Làm giàu từ Vườn - Ao - Chuồng - Rừng với niềm tin thắng lợi và tình yêu quê hương .

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi Hoa_Sim, 30/01/2012.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
4447 người đang online, trong đó có 348 thành viên. 23:23 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 122022 lượt đọc và 821 bài trả lời
  1. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967
    Mô hình nuôi rắn Ráo Trâu thoát nghèo



    [​IMG]
    Từ TP HCM, biết tin nhiều hộ dân nghèo khó ở đảo Nhím (xã Suối Đá, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh nhờ nuôi rắn mà thoát khỏi cơn bĩ cực của sự khó nhọc, chúng tôi lập tức lên đường.

    - Trước khi đi sâu vào nghề nuôi Răn Ráo Trâu (một số vùng còn gọi với tên khác là rắn Hổ Hèo, rắn Long Thừa), ông Hùng - người lái đò cũng là chủ “trang trại” rắn và những cư dân đảo Nhím cùng đi trên đò cho biết lúc cao điểm, đảo Nhím có cả trăm hộ dân, sống tách biệt với cộng đồng do đảo nằm giữa lòng hồ Dầu Tiếng. Những năm trước, cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào việc đánh bắt cá ở lòng hồ, mà lượng tôm cá ngày càng cạn kiệt trước quá nhiều tay lưới với lối khai thác hủy diệt bằng chất nổ, lưới cào nên cuộc sống của người dân ở đảo rất khó khăn.

    - Năm 2003, trước chủ trương di dời của huyện để biến đảo thành khu du lịch sinh thái, cuộc sống người dân ở xã bị xáo trộn. Về nơi ở mới tại ấp Đồng Kèn cách đảo đến 7km được một thời gian nhưng không có đất sản xuất, vậy là nhiều hộ dân lại kéo về đảo, tiếp tục sống bấp bênh theo kiểu "no bữa nào, hay bữa nấy" với việc buông lưới, giăng câu, soi ếch nhái.

    - "Người tiên phong ở đảo nuôi rắn là vợ chồng ông Gồng - Đò. Khoảng giữa năm 2007, ông Gồng bắt được con rắn long thừa nặng khoảng 200 gram được lái trả 150.000 đồng. Lúc ông định bán thì bà Đò cản lại. Nghề nuôi rắn long thừa ở đảo Nhím phát triển từ đó".

    - Sau khoảng 30 phút tiến ra giữa mênh mông biển nước, đò cập bến. Trên đường đưa chúng tôi đến nhà vợ chồng ông Gồng, chị Võ Thị The, 46 tuổi khoe gia đình chị hiện có 3 chuồng rắn sắp xuất cho lái, mỗi chuồng có 20 con, mỗi con tính bình quân 500.000 đồng thì chị cũng sắp có khoản tiền 30 triệu đồng. Chị The nhẩm tính: "Chủ yếu là lấy công làm lời. Tối tối mình chịu khó đi soi chuột cho rắn ăn. Nếu nuôi giỏi thì khoảng 1 năm xuất chuồng được rồi".

    - Nhà vợ chồng ông Gồng - Đò cùng nhiều hộ dân khác nằm trên gò đất cao. Tuy ngó bề ngoài lụp xụp nhưng đôi vợ chồng này đang sở hữu hàng trăm con rắn mà theo nhẩm tính của cư dân xóm đảo trị giá xấp xỉ 100 triệu đồng.

    - "Rắn long thừa còn gọi là rắn hổ hèo" - ông Gồng cho biết: "Nếu như dân miền Tây thịnh hành việc nuôi rắn ri voi thì ở đây bà con mặn mà với con rắn hổ. Giống rắn này cắn không chết người, từng có rất nhiều ở đảo Nhím nhưng do có giá trị nên bị săn bắt bừa bãi, số lượng hiếm dần".

    - Vợ chồng ông Gồng với những con rắn long thừa quý hiếm được nuôi thành công trên đảo Nhím.

    - Bà Đò nhớ lại: "Hồi giờ chỉ quen bắt sẵn ngoài tự nhiên, nay bắt tay vào việc nuôi rắn, nói thiệt hồi hộp lắm. Được cái giống rắn này dễ nuôi, mau lớn. Nuôi được 1 tháng, thấy nó tăng trọng nên vợ chồng tôi mừng lắm, đi soi hễ bắt được là về thả vào chuồng bọc lưới mắt cáo nuôi lớn. Vợ chồng tôi tính chuyện cho chúng đẻ bằng cách nhốt con đực với con cái lại với nhau, ai ngờ chúng đẻ trứng, rồi ấp con. Con giống nhiều, vợ chồng tôi phần nuôi bán thịt, phần bán cho bà con xung quanh cùng nuôi. Riết giờ bà con ở đảo nhà nào cũng có vài chục con làm vốn".

    - Theo ông Hồ Quốc Thạch (Trưởng ấp), thời gian đầu việc nuôi rắn trong điều kiện nhốt lồng của bà con gặp một số trở ngại. Qua một thời gian trải nghiệm, người dân đảo Nhím có thể nuôi rắn trong nhiều điều kiện khác nhau, từ tận dụng lồng chuồng nuôi heo cải tạo lại hay chỉ đơn giản rào lưới mắt cáo nuôi trong điều kiện bán hoang dã. Cũng có thể nuôi bằng hầm xi măng âm đất và ấp trứng rắn trong các thùng xốp.

    - Ông Nguyễn Văn Đảnh, 55 tuổi, cho biết: "Nếu nuôi khéo trong 12 tháng rắn con sẽ đạt trọng lượng từ 1,5-2kg. Ở trọng lượng này giá thu vào tùy thời điểm từ 460.000 - 520.000 đồng/kg". Ban đầu ông Đảnh mua 4 con rắn giống về nuôi với giá 200.000 đồng. Được 1 năm sau rắn lớn, ông cho phối giống và lứa đầu cặp rắn đẻ được 25 trứng, ấp nở thành công 20 trứng. Cứ vậy mà chỉ sau hơn 2 năm gây dựng, giờ ông Đảnh có số rắn tương đương 30 triệu đồng. "Nếu chịu khó thì người nghèo nào cũng có thể thoát nghèo từ nghề nuôi rắn" - ông Đảnh bộc bạch.

    - Theo Ông Hồ Thái Sơn (Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh) cho biết: Sách đỏ Việt Nam, rắn long thừa thuộc loài rắn hổ, có tên khoa học là Ptyas Mucosus. Tùy địa phương mà loài rắn hổ nhưng không độc này được gọi là rắn hổ dện, rắn hổ trâu. Do vốn đầu tư ít, đầu ra ổn định, giá trị cao và quan trọng nhất là cứu nguy loài này thoát nguy cơ tuyệt chủng nên mô hình nuôi rắn được địa phương khuyến khích, tạo điều kiện. Nhờ vậy mà ngày càng có nhiều nông dân ở huyện hướng vào mô hình nuôi rắn, tập trung nhiều tại 2 xã Chà Là, Lộc Ninh. Đã có nhiều nông dân thoát nghèo, cuộc sống khấm khá nhờ mô hình chăn nuôi động vật thuộc Sách đỏ này.
  2. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967
    http://www.kythuatnuoitrong.com/2011/11/ky-thuat-nuoi-ca-loc-trong-be.html

    Kỹ thuật nuôi cá lóc trong bể


    [​IMG]
    Cá lóc là loại cá nước ngọt, thịt ngon, dễ nuôi. Trong điều kiện nông hộ có diện tích đất hạn hẹp hoặc không có đất, có thể nuôi cá lóc với nhiều loại hình khác nhau. Có thể nuôi ao, vèo hay nuôi trong bể lót bạt, bể xi măng. Mô hình nuôi này, các hộ nghèo, cận nghèo có thể tham gia để phát triển kinh tế hộ. Dù dưới hình thức nuôi nào, điều đầu tiên, phải am hiểu kỹ thuật của từng loại hình nuôi mới đạt hiệu quả kinh tế.

    1. Công tác chuẩn bị

    - Mũ 2 da dùng lót bể.

    - Trụ đứng (nóng đá hoặc cây tre,tràm...).

    - Cây đóng vách ngang, nẹp tre, ván 3 - 5cm hoặc lót mê bồ.

    - Ống cấp, đường kính 45cm, ống thoát đường kính 60cm - 90cm dài 2 - 3 tấc; val khoá, mở.

    - Dây kẽm chằng bể.

    2. Thiết kế bể nuôi
    - Làm khung hình chữ nhật, khoảng cách trụ đứng từ 0,6m - 0,8m một cây, đảm bảo cho chắc chắn để khi bơm nước vào không bị sạt, vách đóng nẹp ván, tre, khoảng cách 1 - 2 phân hoặc đóng sườn xong, lót mê bồ xung quanh. Sau đó lót bạt 2 da.

    - Khi lót bạt, xếp góc cho sát mí, những li nhỏ cho ở bên trong, bên ngoài chỉ chừa một li lớn ốp sát vào đóng nẹp cho phẳng bạt, để sau này dễ vệ sinh bể. Khung phải chằng dây kẽm cho chắc chắn và có lưới bảo vệ phía trên, tránh cá phóng nhảy. Ống cấp nước vào đặt phía trên bể, ống tràn (khi trời mưa sẽ duy trì mực nước theo yêu cầu không tràn nước bể nuôi), ống xả nước ở tầng đáy bể. Đáy bể có độ dốc thấp dần về phía thoát nước để chất cặn bả trôi ra ngoài khi thay nước.

    - Quy cách bồn: Có thể tính theo bề khổ của mũ để ít tốn chi phí. (khổ 4m x 6m x 8m).Ta tính:
    + Chiều ngang = ngang đáy + 2 chiều cao (2 vách đứng). Chiều dài = Dài đáy + 2 chiều cao.
    + Nếu bể ngang 3m, dài 5m, cao 1,5 m ta mua 8m mũ và chọn khổ mũ 6m, hoặc mua 6m khổ mũ 8m. (Ngang 3m + 3m= 6m; dài 5m + 3m = 8m) Nếu bể: Ngang 2m, dài 3m, cao1,5 m (ngang 2m + 3m = 5m, dài 3m + 3m = 6m) Lấy khổ mũ 6m làm chiều dài,ta chỉ mua 5m là đủ.

