Làm giàu từ chứng khóan - những thông tin bổ ích ! (t2)

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi tridunghtvc, 03/06/2012.

7271 người đang online, trong đó có 1041 thành viên. 15:32 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 3 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 3)
Chủ đề này đã có 31975 lượt đọc và 988 bài trả lời
  1. DungTri86

    DungTri86 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    24/05/2012
    Đã được thích:
    28.334

    Em chịu thua khả năng tiếng Việt của bác !

    Nhà này Dũng Trí có phần ... ngang ngang.

    Nếu như ai nhận xét : ông A có phần ngang ngang

    Bà B ngang ngang thế nào ấy !

    Chú C tính khí ngang ngang.

    Thì có nghĩa là ngang tàng , ngang như cua , ngang ngạnh ...


    Chưa thấy ai nói ngang ngang có nghĩa là ngang bằng , mà người ta hiểu ngang ngang nghĩa là ngang tính , gàn , cực đoan, cố chấp , ngang như cua ...


    :-":-":-":-":-"


  2. TDSQB

    TDSQB Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/05/2012
    Đã được thích:
    0
    Thế mới nói làm thơ con cóc,
    Thì nhà này khối bác kém tôi!
    Nếu thua, thua Bút Tre thôi,
    DangDang - thầy đấy., bác, tôi - là trò !


    :)):)):)):)):))
  3. trongvcbs

    trongvcbs Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    20/04/2010
    Đã được thích:
    73
    Im đi im hết nghe nà
    Thơ hay mấy chú học bà mười năm
    Ko tin thì cứ thử xem
    Bà ra câu đố xem ai đối liền....:)):)):)):)):)):)):))

    Câu đố.....[r2)][r2)][r2)][r2)][r2)]

    VỊNH CON GÀ TÀU

    Lông vàng mồng lái gáy o o
    Đá chẳng ra chi chỉ biết po(*)
    Cục tác cục ta khi thấy mái
    Thứ này nhà tớ chỉ đem kho.

    (*)PO : là po mái-hành động dê gà mái:-ss:-ss:-ss:-ss:-ss
    [r2)][r2)][r2)][r2)][r2)][r2)]
  4. trongvcbs

    trongvcbs Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    20/04/2010
    Đã được thích:
    73
    Từ thuở nhỏ anh giỏi văn lẫn võ
    Nếu là văn anh viết rất tài năng
    Còn là võ anh sẳn sàng cầm kiếm
    Nhắm bắc phương giết sạch hết quân Tàu

    =))=))=))=))=))=))
  5. trongvcbs

    trongvcbs Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    20/04/2010
    Đã được thích:
    73
    Hôm nay chú DÍCH biến đi đâu
    Để lại lòng anh những nổi sầu
    Ô hô...Chú sống mà như chết
    Chú DÍCH KU ơi..chú ở đâu
  6. TDSQB

    TDSQB Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/05/2012
    Đã được thích:
    0

    Áo xanh, mặt trắng, mũ xanh xanh
    Người lùn tí tị, mắt đảo quanh,
    Trên lưng đeo súng trông như khỉ
    Gặp Trọng (Trongvcbs), Dũng (Dungtri) thì - biến cho nhanh !


    :)):)):)):)):))

    Đố các bác em đang làm thơ vịnh con gì?=))
  7. trongvcbs

    trongvcbs Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    20/04/2010
    Đã được thích:
    73
    Những năm cuối của thế kỷ 18, lịch sử chống xâm lăng của Việt Nam diễn ra những trang oanh liệt. Tại miền Nam trận đánh Rạch Gầm-Xoài Mút năm 1785 đã phá tan mấy vạn binh và 300 chiến thuyền của đạo quân xâm lược tới từ Vọng Các. Còn ở Bắc Hà thì chiến thắng Kỷ Dậu (1789) đại phá quân Thanh còn vang dội tới muôn đời sau. Cả hai chiến công đều do Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải đất Quy Nhơn lập ra.
    Mùa xuân đã tới nơi quê hương, năm mới đã qua được mấy ngày, không mấy ai không nhớ tới trang sử vẻ vang Hoàng Đế Quang Trung đại phá hai mươi vạn binh Thanh. Đống Đa còn đó, Sông Nhị còn kia, chứng tích lịch sử làm niềm tự hào dân tộc phấn chấn, tinh thần chống ngoại xâm thêm sôi sục, lòng kỳ vọng vào thế hệ tương lai dâng cao như nhà thơ Vũ Hoàng Chương từng viết vào một mùa xuân trong thập niên 50 của thế kỷ trước:



    Tháng giêng kỷ niệm Đống Đa
    Sông Đằng kỷ niệm tháng ba mấy lần.
    Đầu mùa xuân, cuối mùa xuân
    Cánh tay Đế Nguyễn, Vương Trần nào ai?

