khâ?u lớn thế ! Hic
    Tư? nga?y ông Gia?u lên chi? thấy dân nghe?o đi thôi !
    Chán
  9. rainbow25

    rainbow25 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/08/2006
    Đã được thích:
    0
    Dự trữ USD của SBV là bao nhiêu là 1 ?
    Người nói 18bil, người bảo 20 bl, người nghĩ 30bl, còn bác cho rằng 40bil.
    Oh, dear!!!
    Thế tóm lại là bao nhiêu đây???
  10. xxxmarsxxx

    xxxmarsxxx Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    31/03/2008
    Đã được thích:
    44
    kụ bighead bắt đầu mất bình tĩnh rồi kaka

Chia sẻ trang này