    - Chiều sâu mực nước nuôi cá đảm bảo: 1,2m.

    3. Các phương tiện hỗ trợ
    Nuôi cá lóc trong bể lót bạt do tận dụng diện tích nhỏ nuôi với mật độ cao nên cần phải trao đổi nước thường xuyên để cung cấp Oxy đầy đủ cá mới phát triển tốt. Do đó mô hình nuôi này đòi hỏi phải có moteur bơm nước, thông thường công suất từ 0,5CV - 2 CV tùy bể nuôi lớn nhỏ.

    4. Mật độ nuôi
    Có thể nuôi từ 60 - 100 con/m3 bể. Nếu khu vực nào cúp điện thường xuyên, có thể nuôi với mật độ thấp.(60 - 80con/m2). Cỡ cá thả: có thể thả cá từ *****g 6 - *****g 10.

    5. Kỹ thuật thả cá
    a. Chuẩn bị nguồn nước
    - Trước khi thả cá 3 - 4 ngày, cho nước vào bể nuôi, độ sâu 8 tấc. Sau đó, cá lớn, nâng dần mực nước cho đạt yêu cầu 1,2m.

    - Xử lý sát trùng nguồn nước: Avaxide 1cc/m3, 2 ngày sau xử lý Yuca-zeo bio+ muối hột ( bể 3m x 5m x 0,8m): Xử lý 25g vôi + 1/2 lon sữa bò muối hột).

    b.Nhập giống
    - Cá đem về phải xử lý: Tắm cá, ngừa ngoại ký sinh hoặc nấm trước khi thả vào bể nuôi bằng một trong các loại sau: Muối hột 2 - 3% (tương đương 200 - 300g trong 10lít nước). Thời gian 10 - 15 phút hoặc thuốc có gốc Iode. Thí dụ: Iodine – complex (Công ty Bio): Nồng độ ngâm là 1cc/m3 (khối = 1.000 lít; tắm 10cc/m3 thời gian 5 - 10 phút.

    - Cách pha: Nếu chứa cá trong thau khoảng 10 lít nước, ta pha như sau: Rút 1cc thuốc pha trong 1lít nước sạch, sau đó rút 100cc thuốc đã pha cho vào thau 10 lít nước, thời gian 10 phút. Nếu số lượng nước trong thau là 5 lít, ta lấy 50cc, thời gian 10 phút.

    * Chú ý tắm cá: Có thời gian nhất định; tính nồng độ thuốc cần dùng pha sẵn thuốc, cho thuốc từ từ vào cá, theo dõi phản ứng của cá để xử lý kịp thời, vì đôi khi nhắm chừng không đúng, hoặc cá bị mệt do vận chuyển xa. Sau khi tắm cá 10 - 15 phút, đưa cá vào bể nuôi, ngày sau mới cho cá ăn. Nếu khi thả cá vào bể, có một vài con tách đàn hoặc nổi trên mặt nước, tạt tiếp tục 2 - 3 đợt thuốc trị ngoại ký sinh. (cách một ngày xử lý một lần).

    6. Cho ăn và chăm sóc
    - Thức ăn là cá tạp, xay, bằm, cắt khúc tùy theo kích cỡ cá. Khi cho cá ăn phải quan sát hoạt động của cá và quan sát nguồn nước để xử lý kịp thời. Nếu thấy cá nhát: đốp mồi rồi chạy ra ngoài phải xử lý nguồn nước hoặc tạt thuốc trị ký sinh trùng. Nếu thấy cá nổi trên mặt nước nhiều là nguồn nước dơ. Nếu cá nổi trên mặt nước, da sẫm màu, phản xạ kém với tiếng động là cá bị ký sinh trùng. Sức ăn của cá phụ thuộc: Thời tiết; chế độ trao đổi nước, chất lượng mồi.

    - Khi thời tiết xấu trộn Vitamine-C, men tiêu hoá, betaglucan cho cá ăn 3 - 5 ngày.

    - Cá *****g 10 - 2 nên tẩy giun hoặc trộn thuốc trị nội ngoại ký sinh (có bán ở hiệu thuốc Thú Y). Trong chu kỳ nuôi có thể tẩy giun 3 đợt, tẩy giun lúc cá khoẻ.

    * Chú ý: Cho ăn: Đủ số lượng để cá phát triển (nếu thiếu mồi, cá ăn lẫn nhau rất dữ làm hao đầu con); đủ chất lượng để cá khoẻ; đúng vị trí và thời gian để tạo phản xạ có điều kiện giúp cá hấp thu thức ăn tốt, hệ số tiêu tốn thức ăn sẽ thấp.

    - Chế độ thay nước: Do diện tích nhỏ, khi cá ăn mồi, lượng mồi rã ra, phân cá thải ra, nên nước rất mau dơ, nhất là cá biển, nên việc trao đổi nước tốt giúp cá phát triển nhanh và bắt mồi mạnh. Khi thay nước mở val xả nước tầng đáy. Nếu chất cặn bả không thoát tốt do kỹ thuật làm bể, do đó khi thay nước nên có ống mũ để rút bã dưới đáy bể. Thay nước như thế mới hiệu quả.

    * Lưu ý: Thường đa số hộ nuôi không có ao lắng xử lý nước, nên khi cấp nước vào bể nuôi, phải xử lý vôi hoặc sát trùng nguồn nước vào những thời điểm chất lượng nước ở sông, kênh rạch không tốt như nước quay, nước rút, mưa, bão, áp thấp.

    - Hoá chất trị ký sinh trùng có hiệu quả trong nuôi cá lóc: Avaxide (trị sán lá,trùng bánh xe...Cty: Anova); thuốc gốc Iiode (trị nấm ký sinh). Khi thấy vòm họng cá bị đỏ, trên thân có những vết đỏ là cá bị vi khuẩn, phải dùng kháng sinh trộn vào thức ăn cho cá ăn 5 - 7 ngày, đồng thời phải xử lý nguồn nước, tạt thuốc trị ký sinh.

    Kỹ thuật nuôi cá lóc trong bể,
    Nguồn: Trạm Khuyến nông Phú Tân.
  3. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967
    http://www.kythuatnuoitrong.com/2011/10/mo-hinh-nuoi-ca-bong-tuong-lam-giau.html

    Mô hình nuôi cá Bống Tượng làm giàu


    [​IMG]
    Sau nhiều năm bôn ba với nghề lái xe khách, anh Mai Văn Liễu (ở thôn Diên Trường, Phổ Khánh, Đức Phổ) trở về quê cùng với mô hình nuôi cá bống tượng học được từ Vũng Tàu. Trải qua nhiều thất bại, giờ anh Liễu trở thành người giàu có nhờ nghị lực, ý chí và sáng tạo của mình.

    - Được sự giới thiệu của Huyện đoàn Đức Phổ, chúng tôi tìm vào nhà anh Mai Văn Liễu ở Phổ Khánh. Sau khi tham quan hồ cá, chúng tôi được nghe anh "tường thuật" nghề nuôi cá của mình. Trước đây anh có một chiếc xe đưa đón khách từ Quảng Ngãi đi các tỉnh phía Nam. Sau nhiều năm sống với nghề viễn du tứ xứ, thấy cuộc sống khó khăn và có phần nguy hiểm, anh quyết định về quê lập nghiệp. Với một số vốn có được cộng với những kinh nghiệm học hỏi từ bạn bè, anh Liễu chọn nuôi cá bống tượng để bắt đầu sự nghiệp mới của mình. Anh Liễu cho biết: Trong những ngày bôn ba khắp nơi, anh quen nhiều bạn bè, đồng thời cũng học hỏi từ họ rất nhiều cách làm giàu. Nuôi cá bống tượng là một mô hình anh học từ một người bạn ở Vũng Tàu.

    - Cuối năm 2006 với số tiền có được từ việc bán xe, cùng số vốn tích góp được anh vay thêm Ngân hàng chính sách 80 triệu đồng để thực hiện dự án. Lúc đầu anh thuê diện tích hồ An Khê (Phổ Khánh) thả nuôi 3 lồng cá. Do chưa có nhiều kinh nghiệm, anh và một số người cùng nuôi thất bại. Nhưng với ý chí và sự ham học hỏi, sau nhiều lần suy nghĩ, anh chọn môi trường cho cá phát triển là nguồn nước ngọt không bị ô nhiễm. Anh Liễu đầu tư 400 triệu đồng để xây 4 hồ tại vườn nhà, thả nuôi cá (hồ được xây ximăng xung quanh và lót bạt nilon dưới đáy, tổng diện tích 420m2). Để có nguồn cá giống, anh Liễu thu mua tất cả số cá khoẻ mạnh từ những người đánh bắt ở khắp nơi trong huyện, mang về thả nuôi. Từ năm 2007 đến nay do nguồn giống thu mua khan hiếm dần, nên anh bắt đầu tự ươm cá giống từ những con khoẻ mạnh và đã mang lại thành công. Không chỉ ươm giống để nuôi, mà còn cung cấp giống cho Trung tâm thuỷ sản của tỉnh. Đến nay anh đã chủ động hoàn toàn về nguồn giống đảm bảo chất lượng.

    - Cá bống tượng có thời gian sinh trưởng khoảng 10 tháng mới cho thu hoạch. Để có nguồn cá thương phẩm cung cấp thường xuyên cho thị trường, với 4 hồ anh thả nuôi 4 lứa có độ tuổi khác nhau, có cá bán xoay vòng liên tục. Hơn nữa với 4 hồ riêng biệt, nhiều lứa cá sẽ thuận lợi cho việc làm vệ sinh ao nuôi, đảm bảo cho cá phát triển tốt.