    Muốn rõ hơn về thiên sử vàng đại phá quân xâm lược từ phương Bắc tràn xuống của Hoàng đế Quang Trung chúng ta có thể đọc lại mấy dòng sử do Học giả Hoàng Xuân Hãn tóm lược trong phần chú thích Đại nam Quốc sử diễn ca về nhà Nguyễn Tây Sơn.
    Thiên bi hùng sử khởi từ Quang Trung, với vai trò Bắc Bình Vương ra Bắc chấn chỉnh cơ nghiệp nhà Lê rồi rút về Nam để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại Nghệ An. Vua Lê lúc ấy là Lê Chiêu Thống bất tài, vô chí, bị phe phù Trịnh khuynh loát nên phải vời Chỉnh ra Bắc phụ tá. Nhân cơ hội giúp vua dẹp Trịnh Bồng, Chỉnh tỏ ra chuyên quyền và kiêu ngạo.
    Nguyễn Huệ nhận thấy cơ nguy này, vào năm 1787 phải sai Võ văn Nhậm ra Bắc diệt Chỉnh. Chỉnh đưa vua chạy trốn nhưng rồi bản thân bị bắt, còn vua thì từ đấy lưu lạc tứ phương. Nhậm có công nên hống hách, có ý chống lại Phú xuân, khiến Nguyễn Huệ lại phải ra Bắc lầân nữa (1788) và diệt Nhậm, rồi quay về Phú Xuân để Ngô văn Sở và Ngô thời Nhiệm ở lại coi Bắc Hà phụ tá mộât hoàng thân nhà Lê trong vai trò giám quốc.
    Hoàng Xuân Hãn ghi lại vị vua cuối cùng của nhà Lê mạt là Chiêu Thống đã xoay xở ra sao từ lúc rời Thăng Long trên bước đường sa cơ thất thế: “Vua Chiêu Thống sau đó ẩn náu ở vùng Lạng giang. Bà thái hậu (mẹ vua) đem hoàng tử chạy sang Long Châu thuộc tỉnh Quảng Tây nước Tàu.
    Quan Tàu đem việc trình tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn sĩ Nghị. Sĩ Nghị tâu với vua Càn Long nhà Thanh.
    Vua nhà Thanh muốn nhân cơ hội chiếm lấy nước ta, nên mượn tiếng giúp vua Lê Chiêu Thống cử Tôn Sĩ Nghị đem quân bốn tỉnh miền Nam nước Tàu (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu) chia làm ba đạo kéo sang (các đường Tây Bắc, đường Cao Bằng và đường Lạng Sơn).
    Đại quân Tôn Sĩ Nghị theo đường Lạng Sơn đánh thẳng tới Kinh Bắc, phá trại của tướng Tây Sơn là Nội hầu Phan văn Lân và kéo đến Bồ đề (Gia lâm).
    Ngô văn Sở không địch nổi, rút quân về giữ ở Tam Điệp, phân giới tỉnh Ninh Bình và tỉnh Thanh Hóa.
    Tôn Sĩ Nghị tới Kinh Bắc, vua Chiêu Thống đem rượu thịt ra đón chào và khao quân.
    Sĩ Nghị vào Đông đô tuyên đọc sắc của vua nhà Thanh phong cho Chiêu Thống làm An Nam quốc vương, rồi ban thưởng cho các tướng sĩ...
    Tưởng nhà Lê lại lên, nhiều người quay về theo vua Chiêu Thống. Nhưng vua không dùng ai chỉ dựa vào nhà Thanh.
    Văn thư nhà vua đều đề niên hiệu Càn Long (nhà Thanh) và mỗi buổi chầu xong, vua lại đi bộ sang dinh Sĩ Nghị để chầu chực. Sĩ Nghị xử lại rất khinh bạc... Quân Thanh đóng ở Thăng Long kiêu ngạo và nhũng nhiễu nhân dân.
    Nguyễn Huệ ở Phú Xuân biết vậy liền tự xưng là Quang Trung Hoàng đế (ngày 25 tháng Một, năm Mậu Thân, 1788) rồi tự mình thống lĩnh quân thủy bộ ra đánh giặc Thanh.
    Vua Quang Trung ra đến Nghệ An cho quân nghỉ mười ngày, kén thêm binh tất cả là 10 vạn quân và 100 con voi.
    Ngày 20 tháng Chạp, vua ra hội với Ngô văn Sở và Ngô thời Nhiệm ở núi Tam Điệp cho quân ăn Tết trước và hẹn mồng Bảy tháng Giêng sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng.
    Vua chia quân thủy bộ theo năm đường tiến ra Bắc, ngày 30 Tết cất binh.
    Vua thân đốc quân trung ương phá vỡ nghĩa binh của nhà Lê ở sông Giản Thủy (cũng gọi là Quyết Giang thuộc Ninh Bình và Hà Nam) bắt sống quân Tàu ở Phú Xuyên, vây rồi phá tan đồn giặc ở Hà Hồi và Ngọc Hồi, thuộc phủ Thường Tín (Hà Đông) ngày 05 tháng Giêng.
    Quân các đạo khác cũng toàn thắng. Nhiều tướng nhà Thanh tử trận, trong đó có Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa (gần Nam Đồng, nay là ngoại ô Hà Nội), bị vây phải thắt cổ tự tử.
    Tôn Sĩ Nghị nghe tin vội vàng cùng vua Lê Chiêu Thống chạy trốn sang Bắc Ninh. Khi qua sông Nhị Hà rồi, Tôn Sĩ Nghị sai phá cầu vì sợ Tây Sơn đuổi kịp. Quân Tàu tranh nhau sang sông, cầu đổ, sa xuống sông chết đuối đầy sông.
    Trưa mồng 05 tháng Giêng Quang Trung vào Thăng Long, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Vua sai quân đuổi theo quân nhà Thanh đến cửa Nam quan. Dân Tàu ở bên kia cửa quan, khiếp sợ bỏ chạy, hàng trăm dặm không có tiếng người”. (Hoàng Xuân Hãn)
  8. trongvcbs

    trongvcbs Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    20/04/2010
    Đã được thích:
    73
    VỊNH CON DÍCH KU=))=))=))=))=))=))
  9. trongvcbs

    trongvcbs Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    20/04/2010
    Đã được thích:
    73
    HÀNH BINH THẦN TỐC
    “Ngàn thuở còn truyền câu chuyện lạ:
    Mười ngày thần tốc phá quân Thanh”


    Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch

    1.
    Sau khi bị quân Tây Sơn đánh chạy khỏi thành Thăng Long, vua Lê Chiêu Thống cùng đám tàn quân chạy loanh quanh, thế cùng lực kiệt, kéo nhau tới huyện Phượng Nhãn (thuộc tỉnh Lạng Sơn), năm lần bảy lượt cầu xin quan Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đem binh sang cứu giúp đánh lại quân Tây Sơn, khôi phục lại nhà Lê. Được vua nhà Thanh Càn Long chấp thuận, Tôn Sĩ Nghị hăm hở huy động quân ở các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây được tới 290.000, chia làm ba đạo: một do tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và đề đốc Hứa Thế Thanh chỉ huy, theo đường ải Nam Quan (Lạng Sơn) kéo xuống, một do đề tổng Vân Quý là Ô Đại Kinh chỉ huy theo đường Mông Tự qua Tuyên Quang tràn sang, một do Tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống chỉ huy, từ Khâm Châu qua Cao Bằng ào xuống, cả ba đạo đều chịu dưới quyền tiết chế của Tôn Sĩ Nghị.


    Trước thế giặc mạnh như thác lũ, tướng Tây Sơn đóng giữ Lạng Sơn rút quân về Kinh Bắc rồi cáo cấp về Thăng Long.


    Tướng Tây Sơn giữ thành Thăng Long lúc đó là đại tư mã Ngô Văn Sở (cùng giữ thành Thăng Long với Sở còn có nội hầu Phan Văn Lân, chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, thị lang bộ hộ Trần Thuận Ngôn, thị lang bộ lại Ngô Thì Nhậm). Sở thuộc vào hàng danh tướng của quân Tây Sơn, được Nguyễn Huệ coi như nanh vuốt. Khi Nguyễn Huệ sai Võ Văn Nhậm ra Bắc theo kế hoạch từ trước, nhưng nghi ngờ Nhậm làm phản, bèn cho Sở và Lân làm tham tán quân vụ để kiềm chế Nhậm, lại nói riêng với Sở: “Nhậm là con rể của vua anh. Nay ta với vua anh có sự xích mích, lòng y chắc cũng không yên. Chuyến này y cầm trọng binh vào nước người, sự biến không thể liệu trước được. Nay ta không lo Bắc Hà mà chỉ lo về Nhậm mà thôi. Ngươi nên xem xét từng li từng tý, hễ có gì thì phải gấp rút báo cho ta biết. Ví như lửa cháy, dập tắt từ khi mới bén thì dễ dàng hơn”. Sở đã thực hiện mật chỉ của Nguyễn Huệ nhanh gọn. Sau khi giết Nhậm, Sở nắm quyền tiết chế, đánh dẹp khắp nơi (đánh bại Hoàng Viết Tuyển ở Hoàng Giang, đuổi bắt bọn Trần Quang Châu, Lê Ban ở mạn xứ Đông, khiến cho vua Lê Chiêu Thống hết sức long đong, chạy quanh như kiến trong chảo nóng), Sở lấy làm đắc chí lắm.