    - Cá bống tượng là một trong những mặt hàng xuất khẩu sang các nước Nhật Bản, Hàn Quốc... vì thế giá thành khá cao. Thời điểm hiện nay 1 kg cá thương phẩm có giá trên 200.000 đồng. Trung bình một năm anh xuất trên 2 tấn cá thương phẩm, trừ chi phí anh còn lãi khoảng 400 - 500 triệu đồng/năm. Với nghề nuôi cá này anh Liễu đã giải quyết việc làm cho 3 lao động thường xuyên, với mức lương 1,5 triệu đồng/người/tháng.

    - Không chỉ làm giàu cho riêng mình, anh sẵn sàng giúp đỡ nhưng hộ gia đình khác có nghề nuôi cá; giúp một số hộ nuôi cá ở địa phương và một số thanh niên nuôi cá điêu hồng ở hồ Núi Ngang (Ba Liên, Ba Tơ). Không dừng lại ở nuôi cá, hiện anh đang mở một nhà ăn chuyên chế biến các món ăn từ cá bống tượng tại vườn nhà và giải quyết thêm được 4 lao động địa phương có thu nhập ổn định. Sắp đến anh Liễu tiếp tục đầu tư xây dựng 20 hồ nuôi (mỗi hồ có diện tích 250m2).

    - Với những thành công trong mô hình nuôi cá của mình, tháng 12/2008, anh Mai Văn Liễu vinh dự được Trung ương đoàn trao tặng giải thưởng Lương Định Của cho "Nhà nông trẻ xuất sắc năm 2008".

    - Nuôi cá bống tượng là một mô hình còn mới và chưa phổ biến ở tỉnh ta, hy vọng từ thành công của anh Mai Văn Liễu, nhiều người sẽ học hỏi và làm theo để vươn lên làm giàu trên quê hương mình.
  4. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967
    Kỹ thuật nuôi chim trĩ

    I. GIỚI THIỆU CHIM TRĨ ĐỎ KHOANG CỔ

    1.1. Nguồn gốc, phân bố và đặc điểm sinh học

    Chim Trĩ đỏ khoang cổ là loài chim thuộc Họ Trĩ (Phasianidae) nằm trong Sách đỏ Việt Nam. Chúng chủ yếu sống tại các khu vực miền bắc Việt Nam (Lạng Sơn, Quảng Ninh …), rừng quốc gia Cát Tiên (Lâm Đồng), khu bảo tồn U Minh Thượng (Kiên Giang), khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền (Thừa thiên Huế) và phía Đông Nam Trung Quốc. Chim Trĩ khoang cổ tên khoa học là Phasianus colchicus Linnaeus. Khi trưởng thành con đực có màu lông sáng, đầu và cổ con đực có màu xanh nhạt với 1 khoang trắng rõ rệt xung quanh vùng cổ, giữa ngực là 1 màu đỏ tía đậm, các vùng bên cạnh có màu sáng hơn, hai bên sườn có màu vàng nhạt (vàng tái) với các vết đen trên diện rộng, lông đuôi có màu vàng oliu (nâu vàng nhạt) với các sọc ngang rộng màu đen. Trong khi đó con cái có nhiều vết đốm rõ rệt, các lông cổ màu nâu và đen kẻ sọc quanh chỏm đầu, với các đường viền có màu hạt dẻ, phần lông phía sau lưng và ngực có màu lốm đốm, phần giữa có màu nâu đen, vùng bụng có màu nâu nhạt. Các lông đuôi rất rõ rệt với các đường gợn sóng dày khít có màu vàng sẫm và đen. Chim trĩ non rất khó phân biệt trống mái, đến hơn 3 tháng mới phân biệt được dựa vào màu lông.
    Chim Trĩ có sức sống, khả năng thích ứng và kháng cự mạnh mẽ đối với bệnh tật, sống được ở nhiệt độ từ - 32oC đến 46oC.
    Trĩ đỏ lớn rất nhanh và có khả năng đề kháng rất cao nên ít mắc bệnh. Ngoài 8 tháng là trĩ mái bắt đầu đẻ trứng, mỗi con mái trưởng thành trong một năm có khả năng đẻ 90 – 100 quả trứng. Nuôi nhốt trong điều kiện thiếu các phương tiện ấp trứng nhân tạo thì khó thành công vì chim trĩ đỏ không còn nhớ bản năng ấp trứng. Những hộ nuôi ít thì thường cho gà ấp hộ, tỉ lệ ấp nở thành công tới hơn 75%. Nếu được ăn đầy đủ, thêm côn trùng, mỗi con trĩ đỏ mái có thể đẻ đến hai trứng mỗi ngày. Nếu dùng máy ấp nhân tạo với các thông số độ ẩm, nhiệt độ phù hợp thì có thể cho tỉ lệ nở 80 – 85 %. Tại miền Bắc, chim Trĩ sinh sản kéo dài từ tháng 02 đến tháng 09 trong năm.
    Một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật nghiên cứu tổng kết tại trang trại của Cty CP thực phẩm tiêu chuẩn GAP như sau:
    [*] Sản lượng trứng/mái/mùa sinh sản : 90 – 100 quả
    [*] Tỷ lệ trứng giống(%) : 92 – 95%
    [*] Tỷ lệ phôi (%) : 93 – 95%
    [*] Tỷ lệ nở/tổng trứng ấp (%) : 75 – 80%
    [*] Tỷ lệ nuôi sống (%) : 85%
    [*] Thức ăn bình quân giai đoạn đẻ : 60g – 70g/con/ngày
    [*] Chim Trĩ đỏ khoang cổ thương phẩm (nuôi 16 tuần tuổi)
    [*] Tỷ lệ nuôi sống (%) : 80 - 85%
    [*] Khối lượng cơ thể (g) : 1100 – 1300 g/con
    [*] Tiêu tốn thức ăn/kg tăng k.lượng cơ thể (g): 4800 – 5000 g

    [​IMG]

    1.2. Giá trị kinh tế
    Giá trị kinh tế của chim Trĩ chắc chắn gấp hàng chục lần gà. Trứng trĩ rất thơm ngon, bổ dưỡng. Hiện tại trứng trĩ cũng đang được thị trường rất ưa chuộng nên việc nuôi trĩ lấy trứng đang rất tiềm năng. Và điều quan trọng hơn tất cả là bảo tồn được nguồn gien cùng với việc đưa giống chim quý hiếm này vào phục vụ du lịch thậm chí thương phẩm hóa. Nuôi loài này với mục đích trước tiên là bảo tồn và tiến tới thương mại hóa thì phải nói là siêu lợi nhuận. Giá mỗi con 2,5-3 tháng tuổi là 400.000-500.000 đồng, loại 6 tháng trở lên ~ 1.000.000 đồng, loại đang thời kỳ đẻ trứng ~ 1.500.000 đồng, trứng trĩ hiện đang bán ra thị trường với giá 50 nghìn đồng/quả. Nếu so với nuôi gà thì bà con có thể thấy giá trị của con trĩ lớn thế nào trong khi nuôi trĩ chẳng khác nuôi gà là bao, chuồng trại có thể tận dụng các khu chuồng đã từng nuôi gà, nuôi lợn.

    1.3. Giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh
    Thịt trĩ có hàm lượng protein cao lên tới 30% cao hơn hẳn hàm lượng protein trong thịt bò, thịt gà, thịt lợn, thịt cừu, giàu các vitamin A, C, B1, B2, B3, B6, B12, E, hàm lượng chất béo bão hòa và cholesterol thấp, chứa các amino axit thiết yếu cơ thể con người, trong đó có nhiều amino axit không tổng hợp được trong cơ thể, và giàu nguyên tố vi lượng thiết yếu như germanium (Ge), selenium (Se), kẽm (Zn), sắt (Fe), canxi (Ca). Trong y học cổ truyền, thịt chim trĩ được sử dụng như một vị thuốc, tính vị ngọt, bình. Công hiệu: bổ trung ích khí, tư bổ gan thận, chữa tiêu chảy, chủ trị tỳ vị hư yếu, ít ăn,… Thịt trĩ còn được dùng làm bài thuốc cho phụ nữ sau khi sinh: băng huyết, thiếu máu, suy nhược sau sinh, sa tử cung, và dạ dày, dùng làm thức ăn tăng cường sức khỏe cho người già, hồi phục sức khỏe sau bệnh, dùng cho trẻ em suy dinh dưỡng. Thường xuyên ăn thịt chim trĩ có tác dụng chống suy nhược thần kinh, giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch vành, bệnh tim phổi và có thể điều trị ngăn ngừa bệnh ung thư (theo Đại học Y của Trung Quốc).

    1.4. Giá trị cảnh và Quà biếu
    Việc nuôi chim cảnh đối với loài trĩ này hiện đang là một nhu cầu chắc chắn không nhỏ. Do tính chất quý hiếm và nhờ "ngoại hình" rất đẹp của chúng, nên hiện tại một phần nhỏ chim trĩ được nuôi làm cảnh trong các khu biệt thự cao cấp, các khách sạn, dùng làm trưng bày ở các triển lãm, hội nghị, còn phần lớn chim trĩ cung cấp cho các khu bảo tồn động vật hoang dã, vườn Quốc gia, khu du lịch sinh thái. Chim trĩ có thể được dùng làm quà tặng, quà biếu cao cấp, sang trọng, lịch sự vào các dịp lễ Tết, lễ hội, khánh thành, liên hoan,…Dưới thời các triều vua Trung Quốc, chim Trĩ dùng làm lễ vật cống của các nước nhỏ tới các nước lớn. Ở Mỹ, chim Trĩ được dùng làm một trong các món ăn sang trọng để thếp đãi các quan khách trong Nhà trắng.

    II. Chọn Giống:
    Dựa vào đặc điểm cơ thể để phân biệt chim trống , mái :
    Ở cùng lứa tuổi Chim trĩ trống thường có ngoại hình lớn hơn chim trĩ mái . Lúc còn nhỏ rất khó phân biệt chủ yếu dựa vào cảm quan nghề nghiệp và một số biểu hiện nhỏ về sự khác biệt trong tập tính sinh hoạt và ngoại hình chim .Có thể phân biệt bằng mặt thường qua việc so sánh kích thước cở thể , chiều cao chân , hoặc lỗ huyệt
    . Khi bước vào thời kỳ 2 -3tháng tuổi chim trống có biểu hiện chuyển dần màu lông từ lâu nhạt sang màu đỏ pha ,lúc này trọng lượng và chiều dài cơ thể lớn hơn chim mái rõ rệt . Trên cổ chim trống hình thành tuyến lông màu đồng phía dưới là màu xanh lá cây hoặc màu tím sáng .Kế tiếp xuất hiện 1 vòng lông cổ màu trắng ( thường gọi là Trĩ Đỏ Khoang Cổ Trắng ) Lông đuôi có màu đỏ và màu hạt dẻ pha trộn với các vệt đen hoặc trắng nhạt .Trên má hình thành hai mào đỏ và hai chỏm lông sừng màu xanh thẫm . Chim Trống trưởng thành có thể nặng tới 1,5 – 2kg , lông đuôi có thể đạt 0,4 – 0,6m ,tùy theo chế độ chăm sóc và mật độ nuôi thả
    Chim mái có kích thước nhỏ hơn chim trống .Sau khi thay lông ở thời kỳ 3-5 tháng tuổi chim mái sẽ ổn định ở bộ lông màu tối có những đốm đen ,pha lẫn màu hạt dẻ ., Chim mái có đuôi ngắn hơn chim trống , trọng lượng bình quân của một chim mái trưởng thành khoảng 0,7 – 1,3kg / con

    Trong môi trường tự nhiên một chim trĩ đực thường quàn lý và giao phối với rất nhiều chim mái . Với bản tính rất hăng về dục vọng 1 chim trĩ trống có thể đạp liên hồi nhiều chim trĩ mái trong một thời gian ngắn , Chúng tôi đã quan sát và ghi nhận lại có những thời điểm chỉ trong thời gian chưa đầy 5 phút một chim trĩ đực đã đạp lien hồi tới 4 lần / 3 chim mái .Với tốc độ và sự uy hiếp rất mạnh đối phương nên việc nuôi ghép 1 trĩ đực và 1 chim mái để sinh sản là điều tối kỵ , Chim mái sẽ thường xuyên rơi vào trạng thái hoảng loạn , bị dập trứng , hoặc lồi Zoong ( tuột hậu môn ) đôi khi có vấn đề về tâm , sinh lý ảnh hưởng nghiêm trong đến thế hệ chim mới sinh ra . Tuy nhiên nuôi với tỷ lệ mái quá nhiều cũng không tốt cho chim trống và chất lượng phôi trứng . Qua nghiên cứu thực nghiệm Vườn Chim Việt đã ổn định đàn chim bố mẹ sinh sản theo tỷ lệ 1 trống + 3 mái .

    Việc nuôi chim trĩ đỏ ở thời kỳ còn nhỏ thường gặp một số khó khăn nhất định lien quan đến chế độ dinh dưỡng , điều kiện môi trường đặc biệt là khâu vận chuyển , Vì vậy những người mới nuôi hoặc chưa có kinh nghiệm nuôi trĩ đỏ nên hạn chế việc đầu tư mua con giống size nhỏ . Người mua nên chọn mua những cá thể chim ở thời kỳ 3 – 5 tháng tuổi hoặc chim hậu bị \
    Trọn chim trống có ngoại hình to , cao , đuôi dài , lông mượt , trường chim ,dáng khỏe mạnh ,lanh lợi .Nếu ở thời kỳ trưởng thành chim trống luôn trong tư thế nghiêng mình sung trận
    Chim mái : bầu chim , nở hậu , không dị hình , dị tật . Nên mua chim ở những cơ sở gây nuôi uy tín và có nhiều năm kinh nghiệm để lựa được những cá thể chim khỏe mạnh , không bị đồng huyết , cũng như được tư vẫn về kỹ thuật gây nuôi .
    Một điểm đáng lưu ý : hiện nay chim trĩ đỏ vẫn nằm trong danh mục động vật hoang dã nên việc gây nuôi vẫn phải có khai báo với chi cục kiểm lâm sở tại .Phần lớn các cở sở nhân giống tự phát trên cả nước hiện vẫn chưa được đăng ký gây nuôi , Đây cũng là một vấn đề khó khăn trong công tác quản lý đối với các cơ quan hữu quan cũng như việc vận chuyển , buôn bán cho các hộ dân . Bà con nên tìm đến các cơ sở gây nuôi được cấp phép để mua con giống với nguồn gốc hợp lệ .Tránh mua trôi lổi trên thị trường sẽ gặp phải không ít khó khăn trong khâu vận chuyển cũng như công tác nhân giống và tiêu thụ sản phẩm về sau

    III. KỸ THUẬT CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG CHIM TRĨ ĐỎ KHOANG CỔ

    3.1. Yêu cầu chung về chuồng trại:
    Vị trí chuồng nuôi phải chọn nơi cao ráo, thoáng mát, cách xa các trại nuôi gia súc, gia cầm khác nhằm hạn chế tối thiểu mức rủi ro do lây nhiễm chồng chéo.
    Chuồng trại phải đảm bảo giữ ấm về mùa đông, mát về mùa hè. Nền chuồng phải bằng phẳng, tiện cho công tác dọn vệ sinh, rải chất độn chuồng bằng phôi bào hoặc trấu có thể trộn với cát được phơi khô đã được phun khử trùng. Mặt khác phải đảm bảo thực hiện được biện pháp an toàn sinh học.

    [​IMG]

    Lưu ý : Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2- 3 lần / tuần . Phun thuốc khủ trùng định kỳ . Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc , nhọn , sợi ninong trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến tủng diều , chết.
    Trong thời gian qua trên các diễn đàn mạng và truyền hình có giới thiệu 1 số mô hình nuôi chim trĩ đạt hiệu quả cao , tuy nhiên cách thiết kế chuồng trại thường theo phương thức chia nhiều ô với kích thước rất nhỏ , môi ô chỉ nuôi từ 1 -4 cá thể ( ghép bộ ) . Cách làm này tuy hạn chế được việc chim đánh , mổ nhau nhau nhưng lại tốn kém rất nhiều trong khâu thiết kế chuồng trại , máng ăn cũng như công chăm sóc , Mô hình ghép cặp chỉ thích nghi với điều kiện nuôi kiểng ,hoặc diện tích đất nhỏ .Tuỳ mục đích , quy mô sản xuất bà con có thể lựa chọn cách thiết kế chuồng trại sao cho phù hợp nhất với điều kiện sẵn có mà vẫn đảm bảo được yếu tố kỹ thuật trong việc quản lý và chăm sóc chim

    3.2. Chuẩn bị dụng cụ và chuồng nuôi
    Trước khi đưa chim vào nuôi dù quy mô lớn hay nhỏ cần phải chuẩn bị mọi điều kiện vật chất kỹ thuật như: lồng úm, chụp sưởi, máng ăn, máng uống, chất độn chuồng, tiêu độc khử trùng và chọn người nuôi.
    + Mật độ nuôi úm trong chuồng nhỏ
    Chim 0 – 30 ngày tuổi : 40 - 15 con /m2 :

    30 – 60 ngày tuổi : 12 – 6 con / m2

    60 – 90 ngày tuổi : 4 – 2 con /m2

    Sau 90 ngày tuổi có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2 con /m2

    + Lồng úm nuôi giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi
    Lồng úm và dụng cụ chăn nuôi phải được cọ rửa sạch sẽ, để trống chuồng trước khi đưa chim vào nuôi 15 – 20 ngày và phải được xử lý theo đúng quy định về vệ sinh phòng dịch, tường, nền được quét nước vôi đặc nồng độ 40%. Sau đó để khô phun tiêu độc bằng xút 2% (NaOH) với liều 1 lít/m2 hoặc bằng các loại thuốc sát trùng khác như Foocmol 3% phun 2 – 3 lần. Trước khi thả chim Trĩ vào nuôi 1 – 2 ngày phun tẩy uế lại bằng Formalin 3% và đóng kín cửa. Sau khi phun 5h mở cửa cho thông thoáng bay hết mùi thuốc sát trùng rồi mới thả chim. Nếu như chồng trại xây mới thì có thể chỉ dùng thuốc sát trùng Virkon®S của hãng Bayer: pha 100g với 10 lit nước, phun 300ml/m2, phun toàn bộ trại bao gồm nền, tường, bồn ăn uống, không khí, giày ủng. Hầu hết các kiểu úm gia cầm đều phù hợp cho việc úm chim Trĩ.
    Trong thời gian úm gột, để tập trung nguồn nhiệt tránh gió lùa sử dụng lồng úm với chiều cao 40 – 50 cm; chiều dài 1,0 – 1,2 m; chiều rộng 0,7 – 0,9 m. Xung quanh được đóng bằng gỗ ép hoặc cót ép, phía trên làm bằng lưới ô nhỏ để tránh chim bay, cửa lồng có thể nằm ở phía trên tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Lồng này dùng để úm chim non trong 28 – 30 ngày đầu, mỗi lồng như vậy có thể úm từ 50 – 80 chim.