    Một hôm, trong bữa tiệc rượu. Sở nói với bọn Lân và Tuyết rằng:

    -Chúa công đem cả thành Thăng Long và Bắc Hà giao phó cho ta. Bây giờ, hễ có ai dám ngang mạnh, chống đối ta chỉ cần sai một viên tỳ tướng đi đánh là dẹp tan được ngay.
    Giả sử có Tề thiên đại thánh từ trên trời rơi xuống hay Diêm vương từ dưới đất chui lên, ta cũng chỉ quét một lưới là hết!...
    Rồi Sở bảo với Nhậm rằng:
    -Quan thị lang thật giỏi về văn học, còn việc cung kiếm có thông thạo gì chăng?
    Nhậm bình thản nói:


    -Có văn tất phải có võ, văn võ không phải chia làm hai đường. Người xưa dùng binh, gặp việc thì lo nghĩ suy tính cân nhắc kỹ lắm, sao ngài lại lấy việc binh làm trò chơi mà coi thường vậy? Tôi được biết bọn vua tôi Lê Chiêu Thống nhiều lần chạy sang bên Trung Hoa cầu xin họ đem quân qua cửa ải, gây ra binh đao. Ngài chịu sự ký thác ở cõi ngoài, e rằng không khỏi một phen bạc đầu vì lo lắng, đến lúc ấy ngài nên nhớ đến lời nói của tôi!
    Sở cười to và nói:


    -Lúc ấy phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc. Nếu không làm được như thế thì túi dao bao kiếm chính là phận sự của kẻ võ thần, can gì phải quá lo?
    Tới khi nghe tin cấp báo từ biên ải, Sở rất kinh sợ, bèn họp với các quan văn võ tìm cách đối phó. Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng nói:
    - Quân Thanh từ xa đến, phải trèo đèo vượt suối đã mỏi mệt, ta lấy quân nghỉ ngơi mà đón đánh quân nhọc mệt, nhắm trước các nơi xung yếu, cho quân mai phục, giặc đến là đánh, tất sẽ thắng!
    Nhưng Ngô Thì Nhậm nói:

    -Nay quân Thanh sang đây, tiếng tăm rất lớn, khí thế như lũ lụt. Tránh sức mạnh của địch, đánh địch vào nơi hiểm yếu, lúc bất ngờ, đó là tài nghệ bậc nhất của phép dùng binh. Thành Thăng Long ở nơi bình địa, bốn bề trống trải, không thể là pháo đài cố thủ. Vì thế kế vẹn toàn là tạm thời lui quân, thủy quân thì chở đầy các thuyền lương, thuận gió giương buồm, ra thẳng cửa biển, đến đóng đồn ở vùng Biện Sơn, quân bộ thì giữ núi Tam Điệp, hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ hiểm yếu, rồi cho người phi báo với chúa công, chờ chúa công ra, bấy giờ sẽ quyết chiến một phen cũng chưa muộn gì!
    Sở nói:

    -Chúa công về Nam, đem thành này giao phó cho ta. Giặc đến thì phải sống chết với giặc, còn mất với thành, trên không thẹn là kẻ bề tôi giữ đất, dưới không phụ chức trách cầm quân. Nếu mới thấy bóng giặc đã bỏ chạy, chẳng những mang tội với chúa công mà người đất Bắc còn coi ta ra gì?
    Nhậm lại nói:


    -Làm tướng giỏi là tường tận thế giặc mới đánh, nắm chắc phần thắng mới hành động, tùy theo tình thế mà thay đổi, mà tìm ra mẹo hay, chước lạ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một vài đêm, rồi sau đuổi đi. Giống như ngọc bích của nước Tấn đời xưa (1), vẫn nguyên lành chứ có mất gì!...


    Sở bèn nghe theo, mật truyền cho các viên tướng trấn thủ ở Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn một mặt phao tin đem quân đắp chiến lũy ở sông Như Nguyệt một mặt ngầm rút quân về. Lại báo cho các trấn thủ ở Hải Dương, Sơn Tây họp quân ở Thăng Long, còn trấn Sơn Nam thì chuẩn bị thuyền bè, chờ thủy quân đến cùng rút về Biện Sơn. Khi chuẩn bị lui quân về Tam Điệp, Phan Văn Lân vẫn chưa phục Kế lui binh của Nhậm, xin Sở cho một ngàn tinh binh đến sông Như Nguyệt đánh nhau với quân Thanh. Nhưng kết quả là chỉ một mình Lân sống sót chạy về. Sở cả sợ, giấu kín việc này và truyền lệnh cho các đạo quân nghiêm chỉnh đội ngũ mà rút. Tới huyện Yên Mô, Sở sai chia quân đóng đồn dọc theo ven núi Tam Điệp, thẳng đến bờ biển, hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau để cố thủ. Đó là vào ngày 20 tháng 11 năm Mậu Thân (1788). Đồng thời, Sở sai Nguyễn Văn Tuyết tức tốc vào Nam báo với Nguyễn Huệ. Đô đốc Tuyết có con ngựa Xích kỳ, chỉ bốn ngày đã vào tới thành Phú Xuân, đó là ngày 24 tháng 11 năm 1788.


    2.
    Nguyễn Huệ nghe đô đốc Tuyết thuật lại mọi chuyện ở Bắc Hà liền họp các tướng sĩ tâm phúc, muốn thân chinh cầm quân đi ngay. Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ nói:
    -Chúa công với vua Tây Sơn (2) đang có sự xích mích, lòng tôn phò của mọi người chưa được vững bền. Mấy lần trước đem quân ra Bắc là để dẹp loạn, với danh nghĩa gì cũng được. Nay đem quân ra Bắc Hà là để đánh đuổi ngoại xâm, không thể thắng được giặc nếu không được toàn dân hưởng ứng. Thời nhà Trần, muôn người như một đồng lòng thích lên cánh tay hai chữ “Sát Thát” khiến giặc Nguyên ba lần xâm lăng đều đại bại. Nay chúa công muốn thống nhất được lòng dân, huy động được tối đa sức mạnh của tướng sĩ đặng đại phá quân Thanh, tất phải danh chính ngôn thuận.

    Nguyễn Huệ hỏi:
    -Danh chính ngôn thuận là sao?

    Kỷ nói:
    -Nhà Lê đã diệt vong, Lê Chiêu Thống và lũ tàn quân chẳng qua là sự giãy chết, không đánh cũng tan. Nhưng 290.000 quân Thanh không thể coi thường. Bọn Sở, Lân trấn giữ ở Thăng Long chỉ giỏi dẹp loạn trong nước, còn với quân Thanh thì không biết xoay trở thế nào. Vả lại, Sở, Lân chỉ là tướng soái. Xứ Bắc hà hiện là nước không có vua. Mà nước
    không thể một ngày không có vua. Vậy xin trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau sẽ cất quân ra đánh dẹp cũng chưa muộn.