    + Chuồng nuôi giai đoạn 5 – 12 tuần tuổi
    [*] Giai đoạn này chim Trĩ được nuôi thả ra nền chuồng bê tông để rải trấu hoặc phôi bào với độ dày 5 – 8 cm, có khu đổ cát để chim tắm cát. Chim Trĩ được thả ra ngoài nhằm cho chim vận động, nhưng phải có lưới quây để cho chim khỏi bay đi. Bên ngoài lớp lưới của sân chơi có thể phủ lên những cành cây giúp cho môi trường sống giống với các điều kiện tự nhiên. Giai đoạn này một chim cần 0,5 m2 tổng diện tích sàn bên trong chuồng nuôi, và 2 m2 diện tích nền bên ngoài được dùng cho việc vận động. Sau quá trình ấp, chim trĩ có thể được nuôi khép kín, nhưng cần thiết phải có nơi cư trú đầy đủ. Sân chơi được rào kín bằng lưới để ngăn chim thoát ra ngoài. Để ngặn chặn việc bay mất, kẹp lông cánh khi chúng 4 tuần tuổi hoặc cắt lông cánh ngay ban đầu.
    [*] Chim trĩ rất dễ kích thích và bay rất tốt, vì vậy chúng nên được nhốt trong chuồng nuôi hoặc các bãi rào được bao bọc cẩn thận. Nếu chúng có thể thoát ra ngoài sau khi sợ hãi, chúng có thể bay rất xa và mất.
    + Giai đoạn sau 12 tuần tuổi
    Ở giai đoạn này có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2 con/m2. Nên chia chuồng thành nhiều ô khác nhau để tiện cho công tác quản lý và theo dõi bệnh tật cũng như quá trình sinh trưởng và phát triển của chim. Nếu tốn kém trong việc chia chuồng ra nhiều ô nhỏ thì có thể chọn phương án nuôi tập trung (quần thể).
    Tường vây có thể xây hoặc dùng lưới B40, lưới mắt cáo. Trên lóc sử dụng các loại tấm lợp pro ximăng hoặc vật liệu rẻ tiền sẵn có tại địa phương, miễn sao đảm bảo chim không thoát ra ngoài.
    Nền chuồng được dải một phần hoặc toàn bộ cát, sử dụng loại cát vàng, để chim tắm cát và làm ổ đẻ. Phần còn lại có thể sự dụng bằng nền betông, hoặc trồng cỏ trong khoảng sân chơi.
    Mái che có thể lập toàn phần hoặc bán phần miễn sao đảm bảo thoáng về mùa hè, ấm về mùa đông. Với các địa phương khu vực phía bắc thường có rét đậm rét hại vào mùa đông, hoặc sương muối, nên che chắn cẩn thận toàn bộ chuồng nuôi bằng vải bạt và thắp điện sưởi để tránh rét cho chim. Với các tỉnh khu vực phía Nam và Tây Nguyên khí hậu nóng ấm quanh năm hạn chế phải che phủ chuồng trại hơn, tuy nhiên nên lưu ý đến các đợt mưa tạt, gió lùa vì đây là những thời điểm chim rễ mắc các bệnh về hô hấp, tiêu chảy, cầu trùng, tụ huyết trùng, thương hàn,...
    Lưu ý: Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2-3 lần/tuần. Phun thuốc khử trùng Virkon S định kỳ 1 lần/tuần, tăng cường khi có dịch hoặc khí hậu ẩm ướt. Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc, nhọn, sợi nilon trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến thủng diều, chết.

    + Làm chuồng cho chim lớn :
    Lên chia chuồng thành nhiều ô khác nhau để tiện cho công tác quản lý và theo dõi bệnh tật cũng như quá trình sinh trưởng và phát triển của chim :
    Nếu làm chuồng mới để nuôi chim sinh sản có thể thiết kế theo khung cơ bản sau :
    Rộng ngang : 3,5 m x dài 6 m x cao 2,5 – 2,8 m .
    Với diện tích ô chuồng này có thể nuôi được 20 -25 cá thể chim bố mẹ sinh sản , hoặc 30 - 40 cá thể chim hậu bị

    [​IMG]

    Lưu ý : Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2- 3 lần / tuần . Phun thuốc khủ trùng định kỳ . Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc , nhọn , sợi ninong trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến tủng diều , chết.

    3.3 Chăm sóc chim qua các thời kỳ sinh trưởng :
    A ) Nuôi chim con ( giai đoạn từ 1- 3 tháng tuổi ) : Chim được nuôi trong lồng nhỏ bằng lưới mắt cáo , Sử dụng bóng điện hoặc đèn sưởi đám bảo nhiệt độ 25 -27 độ C. Không nuôi chim con tại nơi có gió lùa , mưa tạt , Che đậy cẩn thận để đảm bảo an toàn cho chim khỏi các vật nuôi khác tấn công : Chó ,mèo , chuột . Khu vực nuôi thường xuyên được khử trùng định kỳ tối thiểu 15- 20 ngày/ lần .

    Thức ăn : sử dụng loại cám viên dùng cho gà con , sử dụng loại máng ăn , uống tự chế hoặc máng dùng cho gà miễn sao đảm bảo vệ sinh . . Nên cho lượng cám và nước vừa đủ, khi chim ăn hết nhấc máng ra vệ sinh và thay nước mới , Tránh để nước lưu lại sang ngày thứ 2 . Với chim nhỏ sức đề kháng yếu ta sử dụng loại nước cất hoặc nước đun sôi để nguội cho chim uống .

    B ) Nuôi chim trưởng thành : Chim được nuôi trong lồng lớn sử dụng thức ăn dành cho gia cầm trưởng thành ,gia cầm sinh sản ( cám gà đẻ ) kết hợp với thóc . Tỉ lệ fa tuỳ theo thời kỳ sinh trưởng của chim : có thể dùng tới 60%thóc trong khẩu phần thức ăn . Ngoài ra kết hợp cho ăn thêm các loại rau xanh : rau muống , rau lang , thân cây chuối thái nhỏ ..vv . Hạn chế cho các loại thức ăn lạ : tôm , cua , cá có thể dẫn đến tình trạng chim bị tiêu chảy .

    Trong quá trình nuôi đàn thường sảy ra hiện tượng chim cắn , mổ nhau : Vị trí mổ thường tập chung vào mắt ,đỉnh đầu hoặc lỗ huyệt ,Để hạn chế việc này ta có thể sử dụng 1 số phương thức sau :

    + Tách riêng cá thể chim bị đánh , hoặc chim đánh ra khỏi chuồng nuôi từ 3-5 ngày .Sau đó thả lại bình thường

    + Cho ăn bổ sung thêm 1 số khoáng chất : Ca , Zn . Có thể sử dụng loại thuốc trống cắn ,mổ bán tại các tiệm thú y để pha vào thức ăn cho chim

    + Cắt hoặc mài bớt phần mỏ dưới của chim (đây là liệu pháp bắt buộc trong quy trình nuôi công nghiệp theo quy mô lớn ) Việc cắt hoặc mài mỏ dưới của chim không làm ảnh hưởng đến ngoại hình ( vì phần mỏ dưới bị che khuất ) . Không ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của chim trống . Vì thực chất chim trĩ đạp mái thời gian diễn ra rất nhanh ( từ 15 -30 giây ) không nhất thiết cần sự hỗ trợ của bộ mỏ , nếu có chỉ cần mỏ trên là đủ . Ngoài ra việc cắt , mài mỏ còn loại bỏ được nguyên nhân ăn trứng của chim . Đây là lý do một số người đã nuôi chim trĩ trong thời gian dài vẫn không thấy chim sinh sản .,Tuy được xem là phương pháp kỹ thuật tiêu biểu và sử dụng rộng dãi trên thế giới song với người nuôi chim trĩ của Việt Nam lại quan niệm chim cắt mỏ là chim Trĩ của Trung Quốc . Thực tế trong danh mục các loại chim không có khái niệm chim trĩ đỏ TQ , chim Trĩ Thái Lan hay chim Trĩ Việt Nam .Mà đó chỉ là vùng phân bố của chim trĩ .Vì vậy chỉ có 1 loại trĩ đỏ khoang cổ duy nhất như hình trên , Khi đưa vào môi trường nuôi nhân tạo thì ngoại hình , trọng lượng của chim do người nuôi quyết định : Ví dụ : Nếu sử dụng 100 % cám tổng hợp làm khẩu phần ăn , chim trĩ sẽ rất nhanh lớn và có thể đạt trọng lượng >2kg / con .Tuy nhiên chất lượng thịt thương phẩm sẽ giảm vì mất dần tính hoang dã của chim , đồng thời sức đề kháng của chim cũng kém đi ,Với chim mái có thể dẫn đến hiện tượng béo lú mà không sinh sản đựoc

    Hiện nay trên 1 số diễn đàn mạng có đưa thông tin để phân biệt chim trĩ trung quốc và chim trĩ Việt Nam. Đó là phân biệt dựa vào ngoại hình và mỏ. Thực chất khi chim bố mẹ có cắt mỏ hoặc gẫy mỏ thì thế hệ chim con đẻ ra không hề bị ảnh hưởng, Vì vậy phần lớn khách hàng của Vườn Chim Việt sau khi nhân giống sang thế hệ thứ 2 đã giữ nguyên lại mỏ chim con , Cách làm này chỉ thích ứng cho việc nuôi kiểng với số lượng nhỏ ,nuôi ghép thành từng bộ , không thể nuôi đàn .Đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm và thiếu cơ sở khoa học .Và cũng là 1 trong những nguyên nhân khiến nhiều bà con phải bỏ tiền ra mua chim trĩ với giá rất cao vì nghe quảng cáo là chim trĩ Việt ,

    Để khảng định được nguồn gốc chim cũng như chất lượng con giống bà con nên đến trực tiếp các trang trại gây nuôi có uy tín , được cấp phép của chi cục kiểm lâm sở tại , Tránh mua tại các tiệm chim hoặc thương lái vì chim mới bị nhập về thường bị nhốt trong môi trường chật , không được chăm sóc có thể mang sẵn mầm bệnh .

    + Máng ăn:
    [*] Giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi: 4 tuần đầu có thể dùng máng nhựa, mẹt tre, máng tôn hình chữ nhật hoặc máng tròn, tuỳ theo kích thước của lồng úm.
    [*] Giai đoạn 5 – 9 tuần tuổi: từ tuần tuổi thứ 5 trở đi dùng máng ăn có kích thước to hơn (có thể là máng dài hoặc máng tròn). Máng dài có thiết diện hình thang, đáy nhỏ từ 5 – 8 cm, miệng rộng 7 – 13 cm, chiều dài của máng 1 – 1,5 mét; cao 4 – 8 cm có đế vững chắc tránh rơi vãi thức ăn.
    Máng tròn có thể bằng nhựa hoặc bằng tôn làm theo kiểu máng P50 Hunggari nâng dần độ cao của máng theo tuổi của chim.

    + Máng uống:
    Có nhiều loại song tuỳ thuộc điều kiện từng nơi, từng vùng mà áp dụng cho phù hợp và kinh tế. Thông thường dùng máng tròn (gallon) gồm phần đáy và thân nắp vào nhau làm bằng nhựa, thể tích máng uống tuỳ theo tuổi: Chim non dùng gallon 1 – 2 lít, chim dò hậu bị và sinh sản dùng gallon 4 – 8 lít. Máng uống dài có độ dài tương đương máng ăn nhưng thiết diện nhỏ hơn.

    + Chụp sưởi:
    Chim non sau khi nở ra chưa có khả năng điều tiết thân nhiệt do đó phải có hệ thống chụp sưởi để cung cấp nhiệt độ cho chim đến khi chúng có khả năng điều tiết được thân nhiệt phù hợp với nhiệt độ môi trường, có thể dùng dây may so, bóng điện hoặc đèn hồng ngoại tuỳ theo số lượng chim con 01 ngày tuổi mà bố trí hệ thống sưởi cho hợp lý và hiệu quả kinh tế.

    + Chất độn chuồng:
    Yêu cầu chất độn chuồng phải có khả năng hút ẩm, có thể dùng phôi bào, trấu, rơm rạ băm nhỏ. Lưu ý chất độn phải được phơi khô không có mùi mốc, phun sát trùng bằng Foocmol 2% hoặc Virkon®S. Cần có cát, sỏi bổ sung trong nền chuồng để có thể tắm hoặc ăn.

    3.4. Chọn chim giống
    Chọn những con nhanh nhẹn, mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập, khối lượng 20 - 23g là đạt yêu cầu. Loại ngay những con khô chân, vẹo mỏ, khèo chân, hở rốn, bụng nặng, lông bết.

    3.5. Nhiệt độ, ẩm độ và thông thoáng
    Hai tuần đầu tiên chim không tự điều chỉnh thân nhiệt một cách hoàn hảo, do đó các bệnh về đường hô hấp, tiêu hoá dễ phát sinh khi ẩm độ môi trường lên cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ nuôi sống và khả năng sinh trưởng của chim. Thời điểm khi chim xuống chuồng nên để nhiệt ở 350C, sau nhiệt độ được giảm dần xuống 300C khi chim được 3 tuần tuổi.

    Từ tuần tuổi thứ 2 cần chú ý đến tốc độ mọc lông ở chim để điều chỉnh nhiệt độ cho thích hợp. Trong quá trình nuôi phải quan sát phản ứng của chim đối với nhiệt độ:
    [*] Nếu thấy chim tập trung gần nguồn nhiệt, chen lấn chồng đống lên nhau là chuồng nuôi không đủ nhiệt, chim bị lạnh.
    [*] Nếu chim tản ra xa nguồn nhiệt, nháo nhác, kêu, khát nước, há mỏ để thở là bị quá nóng cần phải điều chỉnh giảm nhiệt độ.
    [*] Nếu chim tụm lại một phía là bị gió lùa rất nguy hiểm, cần che kín hướng gió thổi.
    [*] Khi đủ nhiệt, chim vận động ăn uống bình thường, ngủ, nghỉ tản đều lồng úm.
    Chim con cần chiếu sáng 24/24 giờ trong 4 tuần đầu, sau 5 – 9 tuần giảm thời gian chiếu sáng đến 16h, từ tuần thứ 7 – 9 lợi dụng ánh sáng tự nhiên, đảm bảo cường độ ánh sáng 3W/m2 là đủ.

    3.6. Nước uống
    Nước là nhu cầu đầu tiên của chim khi mới xuống chuồng. Cần cung cấp nước sạch, tốt nhất là pha thêm 5g đường Glucoz và 1g Vitamin C/lít nước cho những ngày đầu, nước uống cho chim không được lạnh tốt nhất là hơi ấm 18 – 210C trong vài ngày đầu.
    Sử dụng chụp nước tự động bằng nhựa 0,6 – 0,8 lít/50 chim non. Vị trí đặt máng uống phải bố trí cho chim dễ tiếp cận và không bị máng ăn che khuất. Tuân thủ cho chim uống nước trước, sau 2 – 3 giờ mới cho thức ăn.

    3.7. Thức ăn và kỹ thuật cho ăn
    Cũng như chăn nuôi các loài gia cầm, chăn nuôi chim cũng như vậy. Thức ăn của trĩ là cám tổng hợp (loại không có tăng trọng), ngô xay, thóc, đậu tương, rau xanh, cỏ,... Ngoài 2 tháng có thể cho trĩ tập ăn thóc bằng cách trộn 10 – 20 % vào khẩu phần ăn. Ở giai đoạn 5 – 8 tháng có thể trộn đến 50 % thóc vào khẩu phần ăn.
    Việc chăm sóc, nuôi dưỡng thoả mãn đầy đủ các nhu cầu sinh lý đòi hỏi phát triển cơ thể ở mỗi giai đoạn sẽ khai thác tối đa tiềm năng di truyền của giống, đạt nhanh đến khối lượng giết mổ càng sớm càng tốt.
    Chim Trĩ nuôi lấy thịt được chia ra các giai, đoạn 0 – 4 tuần tuổi; 5 – 9 tuần tuổi và 10 → giết mổ (10 – 16 tuần)
    Nhu cầu dinh dưỡng cho Chim Trĩ thương phẩm nuôi thịt có thể tham khảo qua bảng 2.

    Sau khi chim được uống nước 2 – 3 giờ thì mới cho ăn, thường cho ăn theo bữa. Thức ăn được trải đều vào nhiều khay tuỳ thuộc quy mô đàn để tránh sự tranh giành thức ăn giữa các con trong đàn. Chỉ nên cung cấp lượng thức ăn vừa đủ, một ngày đêm cho ăn 9 – 10 lượt để thức ăn luôn mới thơm, hấp dẫn tính ngon miệng và tránh lãng phí.

    Một số điều cần lưu ý:
    [*] Thức ăn được phối chế cân đối đảm bảo đủ dinh dưỡng cho nhu cầu phát triển của chim trong từng giai đoạn.
    [*] Khẩu phần ăn có thể phối chế đa nguyên liệu, sử dụng thức ăn bổ sung động vật, thực vật, Premix khoáng vi lượng và Vitamin.
    [*] Không sử dụng các nguyên liệu bị mốc, nhiễm độc tố Afratoxin hoặc bột cá mặn (có hàm lượng muối cao).
    [*] Khẩu phần thức ăn được cân đối đủ các chất dinh dưỡng đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn nuôi, thức ăn phối chế đa nguyên liệu, sử dụng đạm nguồn gốc động vật, thực vật, Premix Vitamin, khoáng vi lượng v.v.
    [*] Dùng đậu tương phải rang chín chim mới tiêu hoá được, nếu chín không đều chim ăn vào sẽ bị rối loạn tiêu hoá (đi ỉa).

    3.8 Thời kỳ đẻ trứng và kỹ thuật ấp nở :

    Chim trĩ giống bình quân sau khi nuôi đến 8 tháng tuổi có thể đẻ trứng . Thời gian đẻ thường từ đầu tháng 1 âm lịch đến khoảng tháng 4 âm lịch , Sau đó chim trĩ ngừng đẻ khoảng 1 tháng rồi tiếp tục đẻ lứa thứ 2 đến khoảng tháng 8 âm lịch thì nghỉ .Bình quân mỗi năm 1 chim mái có thể đẻ từ 68 -80 trứng .Với các tỉnh phía bắc nước ta nơi có mùa đông lạnh và kéo dài chim thường đẻ muôn hợn ,thường mùa đẻ chỉ bắt đầu khi vào mùa xuân ấp áp , Các tình khu vực phía Nam nơi có thời tiết nắng ấm mùa đẻ của chim trĩ thường sớm hơn và kéo dài hơn , Ngoài ra số trứng , thời gian đẻ còn phụ thuộc vào kỹ thuật nuôi , chế độ cho ăn , và quản lý vật nuôi . Nếu cho ăn tặng lượng đạm động vật , canxi và sử dụng 1 số tác nhân phụ có thể cho chim trĩ đẻ 2 quả / ngày hoặc đẻ quanh năm theo ý thích của người nuôi . Tuy nhiên phương pháp này chỉ áp dụng cho trường hợp khai thác trứng chim trĩ làm thương phẩm . Việc nhân giống chim không nên áp dụng , sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản của chim bố mẹ cũng như chất lượng con giống sinh ra

    [​IMG]

    Chim trĩ trong tự nhiên không tự ấp trứng , chim thường đẻ nhờ vào tổ chim khác . Vì vậy khi đưa vào nuôi trong môi trường nhân tạo ta phải dùng tác nhân phụ để ấp trứng cho chim .Tỉ lệ nở phụ thuộc vào 2 yếu tố : là chất lưng phôi trứng , và kỹ thuật ấp

    . Thường có 2 cách cơ bản để ấp trứng trĩ

    a) Dùng vật nuôi khác có thân nhiệt và điều kiện ấp nở tương tự ( Thường dùng , gà mái hoa mơ , gà tre ..vv ) . Cách ấp này đơn giản như ấp trứng gia cầm thông thường tuy nhiên cho tỷ lệ thành công thấp và khó áp dụng cho nuôi quy mô lớn

    b) Dùng máy ấp : Sử dụng loại máy ấp trứng gia cầm thông thường để ấp . Thời gian ấp nở khoảng 22 -23 ngày . Hiệu chỉnh nhiệt độ , độ ẩm tùy theo giai đoạn

    :Nhiệt độ ấp trong tuần đầu : 37,5 độ C , Độ ẩm 55 %

    Tuần thứ 2 Nhiệt độ 37,3 độ C , Độ ẩm 60 %

    . Tuần thứ 3 trở đi nhiệt độ 37 độ , Độ ẩm 75 %

    ( Lưu ý sử dụng hoàn toàn nước cất để tạo độ ẩm , không dùng nước bẩn , có chứa tạp chất sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình bay hơi của nước )

    Các tia máu hình thành trong trứng trĩ thường rất mờ và khó phân biệt vì vậy đừng vội bỏ trứng ra khỏi lò xớm , Bản thân bên trong trứng trĩ cũng có chất hóa học bảo quản trứng rất tốt . Thường thì những quả trứng không có sống mà ấp tới 15 ngày vẫn không bị thối như trứng gà trứng vịt , Vẫn có thể ăn bình thường mà không nguy hại cho sức khỏe

    Sau nhiều năm nuôi thực nghiệm đến nay Vườn Chim Việt đã thành công trong phương thức ấp nở đạt tỉ lệ 70 -80 % . Tỉ lệ nuôi sống thành công sau ấp nở đạt 85% .