    Nguyễn Huệ cho là phải, ngày 25-11 năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ làm lễ tế cáo Trời Đất tại núi Bân (3), lên ngôi Hoàng đế đặt hiệu là Quang Trung, rồi thống lĩnh thủy bộ đại binh Bắc tiến đánh giặc Thanh. Ngày 29-11, vua Quang trung cùng đại quân tới Nghệ An, nghỉ lại mười ngày để tuyển thêm binh lính. Tướng trấn giữ Nghệ An lúc đó là Hám Hổ hầu Trần Quang Diệu, một hổ tướng của quân Tây Sơn, chẳng bao lâu đã tuyển được hơn một vạn quân tinh nhuệ. Cộng với số quân Thuận Hóa, Quảng Nam, binh lực của vua Quang Trung gồm chừng 100.000 quân và hơn 300 thớt voi, được chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Trước khi xuất quân, vua Quang Trung duyệt binh long trọng, ngài cưỡi voi trước hàng quân rồi chỉ dụ rằng:


    -Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã nhiều phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đánh đuổi chúng đi. Đời nhà Hán có Trưng Nữ Vương, đời nhà Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời nhà Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời nhà Minh có Lê Thái Tổ - các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng…
    Vua Quang Trung nói xong, quân sĩ, tướng soái đều đồng thanh xin tuân lệnh. Vua lấy làm hài lòng, ngay ngày hôm sau hạ lệnh tiến quân, ngày 20 tháng chạp đã tới núi Tam Điệp.


    3.
    Khi hành quân ra Bắc Hà, vua Quang Trung sai quân lính lập tổ ba người, làm một cái võng, hai người võng một người, cứ thay nhau khiêng võng, vì vậy lúc nào cũng có một người được nghỉ. Tới Tam Điệp, quân sĩ vẫn sung sức, có thể đánh trận ngay.
    Sở và Lân đều tự trói mình, mang gươm trên lưng mà xin chịu tội. Vua Quang Trung nói:


    -Các ngươi theo ta chinh chiến đã lâu, làm đến chức tướng soái. Ta giao cho trấn giữ Thăng Long và 11 trấn của Bắc Hà, lại cho tùy cơ ứng biến. Vậy mà giặc Thanh đến, không đánh nổi một trận. Tội của các ngươi đáng chết vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng hữu dũng vô mưu, không có tài tùy cơ ứng biến. Cho nên ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đây làm việc với các ngươi. Ta đã nói gặp việc gì khó giải quyết, phải bàn luận cho chín cùng Nhiệm rồi hãy làm. Trong bọn nhân sĩ Bắc Hà ngày nay ta nhận thấy duy có Nhiệm là có tài thông hiểu tường tận mọi việc. Nhiệm chính là cánh tay phải để giúp ta làm nên đại sự sau này. Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục. Thành Thăng Long lại là nơi dễ bị đánh cả bốn mặt. Năm trước ta đánh Thăng Long, chúa Trịnh quả nhiên không chống đỡ nổi.
    Các ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của giặc, chia quân chặn giữ các nơi hiểm yếu, chờ đại quân tiếp ứng, kế ấy là rất đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Nhậm chủ mưu, sau hỏi Tuyết thì quả đúng như vậy…


    Sở và Lân đều run cầm cập, vua Quang Trung phải vỗ về an ủi, hai người mới hết sợ. Ngô Thì Nhậm lạy hai lạy tạ ơn. Vua Quang Trung ban khen Nhậm rồi nói tiếp:


    -Lần này ta ra Bắc, thân hành cầm quân, kế sách tác chiến đã có sẵn, chỉ qua mươi ngày là đánh tan giặc Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn, sau khi bị thua một trận ắt lấy làm thẹn mà lo đánh báo thù. Như thế việc binh đao sẽ kéo dài, không phải là phúc cho dân. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi binh đao, phi Nhậm không ai làm được…
    Bọn Sở, Lân, Nhiệm lại lạy tạ, các tướng đều mừng rỡ. Vua Quang Trung bèn sai mở tiệc khao quân, chia quân làm năm đạo, tự mình điều khiển Trung quân. Vua nói riêng với các tướng:


    -Ta với các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã. Đến tối 30 tết lập tức xuất phát, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng thắng trận. Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác!
    Ba mươi tháng Chạp, năm đạo quân rời Tam Điệp nhằm hướng Thăng Long hành quân: đại tư mã Sở ở trung quân với vua, nội hầu Lân lãnh tiền quân làm tiên phong, Hám hổ hầu Quang Diệu chỉ huy hậu quân làm đốc chiến, đại đô đốc Lộc và đô đốc Tuyết chỉ huy tả quân trong đó thủy quân, đại đô đốc Bảo và đô đốc Long chỉ huy hữu quân trong đó có kỵ binh và tượng binh. Cùng với tiếng quân đi rùng rùng, tiếng pháo nổ râm ran khắp nơi, năm cũ đã qua đi, năm mới Kỷ Dậu đã đến theo từng bước quân đi trùng trùng…


    Lại nói đại quân của Tôn Sĩ Nghị qua cửa ải Nam Quan kéo xuống không gặp trở ngại gì. Khi tới núi Tam Tằng gần sông Như Nguyệt thì đóng quân. Đến đêm, Phan Văn Lân có đem một ngàn quân tới đánh nhưng vì trời quá rét, quân sĩ của Lân lội qua sông chưa đánh đã chết đuối phần lớn, chuyện đó không đáng nói. Khi Ngô Văn Sở lui quân về Tam Điệp thì không còn đội quân nào ngăn cản đại quân của Nghị, Nghị kéo quân thẳng vào Thành Thăng Long, đó là ngày 11 tháng 11 năm Mậu Thân (1788).


    Tôn Sĩ Nghị ở thành Thăng Long ngông nghênh, hống hách, không coi vua Lê Chiêu Thống và đám quan quân còn theo vua Lê ra gì. Quân lính của Nghị được thể mặc sức cướp bóc phá phách. Vua tôi Lê Chiêu Thống nôn nóng muốn Nghị xuất binh đánh Sở và Lân, Nghị nói:
    -Việc gì phải vội vã? Ví như lấy đồ trong túi, đến sớm lấy sớm đến muộn lấy muộn đó mà thôi. Giờ đã sắp hết năm, đại quân từ xa tới đây, cần nghỉ ngơi. Chờ đến đầu năm mới, quân ta ăn tết xong sẽ tiến đánh bắt trói chúng nó cũng chưa muộn!