    Trong thời gian tới Vườn Chim Việt sẽ đầu tư nghiên cứu quy trình thụ tinh nhân tạo cho trĩ đỏ để mang lại hiêụ quả sản xuất con giống tốt hơn đáp ứng cho sức mua của thị trường nội địa

    3.9. Mật độ
    Tuỳ thuộc vào điều kiện chuồng trại, khí hậu mà quyết định mật độ đàn nuôi.
    Nuôi trên lồng:
    1 – 4 tuần tuổi: 30 – 40 con/m2
    Nuôi trên nền sàn: sử dụng chất độn chuồng, có sân chơi:
    5 – 9 tuần : 6 – 15 con/m2
    10 – 16 tuần tuổi : 3 – 5 con/m2

    3.10. Vệ sinh phòng bệnh
    Khả năng chim Trĩ bị nhiễm, mắc các bệnh là rất cao. Với phương châm phòng bệnh là chính, đảm bảo nghiêm ngặt những quy định về vệ sinh phòng bệnh, sử dụng quy trình vệ sinh phòng bệnh tuỳ thuộc vào tình hình dịch tễ của từng địa phương. Phải quan sát theo dõi đàn chim thường xuyên như: Trạng thái ăn, ngủ, thể trạng, âm thanh tiếng thở, chất bài tiết v.v. để bất kỳ một dấu hiệu bất thường nào đều được xử lý kịp thời. Cần thiết phải kiểm tra đàn chim dựa trên các đặc điểm hàng ngày như sau:
    [*] Lắng nghe âm thanh bất thường hoặc thiếu vắng âm thanh hàng ngày
    [*] Trạng thái đàn chim (uể oải hay hung hăng)
    [*] Ngửi để xem có mùi khai hay sự kém thông thoáng.
    Trong chuồng chỉ nuôi chim không nuôi chung với các động vật khác. Định kỳ diệt trừ các loài động vật gặm nhấm, chim hoang và côn trùng có hại khác. 2.10. Chăm sóc nuôi dưỡng
    Chim được cho ăn tự do 24h/24h+ trong 4 tuần đầu, ban ngày dùng ánh sáng tự nhiên, đêm thắp điện sáng để chim ăn đêm. Trong điều kiện thời tiết và nhiệt độ thuận lợi (ấm áp khô ráo) sau 4 tuần tuổi (nếu thời tiết lạnh dưới 200C thì sau 6 - 7 tuần tuổi) có thể cho chim vận động giống như trong tự nhiên để giúp cơ săn chắc nâng cao chất lượng thịt.
    Mức tiêu thụ thức ăn
    Số lượng thức ăn được chim trĩ tiêu thụ sẽ thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố như dạng thức ăn, phương thức cho ăn, thành phần dinh dưỡng và các điều kiện thời tiết. Một con chim trĩ từ 1 ngày tuổi cho tới khi xuất bán tại thời điểm 16 tuần tuổi sẽ ăn khoảng 5 kg thức ăn. Tại độ tuổi này, các con trống khối lượng khoảng 1,3kg và con mái là 1,0kg.

    IV. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP
    Các bệnh thường gặp khi nuôi chim trĩ đỏ :

    - Bệnh tiêu chảy , Ecoli : chủ yếu sảy ra sau quá trình vận chuyển hoặc môi trường nuôi không đảm bảo : Dùng Vaccin đặc trị Ecoli cho gia cầm tiêm hoặc cho uống ( liều lượng bằng 2,5 lần hướng dẫn trên bao bì )

    - Bệnh về đường hô hấp : ( hen phổi , nấm phổi ) : Chim có hiện tượng thở khò khè , chảy nước mũi ,thở ngáp rồi chết. Nguyên nhân do thay đổi thời tiết , hoặc mật đồ nuôi dày , Cách trị : Dùng thuốc đặc trị hen của gà nhỏ trực tiếp với liều dùng bằng 2 lần hướng dẫn sử dụng trên bao bì , Điều chỉnh lại mật độ nuôi , vệ sinh chuồng nuôi bằng thuốc khử trùng ,

    - Bệnh đau mắt ( sưng mặt ) : Biểu hiện : Mắt chim có màng đục nhắm lại , 1 trong hai bên má sưng : Chim bị mù dẫn đến không thể tự ăn , uống được mà chết : Cách trị : Dùng thuốc nhỏ mắt của người nhỏ từ 3 – 5 giọt . Kết hợp với tiêm nếu phát hiện trong mắt có giun , sán.

    Ngoài ra trong quá trình nuôi chim trĩ thường mắc 1 số bệnh khác ít thấy biểu hiện trên gia cầm thông dụng . Để đảm bảo tỉ lệ nuôi thành công thì khâu vệ sinh chuồng trại là 1 yếu tố rất quan trọng , Đồng thời những cá nhân mới gây nuôi nên đến trực tiếp các trang trại , cá nhân có nhiều năm kinh nghiệm nuôi trĩ để tham khảo học tập kinh nghiệm .

    4.1. Bệnh do virút gây ra
    4.1.1. Bệnh Newcastle
    - Đặc điểm chung:
    Do virút gây ra, là bệnh đặc biệt nguy hiểm đối với gia cầm và chim. Lây lan nhanh, mạnh. Gây ốm và chết nhiều ở mọi lứa tuổi. Bệnh xảy ra quanh năm. Không thể chữa bằng thuốc, chỉ có thể phòng bằng vacxin.
    - Đường lây lan:
    Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp và tiêu hoá. Do tiếp xúc giữa nhBng con ốm và con khoẻ. Do bụi, gió và không khí có mầm bệnh. Do phương tiện vận chuyển, thức ăn nước uống nhiễm mầm bệnh. Do dụng cụ chăn nuôi thú y nhiễm mầm bệnh. Do công nhân chăn nuôi, khách thăm quan đến từ vùng có bệnh. Do động vật, chim mang mầm bệnh.
    - Triệu chứng (những biểu hiện bên ngoài):
    Chim ủ rũ mào thâm, ăn ít, chảy nhớt dãi. Diều căng, đầy hơi. Khó thở kèm theo tiếng kêu “tóc – tóc” nhất là ban đêm. Tiêu chảy, phân loãng có màu trắng, xanh, *** cò. Chim ốm chết nhiều. Con sống sót để lại di chứng thần kinh, nghẹo cổ, đi vòng quanh, mổ thức ăn không chính xác. - Bệnh tích (những biểu hiện bên trong):
    Xuất huyết ở lỗ huyệt, thanh khí quản có nhiều dịch nhầy và xuất huyết. Dạ dày tuyến xuất huyết và loét. Thành ruột xuất huyết và loét hình cúc áo. Van hồi manh tràng xuất huyết

    - Biện pháp phòng trị:
    + Phòng bệnh: không nên nuôi chung các lứa tuổi. Đảm bảo chuông nuôi, thức ăn, nước uống sạch sẽ ăn uống đủ chất đủ lượng. Biên pháp hữu hiệu nhất là sử dụng vacxin phòng bệnh theo lịch ở các độ tuổi khác nhau.
    + Điều trị bệnh:
    Khi có bệnh Newcastle xảy ra nên thông báo ngay cho cán bộ thú y cơ sở. Dùng vacxin cho những đàn chưa mắc bệnh, bổ xung thuốc bổ tăng sức đề kháng cho đàn chim. Cách ly đàn chim ốm, đốt xác chim ốm, chết hoặc chôn rồi rắc vôi bột. Không bán chạy chim ốm. Không được đến thăm các nơi nuôi chim khác. Sát trùng chuồng nuôi, sân thả chim, dụng cụ chăn nuôi và khu vức xung quanh hàng ngày. Thu dọn chất thải phân đem đốt hàng ngày. Rắc vôi bột để cách ly chuồng nuôi với khu vực xung quanh và rắc ở lối ra vào chuồng nuôi, Khi đã nổ bệnh có thể đưa vacxin trở lại nhưng tỷ lệ khỏi bệnh không cao.
    Qua nghiên cứu các tài liệu khoa học và thực tế gây nuôi bảo tồn phát triển tại trang trại của Công ty cổ phần thực phẩm tiêu chuẩn GAP thấy rằng chim trĩ rất khó lây nhiễm các bệnh như bệnh Gumboro và bệnh đậu (Trang trại chúng tôi không tiêm phòng các Vacxin Gumboro và đậu gà, và cũng chưa thấy bất kỳ triệu chứng nào của các bệnh này). Trong khi đó bệnh Newcastle thì đặc biệt nguy hiểm đối chim trĩ, cần phải tiêm phòng đầy đủ, đúng liều lượng (2 lần Lasota trong thời gian úm 1 tháng, tiêm Newcastle lần 1 vào tháng thứ 2, lần 2 vào tháng 4, lần 3 vào cuối tháng 7).