    Từ đó, không ai nói tới chuyện xuất quân nữa. Quân Thanh bỏ cả đồn trại, đi lang thang khắp nơi, không còn kỷ luật gì. Bọn tướng soái thì ngày đêm tiệc tùng, chơi bời, không còn để ý đến việc quân.
    Trở lại với đạo quân của vua Quang Trung. Xuất phát ở Tam Điệp đêm 30 tết, tới nửa đêm ngày mồng 3 tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung đã tới đồn Hà Hồi. Vua dùng kế hư binh, không đánh mà hạ được đồn Hà Hồi. Vua Quang Trung cưỡi voi đốc thúc quân sĩ, mờ sáng ngày mồng 5 tết tiến sát đồn Ngọc Hồi. Vua sai đốt hết lương thực và tự quấn khăn vàng vào cổ để tỏ ý quyết chiến thắng. Tướng sĩ nhất loạt làm theo. Trận kịch chiến xảy ra vang động một góc trời. Quân Thanh chống đỡ không nổi bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành công. Tướng Thanh là Sầm Nghi Đống, bỏ chạy tới gò Đống Đa thắt cổ tử tự. Hàng vạn quân sĩ chạy dạt vào phía đầm Mực bị voi của quân Tây Sơn giày đạp chết vô kể. Hạ đồn Ngọc Hồi xong, vua Quang Trung tiến quân vào thành Thăng Long, đó là vào trưa ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu.


    Lại nói Tôn Sĩ Nghị ở thành Thăng Long đang say sưa yến tiệc, đến canh tư mồng 5 Tết mới nghe thấy tiếng súng nổ đùng đùng không ngớt ở mạn tây bắc thành, vội cho người ra xem mới biết đồn Khương Thượng đã vỡ, quân Tây Sơn đã vào cửa ô, đốt giết tơi bời, khói lửa ngút trời (4). Nghị mười phần kinh hãi, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn kỵ binh tùy tòng chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng bắc mà chạy tháo thân. Quân sĩ các doanh nghe tin đều tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống sông mà chết vô kể. Một lát, cầu bị đứt, quân lính đều rơi xuống sông nhiều đến nỗi dòng sông Nhĩ Hà phút chốc bị tắc nghẽn, không chảy được nữa! Lúc này, đạo quân Vân-Quý của Ô Đại Kinh đi qua đường Tuyên Quang mới tới trấn Sơn Tây, nghe được tin Nghị tháo chạy thì vội vàng đổi tiền quân thành hậu quân, rút quân về nước tức thì!


    Tôn Sĩ Nghị tháo chạy tới huyện Phượng Nhãn thì nghe tin có quân Tây Sơn của Tả quân đại đô đốc Lộc đang giăng thế trận đánh chặn, sắp tới nơi, Nghị thất kinh, phải vứt bỏ hết các vật mang theo mà chạy thục mạng. Những vật của vua Càn Long ban cho như sắc thư, kỳ bài, quân ấn cùng một số vật quý lấy được ở thành Thăng Long đều vứt bừa bãi giữa đường, quân Tây Sơn đều thu nhặt được cả. Lê Chiêu Thống cùng vài người thân tín nghe tin Nghị tháo chạy thì hoảng hốt bỏ chạy theo, vất vả lắm mới đuổi kịp Nghị ở cửa ải, rồi theo sang Trung Quốc, rồi sau đó bị nhà Thanh cạo đầu gióc tóc và cho ở Yên Kinh, chết năm 1792 cùng mối hận không khôi phục được nhà Lê!


    4.
    Đúng như dự tính của vua Quang Trung, đánh đuổi quân Thanh ra khỏi nước xong, nhờ tài ngoại giao của Ngô Thì Nhậm, tháng 7 năm Kỷ Dậu (1789), vua Thanh Càn Long phong vua Quang Trung làm An Nam Quốc vương.
    Đó là chuyện về sau. Lại nói chuyện vua Quang Trung vào thành Thăng Long, vỗ về dân chúng, khao thưởng tướng sĩ, cho đốt pháo ăn Tết, ăn mừng chiến thắng ba ngày liền.

    Kinh thành Thăng Long sau những ngày chấn động dữ dội đã bừng lên một sức sống mới, một sắc xuân mới. Hoa đào nở rộ khắp kinh thành, cánh hoa có màu đỏ rực như lửa!...


    Sau mươi ngày, số quân Thanh còn trốn chạy lung tung các nơi đều ra đầu thú tới vài vạn, đều được cấp phát lương ăn áo mặc rồi đưa lên cửa ải trả về nước. Xứ Bắc Hà đã được dẹp yên, vua Quang Trung lại gấp rút trở về Nam, để Ngô Văn Sở ở lại coi giữ hết thảy việc quân, việc nước. Còn Ngô Thì Nhậm chủ trì việc bang giao với nhà Thanh.


    Vua Quang Trung về Nam, để lại sau lưng những kỳ tích của một anh hùng, một thiên tài quân sự mà người đời không mấy ai có thể nhận biết hết được. Người ta chỉ biết rằng: xuân Kỷ Dậu 1789 là cái Tết có một không hai của kinh thành Thăng Long, của xứ Bắc Hà!...


    Lời bàn của người dân thành Thăng Long:
    Nguyễn Huệ là tay anh hùng kiệt hiệt, dũng mãnh như hổ báo, tài cầm quân có một không hai. Huệ ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Đánh đuổi chúa Nguyễn như đuổi gà vịt, đánh quân XiêmLa dễ như hổ giữa đàn dê, bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, đánh đuổi quân Thanh nhanh như sấm chớp!...Người như thế ngàn năm mới có một!
    ---------
    Ghi chú:
    1.Thời Xuân Thu, nước Tấn lấy ngọc quý dâng cho nước Ngu để mượn đường đánh nước Quắc. Khi diệt được Quắc rồi, Tấn diệt luôn cả nước Ngu, lấy lại ngọc quý.
    2.Chỉ Nguyễn Nhạc
    3.Thuộc xã An Cựu, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (trước là Thuận Hóa).
    4.Trong khi vua Quang Trung đang công phá đồn Ngọc Hồi thì hữu quân của đô đốc Long đã phá xong đồn Khương Thượng (huyện Quảng Đức) ở tây bắc thành Thăng Long và lập tức tiến vào đánh thành trước đạo quân của vua Quang Trung.
    Sài Gòn, 2005-2009
    Đỗ Ngọc Thạch
  10. trongvcbs

    trongvcbs Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    20/04/2010
    Đã được thích:
    73
    Hoàng Lê nhất thống chí (hồi 14)


    Last Updated on Chủ nhật, 08 Tháng Năm 2011 22:03
    Thứ Hai, 14 Tháng Giêng 2008 04:40
    Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
    Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài

    Lại nói, Tôn Sỹ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi, như giẫm đất bằng; ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như vào chỗ không người. Từ xưa, các nhà cầm quân chưa có khi nào được dễ dàng như thế. Cho nên y xem thường, cho là vô sự, không cần phải đề phòng. Rồi đó, y lại càng thêm kiêu căng, buông tuồng, mặc cho quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỷ luật gì cả. Có kẻ đi ra khỏi thành đến hơn mười dặm, để kiếm củi đun, có kẻ đi tới các chợ búa dân gian để buôn bán, hàng ngày sớm đi tối về xem như việc bình thường. Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân. Hễ ai nhắc đến tình hình giặc giã thì bọn họ đáp rằng:

    "Chúng nó như cá chậu chim lồng, còn chút hơi thừa thoi thóp, không đáng nói đến. Vâng lệnh của quan lớn đốc bộ, định đến ngày mùng 6 tháng giêng, nhân dịp đầu xuân sẽ xuất quân kéo thẳng đến sào huyệt của quân Tây Sơn. Bọn giặc ấy nhất định sẽ lần lượt bị bắt sống không một tên nào lọt lưới. Người Nam Hà sẽ đến mà xem!".

    Thế là người trong nước, kể cả các viên quan đã từng trốn tránh hồi xưa mà bấy giờ đã được thấy lại bóng mặt trời, ai nấy mới đều yên tâm vui mừng về cuộc sum họp trước mắt. Rồi họ dựa vào tổng đốc họ Tôn làm bức trường thành, không còn nghĩ gì đến việc cung khuyết bị tàn hoang, không còn lo gì đến việc kẻ địch đang ở nơi cửa ngõ; võ lặng, văn im, thảy đều bệ trễ.

    Vừa lúc ấy, có người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tới, nói với thái hậu rằng:

    - Xe vua trở về kinh thành, đã gần một tháng. Hiệu lệnh ban ra, chẳng qua mới đến các vùng Ứng Hoà, Thường Tín, Từ Sơn, Thuận Thành, Quảng Oai, năm lộ mà thôi. Còn như từ Trường Yên về nam, Thanh Hóa là đất căn bản, lăng tẩm tiền triều ở đó, Nghệ An cũng là quận chân tay, quân cấm và quân túc trực đều lấy người ở đấy, thì nay vẫn bị mất về tay giặc, tin tức không thông, đó thật là điều đáng lo rất lớn. Hiện nay, việc nước hư thực thế nào, thế giặc mạnh yếu ra sao, những người đứng ngoài mà xem, không ai không biết. Trước đây, hoàng thượng gặp nạn phải chạy, các quan trèo đèo vượt suối, khó nhọc vất vả đã hơn một năm, bao nhiêu nhân tình chắc đã từng trải hết rồi, sao vẫn điềm nhiên không lo nghĩ gì cả? Tổng đốc họ Tôn từ thượng quốc tới đây, thế nước và tình hình của giặc chỉ biết đại khái. Đến như các miền, cũng có nơi xung yếu, noi bình thường, chia đồn và mai phục, cần phải trù tính kỹ càng. Việc binh có lúc nên đánh, lúc nên giữ, phải tuỳ cơ ứng biến trong chốc lát. Tất cả những điều ấy, họ làm sao mà hiểu được rõ ràng, đích xác? Vả chăng, khi trước Lê Quýnh khai báo ở bên ấy, nói rằng: "Nhiều nơi trong nước ta không chịu theo giặc, người chuộng nghĩa còn nhiều, lòng người cũng có thể trông cậy, nếu được đại binh sang làm thanh viện thì công việc khôi phục có thể thành...". Đó chỉ là một cách nói, để tổng đốc họ Tôn không cho việc ấy là khó. Quýnh vì muốn chóng được quân sang cứu, cho nên mới bịa ra lời nói hão để lừa dối họ. Họ cũng tưởng là thật, hăng hái tiến lên, không còn lo nghĩ gì về sau. Cứ xem lời lẽ trong bài hịch, thì những điều họ bắt buộc mình phải đương lấy, rất là nặng nề; còn họ thì chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để doạ dẫm mà thôi. Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỉ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa, hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi? Họ chẳng qua chỉ là người khách, chuyến này sang cũng cốt xem sự thế khó hay dễ để liệu bề tiến lui mà thôi. Nhưng còn nhà nước của ta thì sao? Thái hậu có thể chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa chăng?

    Thái hậu giật mình nói:

    - Đó chính là tâm sự của gái già này, vẫn ngày đêm lo lắng mà chưa biết làm thế nào?

    Rồi nhân tiện, thái hậu đem việc đó nói lại với vua. Bấy giờ nhà vua mới hoảng sợ, liền cùng bọn Quýnh đến doanh quân của Nghị tha thiết xin xuất quân. Nghị gọi Quýnh đến mà căn vặn rằng:

    - Người nước mày nay quả thật không thể trông cậy được, thế thì lời cung khai của mày trước đây ra sao? Dám lừa dối ta chăng?

    Rồi Nghị ngoảnh sang bảo vua:

    - Tự vương trẻ tuổi, chưa từng trải công việc, trước đây tới đón chào ta ở Lạng Sơn, sao không nói cho rõ? Bấy giờ, nhân khi ta thắng, đè bẹp ngay lúc chúng đang khốn đốn, há chẳng dễ dàng hơn hay sao? Nay đã bỏ lỡ cơ hội ấy, để chúng có thì giờ thong thả mà bày mưu đặt chước, cách trị chúng cần phải tính toán cho chu đáo, không thể hấp tấp. Vả lại, đã định đến sang xuân, vào ngày mùng sáu thì sẽ xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa. Nếu muốn đi gấp thì cho phép vua tôi nhà ngươi đem một đạo quân đi trước cũng được.

    Vua lui ra bảo với Quýnh rằng:

    - Ngươi từng dốc lòng với ta, việc nước cũng đã được quá nửa rồi. Vậy nay hãy cố gắng làm cho tròn công trạng trước, đừng để người trong nước có thể bàn tán về ta, và thiên triều có chỗ quở trách được ta.

    Lại nói, Lê Quýnh là người làng Đại Mão, huyện Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành, Hà Bắc) vốn là một tay phong lưu công tử, con trai của tiến sĩ triều Lê là Lê Doãn Giản. Khi tuổi trẻ, Quýnh chỉ biết uống rượu, đánh bạc, việc văn việc võ đều chưa hề luyện tập qua. Trước kia vì là con nhà quí tộc thân cận, nên được vào làm gia thần nhà vua. Đến khi quân Tây Sơn tới xâm lấn, kinh thành thất thủ. Quýnh vâng mệnh vua theo hầu thái hậu lên Cao Bằng, rồi bị quân giặc đuổi bắt, phải chạy sang Trung Quốc. Vì Quýnh hơi biết chữ nghĩa, cho nên khi chuyện trò với người Thanh, thường bịa ra nhiều câu khoác lác. Tôn Sỹ Nghị cũng không xét đến chỗ đó, đem lời tâu lên, vua Thanh ưng thuận. Thế rồi may được khôi phục lại nước nhà. Quýnh tự cho là công lao của mình. Sau khi về thành Thăng Long, Quýnh chỉ lo đền ơn trả oán và công nhiên ăn của đút lót. Những tay hào kiệt trong nước đều không ưa Quýnh. Vua cho là Quýnh có công, giao cho cầm quân. Nhưng Quýnh, mắt còn choáng lộn bóng tinh kỳ, tai chưa nghe quen tiếng chiêng trống, nói gì đến chuyện sắp đặt việc binh bị? Quýnh bèn mượn cớ không muốn xa rời cạnh vua, xin vua truyền cho viên trấn thủ Sơn Tây đem quân bản bộ đóng trước ở Giản Khẩu, để chặn đường ra của quân Tây Sơn. Đó là Quýnh cốt cho mình khỏi phải ra trận; còn việc chinh chiến được hay thua, nước nhà còn hay mất, Quýnh chẳng cần biết đến làm gì. Nhắc lại, Ngô Văn Sở sau khi đem các đạo quân rút lui, tức tốc sai Nguyễn Văn Tuyết chạy trạm vào Nam cáo cấp. Một mặt chặn ngang đất Trường Yên làm giới hạn, đóng thuỷ quân ở hải phận Biện Sơn, quân bộ thì chia giữ vùng núi Tam Điệp, hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau, ngăn hẳn miền Nam với miền Bắc. Vì thế, việc ở bốn trấn đường ngoài không hề thấu đến hai xứ Thanh, Nghệ. Vì vậy việc quân Thanh đến Thăng Long và việc vua Lê thụ phong ngày 22 tháng 11, từ Thanh Hóa trở vào, không một người nào được biết. Ngày 20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp, thì ngày 24 Tuyết đã vào đến thành Phú Xuân. Bắc bình vương tiếp được tin báo, giận lắm, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng các người đến họp đều nói:

    - Chúa công với vua Tây Sơn có sự hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn phò của mọi người chưa thật vững bền, nay nghe quân Thanh sang đánh, càng dễ sinh ra ngờ vực hai lòng. Vậy xin trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người rồi sau sẽ cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc cũng chưa là muộn.

    Bắc bình vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân (ở địa phận xã An Cựu, huyện Hương Trà, Thừa Thiên (Bình Trị Thiên)), tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi; chế ra áo cổn mũ miện, lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu thân (1788).
    Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh, cả thuỷ lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến Nghệ An, vua Quang Trung cho vời người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp vào dinh và hỏi:

    - Quân Thanh sang đánh, tôi sắp đem binh ra chống cự. Mưu đánh và giữ, cơ được hay thua, tiên sinh nghĩ như thế nào?

    Thiếp nói:

    - Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh nên giữ ra sao. Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị dẹp tan.

    Vua Quang Trung mừng lắm, liền sai đại tướng là Hám hổ hầu kén lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ. Rồi nhà vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn, đem số thân quân ở Thuận Hoá, Quảng Nam chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì làm trung quân.

    Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên uỷ quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:

    - Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương Bắc (chỉ đất Trung Quốc) chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng nữ vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ; các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy, đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!

    Các quân lính đều nói: "Xin vâng lệnh, không dám hai lòng!".

    Hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân ra đón, đều mang gươm trên lưng mà xin chịu tội.

    Vua Quang Trung nói:

    - Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt cả 11 thừa tuyên (từ thời Lê Hồng Đức, các trấn ở Bắc Hà đều gọi là "thừa tuyên"), lại cho tuỳ tiện làm việc. Vậy mà giặc đến không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: "Quân thua chém tướng". Tội của các ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tuỳ cơ ứng biến thì không có tài. Cho nên, ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đấy làm việc với các ngươi, chính là lo về điều đó. Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cớ rõ ràng. Các ngươi đóng quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kỳ làm nội ứng cho chúng, thì các người làm sao mà cử động được? Các ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, kế ấy là rất đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Ngô Thì Nhậm chủ mưu, sau hỏi Văn Tuyết thì quả đúng như vậy...

    Thì Nhậm bèn lạy hai lạy để tạ ơn. Vua Quang Trung lại nói:

    Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày, có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?

    Bọn Sở, Lân đều lạy tạ và nói:

    - Chúa thượng thật là lo xa, chúng tôi ngu dại không thể nghĩ tới chỗ đó. Hiện nay phương lược tiến đánh ra sao, xin chúa thượng nhất nhất chỉ rõ để chúng tôi tuân theo mà làm.

    Vua Quang Trung bèn sai mở tiệc khao quân, chia quân sĩ ra làm năm đạo, hôm đó là ngày 30 tháng chạp. Rồi nhà vua bảo kín với các tướng rằng:

    - Ta với các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã. Đến tối 30 Tết lập tức lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác!

    Sau đó nhà vua truyền lệnh:

    Các viên tướng ở trung quân thuộc về doanh vua sai phái là đại tư mã Sở; nội hầu Lân đốc suất tiền quân làm tiên phong; Hám hổ hầu đốc suất hậu quân làm đốc chiến; đại đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết đốc suất tả quân, trong đó gồm có thuỷ quân vượt biển vào sông Lục Đầu; rồi Tuyết vẫn kinh lý vùng Hải Dương để tiếp ứng với mặt đông; còn Lộc thì đi gấp lên các hạt Lạng Sơn, Phượng Nhãn, Yên Thế để chặn đường về của quân Thanh; đại đô đốc Bảo, đô đốc Long đốc suất hữu quân, trong đó gồm quân voi và quân kỵ mã; Long xuyên qua huyện Chương Đức, theo đường đến thẳng làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì để đánh ngang vào đồn quân Điền Châu; Bảo thì thống đốc quân voi ngựa do đường Sơn Minh ra làng Đại áng huyện Thanh Trì để tiếp ứng cho cánh hữu.

    Cả năm đạo quân đều lạy vâng mệnh lệnh, đúng ngày, gióng trống lên đường ra Bắc (theo Cương mục thì trước khi tiến quân ra Bắc, vua Quang Trung có viết thư cho Sỹ Nghị vờ xin đầu hàng để khiêu gợi lòng kiêu căng, khinh địch của Nghị. Theo Lê triều dã sử, khi tiến quân ra Thăng Long vua Quang Trung bày cho quân lính cứ ba người một tốp thay phiên võng nhau đi, thành ra quân trẩy đi liên miên không phải dừng mà ai nấy đều lần lượt được nghỉ. Do đó, quân Tây Sơn đã hành binh cực kỳ thần tốc).

    Khi quân ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước. Lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt. Vua Quang Trung liền thúc quân đuổi theo, tới huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết, không để tên nào trốn thoát. Bởi vậy, không hề có ai chạy về báo tin, nên những đạo quân Thanh đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi (thuộc Thường Tín (nay thuộc tỉnh Hà Sơn Bình) và Thanh Trì (nay thuộc thành phố Hà Nội)) đều không biết gì cả.

    Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy, rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết.

    Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Đoạn kén hạng lính khoẻ mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn; hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ "nhất"; vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi (theo Dã sử, thì lúc này vua Quang Trung sai đốt hết lương thực và tự mình quấn khăn vàng vào cổ để tỏ ý quyết chiến quyết thắng, không chịu lùi). Quân Thanh nổ súng bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói toả mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.

    Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo của hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh.

    Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết (Cương mục ghi Sầm Nghi Đống thắt cổ chết ở Loa Sơn (tục gọi gò Đống Đa). Theo Bang giao lục, trong chiến dịch mùa xuân Kỷ Dậu, số quân Thanh bị chết là 27 vạn). Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.

    Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía đông. Đến lúc ấy, quân Thanh chạy về trông thấy, càng thêm hoảng sợ, bèn tìm lối tắt theo đường Vịnh Kiều mà trốn. Chợt lại thấy quân voi từ Đại áng tới, quân Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn xuống đầm mực, làng Quỳnh Đô (thuộc Thanh Trì, Hà Nội), quân Tây Sơn lùa voi giày đạp, chết đến hàng vạn người.

    Giữa trưa hôm ấy vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành (có sách chép khi Quang Trung vào Thăng Long, chiếc chiến bào màu đỏ đã bị nhuộm đen vì khói thuốc súng).

    Nguyên trước đó, đô đốc Long đốc suất hữu quân đã đem binh đến đóng ở làng Nhân Mục huyện Thanh Trì. Lúc vua Quang Trung đang đánh với quân Thanh ở Ngọc Hồi, thì sáng hôm ấy Long đã đánh tên thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng thuộc huyện Quảng Đức (trại Khương Thượng tức làng Khương Thượng nay thuộc thành phố Hà Nội). Quân Thanh tan vỡ bỏ chạy, Long liền tiến trước vào thành.

    Lại nói, Tôn Sỹ Nghị và vua Lê ở thành Thăng Long, tuyệt nhiên không nghe tin cấp báo gì cả cho nên trong ngày Tết mọi người chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc. Nào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cáo cấp. Thật là: "Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên". Bọn ấy lại nói:

    - Quan quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. ở đây cách đồn Ngọc Hồi không xa, sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới.

    Tôn Sỹ Nghị hoảng hốt sợ hãi, lập tức sai lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp dẫn viên hàng tướng Tây Sơn là Phan Khải Đức đem nghĩa binh tới cứu; lại sai hai mươi lính kỵ mã ở dưới trướng của mình cùng đi với Nghiệp, và dặn họ rằng:

    - Trong khoảng chốc lát, phải tiếp tục báo tin về ngay.

    Ý của Nghị chỉ lo có một mặt đó, không ngờ lại có mặt khác ập tới. Canh tư đêm ấy, chợt nghe ở phía tây bắc thành tiếng súng nổ đùng đùng không ngớt. Nghị vội sai người cưỡi ngựa ra xem, thì nghe báo tin đồn quân Điền Châu tan vỡ, quân Tây Sơn đã vào cửa ô, đốt giết lung tung, khói lửa bốc lên đầy trời rồi.

    Tôn Sỹ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy. Quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhĩ Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa (có sách chép, đạo quân Vân-Qui lúc này mới kéo sang đến Sơn Tây, nghe tin Nghị thua chạy, nên cũng vội vàng tìm đường tháo lui về).

    Vua Lê ở trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bến sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi Tàm thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc. Trưa ngày mồng 6 vua Lê và những người tuỳ tòng chạy đến núi Tam Tằng, nghe nói Tôn Sỹ Nghị đã đi khỏi đó. Bấy giờ quân Thanh chạy về nước, trên đường đông nghịt như chợ, đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi. Vua đưa thái hậu cùng đi với họ đến đồn Hoà Lạc thì gặp một người thổ hào. Hồi trước vua Lê chạy ra ngoài, người ấy đã được biết mặt; lúc đó thấy vua, người ấy bất giác lệ rơi, nhân tiện mời vua vào trại trong núi tạm nghỉ. Bấy giờ, vua Lê và những người tuỳ tòng luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều đã mệt lử. Người thổ hào kia liền giết gà làm cơm thết đãi. Vua sai bưng một mâm lên mời thái hậu; còn mình thì cùng ăn với bọn Quýnh, Hiến ở mâm dưới.

    Ăn vừa xong, chợt nghe tin quân Tây Sơn đã đuổi theo đến nơi. Vua cuống quít bảo người thổ hào rằng:

    - Muôn đội hậu tình, không có gì để báo đáp, chỉ có trời cao đất dày chứng dám tấc lòng thành của ông mà ban phúc cho thôi. Bây giờ quân giặc gần tới, trước mắt đây có con đường sống nào có thể chạy gấp lên cửa ải, xin tính kế ngay cho.

    Người thổ hào vội vã sai con đưa đường, theo lối tắt trong núi mà đi. Trời nhá nhem tối thì nhà vua đến cửa ải, theo kịp chỗ nghỉ của Tôn Sỹ Nghị. Một lát các viên quan khác cũng lục tục theo đến, cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Tôn Sỹ Nghị cũng lấy làm xấu hổ.

    Nhân tiện, vua từ giã Sỹ Nghị và nói:

    - Cô (lối xưng nhún mình của các vua chúa đời xưa) không có tài, chẳng giữ nổi xã tắc. Đội ơn tướng quân vâng chỉ của hoàng đế sang cứu viện; nào ngờ lòng trời không giúp nước nhỏ, nay ngài lại bỏ mà đi. Kính chúc tướng quân về triều được hai chữ "vạn phúc", Cô xin ở lại đất nước, thu nhặt dân binh, để tính việc nổi lên chuyến khác. Xa nhờ oai linh, may được nên việc, đều là ơn của tướng quân ban cho. Nếu như sự thế không xong, lại xin sang hầu tướng quân, như thế cho tiện.

    Nghị nói:

    - Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi. Nay hãy dâng biểu tâu lên xin quân, không đầy một tháng, đại binh sẽ lại tới. Chỗ này gần kề đảng giặc, ở lại không tiện, hãy tạm vào Nam Ninh nghỉ ngơi để chờ thánh chỉ cũng được.

    Vua Lê nghe lời. Nghị bèn cùng bọn tướng tá thu nhặt tàn quân kéo về.

    Vua lại sai bọn Quýnh, Hiến ở lại để ngầm chiêu dụ những người trung nghĩa ở trong nước. Còn vua thì cùng viên phụ đạo (tên gọi chức tù trưởng ở ngoại phiên) Cao Bằng là Địch quận công Hoàng ích Hiểu, viên trấn thủ Kinh Bắc người làng Nộn Liễu huyện Nam Đường là Lê Hân, viên đề lĩnh bốn thành người huyện Thư Trì, trấn Sơn Nam là Phạm Như Tùng viên phó đề lĩnh người làng Thanh Tuyền, huyện Nam Đường là Nguyễn Viết Triệu, viên thư tri công lượng chính người làng Nghĩa Động, huyện Nam Đường là Lê Văn Trương, viên hiệp lý quân vụ, người làng Quỳnh Côi, huyện Nam Đường là Phạm Trần Thiệu, người bà con bên vợ ở làng Tỳ Bà, huyện Lang Tài là Nguyễn Quốc Đống, viên chưởng tứ bảo người làng Đồng Bảng trấn Thanh Hóa là Lê Quý Thích, cùng đưa thái hậu theo Nghị sang Trung Quốc.

    Thực là:

    Bờ cõi chưa xong bề tính liệu,
    Nước non buồn nỗi lúc chia ly.

    Chưa biết việc ấy ra sao! Hãy chờ hồi sau phân giải.

Chia sẻ trang này