    4.1.2. Cúm A/H5N1
    Tiêm chủng theo lịch của thú y địa phương.

    4.2. Bệnh do vi khuẩn gây ra
    4.2.1. Bệnh tụ huyết trùng
    - Đặc điểm của bệnh:
    Do vi khuẩn gây nên. Chim các lứa tuổi đều mắc. Bệnh gây chết nhanh và nhiều trong cùng một thời gian. Bệnh hay tái phát trong cùng một khu vực. Có thể phòng bằng vacxin và điều trị bằng kháng sinh.
    - Đường lây lan:
    Qua đường tiêu hoá, hô hấp, do thức ăn nước uống nhiễm mầm bệnh, do tiếp xúc giữa con ốm với con khoẻ.
    - Triệu chứng (những biểu hiện bên ngoài):
    Tuỳ thuộc vào mức độ gây bệnh mà mầm bệnh có thể phát ra nhanh hay chậm. Trường hợp bệnh cấp tính: Chim chết đột ngột, đang đi lăn đùng ra chết. Chết khi đang nằm trong ổ đẻ. Trường hợp bệnh mãn tính: chim ủ rũ, bỏ ăn đi lại chậm chạp, nước nhầy chảy ra từ miệng, đôi khi lẫn máu, tích tím bầm. Phân lỏng hoặc xanh đôi khi có dính máu. Khó thở, chết do ngạt thở, xác tím bầm, máu đông kém. Nếu bệnh kéo dài, viêm kết mạc mắt, tích sưng, khớp sưng đi lại khó khăn.
    - Bệnh tích (biểu hiện bên trong):
    Tụ huyết ở các cơ quan nội tạng. Gan sưng có nốt hoại tử lấm tấm trắng. Bao tim tích nước, xuất huyết vành tim, có dịch nhầy trong khớp.
    - Biện pháp phòng trị:
    + Phòng bệnh
    Vệ sinh sạch sẽ, giữ chuồng luôn khô ráo, thức ăn nước uống đảm bảo hợp vệ sinh, định kỳ sử dụng kháng sinh trộn thức ăn 3-5 ngày /lần.
    Dùng vácxin phòng bệnh không bảo hộ tốt, vì hiệu giá của vacxin này trong thực tế không cao.
    + Điều trị: Có thể dùng các loại kháng sinh sau:
    - Tetracylin, Streptomycine, Coxsmix forte, Neotezol, Ampicillin, Enrofloxacin. Liều lượng và thời dùng theo hướng dẫn ghi trên nhãn thuốc.

    4.2.2. Bệnh cầu trùng
    - Đặc điểm chung:
    Bệnh do một loại ký sinh trùng đặc biệt gọi là cầu trùng có kích thước rất nhỏ gây nên. Chim mọi lứa tuôỉ đều mắc, nặng nhất là giai đoạn 2 - 8 tuần tuổi. bệnh xảy ra quanh năm nặng nhất vào vụ xuân hè khi thời tiết nóng ẩm. Chim nuôi nhốt chật chội, đệm lót chuồng ẩm ướt là điều kiện thụân lợi để bệnh bùng phát .
    - Đường lây lan :
    Qua thức ăn, nước uống, chất độn chuồng .v.v. Noãn nang cầu trùng có sức đề kháng cao trong môi trường, có thể tồn tại hàng tháng trong điều kiện bình thường, khó bị tiêu diệt bằng các loại thuốc sát trùng, bị tiêu diệt chậm dưới ánh nắng mặt trời, dễ bị tiêu diệt ở nhiệt độ cao 600C.
    - Triệu chứng (biểu hiện bên ngoài):
    Con vật ủ rũ bỏ ăn uống nhiều nước, phân lỏng, máu tươi hoặc có màu sôcôla sẫm. Chim con có thể chết hàng loạt nếu không điều trị kịp thời. Chim trưởng thành chậm lớn, chết rải rác kéo dài.
    - Bệnh tích (biểu hiện bên trong):
    Cầu trùng manh tràng thì manh tràng sưng to chứa đầy máu. Cầu trùng ruột non thì ruột non căng phồng bên trong chứa đầy dịch nhầy lẫn máu.
    - Biện pháp phòng trị:
    + Phòng bệnh: Đảm bảo các biện pháp vệ sinh phòng bệnh. Đặc biệt chú ý giữ cho lớp độn lót chuồng, sân chơi luôn khô ráo. Không nên nuôi chung chim các lứa tuổi, sử dụng NaOH nóng 2% hoặc quét vôi mới tôi để sát trùng nền chuồng trước khi đưa chim vào nuôi. Rắc vôi bột trước cửa chuồng, định kỳ dùng thuốc ức chế cầu trùng để phòng bệnh cho chim có thể sử dụng một số các loại thuốc sau: Octamit, Rigecoxcin. ESB3 .v.v. hoặc có thể dùng Virkon®S phun định kỳ 1 lần/tuần. Khi thời tiết ẩm ướt hoặc vào thời điểm có dịch bệnh gia cầm thì tăng cường 2 lần/tuần.
    + Điều trị: Dùng các loại thuốc như trên với liều điều trị theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Sử dụng kết hợp vitamin C, K và chất điện giải. Nhốt riêng những con bị bệnh nặng cho uống thuốc trực tiếp vào miệng sẽ nhanh khỏi. Thay độn chuồng mới, rắc vôi vào chỗ ẩm ướt.

    4.3. Quy trình sử dụng thuốc và Vacxin phòng bệnh cho chim trĩ đỏ nuôi tại trang trại của Cty CP thực phẩm tiêu chuẩn GAP Trước khi bắt chim về 01 ngày, dùng Longlife hoặc Farm Fluid, Chloramin B, HanIodin,… phun sát trùng xung quanh chuồng, toàn bộ không khí và bề mặt trong chuồng: 100 ml/25 lít/82 m2 hoặc phun Virkon®S, pha theo hướng dẫn.

    Chú ý:
    - Kháng sinh phổ rộng có thể dùng một số loại sau (dùng luân phiên để tránh nhờn thuốc): Genta Costrim, Vinacoc ACB (trị cầu trùng), CRD Stop, Ampicoli.
    - Định kỳ mỗi tuần 1 lần sát trùng chuồng bằng Virkon S (10g/4 lít nước/14m2)
    - Tiêm chủng cúm A/H5N1 theo lịch của thú y địa phương.
    - Có thể cho trĩ uống nước tỏi 1 lần/tuần: Đập dập 2-3 củ tỏi sống, để trong không khí 15-20 phút sau đem hoà với 10-15/lít nước đem cho chim uống, bã tỏi rải quanh chuồng cho chim ngửi mùi. Các chất kháng sinh thực vật có trong tỏi tiêu diệt mạnh virus cúm gia cầm.
    - Cho chim uống B-complex 2 lần/tuần.
    - Cho chim uống Vitammin C 2 lần/tuần.
    - Vào những ngày không ghi trong lịch trình, dùng A-T 112 hoạc Multisol G nhằm tăng sức đề kháng và giúp chim khỏe mạnh.
    - Vào những ngày nắng nóng, cho uống A-T 111 (1 g/ 4 lít nước) và A-T 110 (1g/4 lít nước). Chú ý cho uống vào buối sáng.
    - Có thể dùng Vitamin C thay thế A-T111.
  5. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967


    NUÔI KỲ TÔM
  6. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967



    @ptkh ăn sáng chưa em ?

    Chúc em ngon miệng nhé ! :)):)):)):)):))
  7. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967


    COOKING WORMS IN HANOI VIETNAM RECIPE

    Món giun nấu ở Hà Nội - Việt Nam !

    @ptkh ới ời ! \m/\m/\m/

    Khi nào về Hà Nội bảo @hoatimbanglang đưa đi ăn giun đặc sản nhé !


    [:p][:p][:p][:p][:p][:p][:p][:p][:p][:p][:p]
  8. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967

    'Vua yến' Việt Nam với nhà chim lớn nhất thế giới và giấc mơ toàn cầu




    'Người nào tới WalMart mua sâm cũng nghĩ ngay đến sâm Hàn Quốc! Câu chuyện yến của Việt Nam cũng phải đi theo con đường đó'. Dù đã thành công nhưng vẫn tự phải "lột xác" và thay đổi nhiều hơn nữa.
    [​IMG] Ông Võ Thái Lâm, Tổng giám đốc Công ty Yến Việt
    Dù đã thành công với các sản phẩm yến trên thị trường, nhưng ông Võ Thái Lâm, Tổng giám đốc Công ty Yến Việt vẫn thấy tự phải "lột xác" và thay đổi nhiều hơn nữa. Năm 2011 đã đánh dấu bước ngoặt Yến Việt bắt tay cùng VinaCapital thiết kế lại mô hình doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu nâng tầm giá trị của yến.

    - Sau khi VinaCapital đầu tư vào Yến Việt, công ty có sự thay đổi ra sao, thưa ông?
    Mới sáu tháng, nhưng diện mạo công ty đã đổi mới hoàn toàn nhờ bộ máy vận hành năng động hơn trước nhiều. Khác biệt lớn nhất là phải minh bạch từ chi tiêu, doanh thu cho đến sổ sách hóa đơn. Vấn đề này đã trở thành văn hóa của công ty, từ chính sách chung đến đãi ngộ, tất cả hoạt động bằng quy chế rõ ràng chứ không phải lèo lái doanh nghiệp một cách "tùy hứng". Việc quan trọng nhất là tái cấu trúc lại hệ thống để thay đổi diện mạo công ty theo kịch bản sản xuất kinh doanh đề ra với mức tăng trưởng cao hơn nhiều.
    Ra biển lớn thì phải đóng thuyền lớn để tránh gió bão. Đầu tiên là thống nhất các ngành hàng, làm mới hệ thống marketing và phân phối, chiến lược cụ thể về sản phẩm để theo đuổi mục tiêu xây dựng Yến Việt thành công ty dẫn đầu ngành hàng và có sức lan tỏa ở một số nước trong khu vực. Mục tiêu doanh thu đến năm 2015 đạt trên 1.000 tỉ đồng và các chiến lược đề ra là để đáp ứng được mục tiêu này.
    - Ông có thấy áp lực khi phải thay đổi mô hình doanh nghiệp gia đình?
    Áp lực với tôi là phải thay đổi tư duy từ một công ty gia đình vốn vận hành theo cách chí thú làm ăn rồi từ từ đi lên vững chắc, đồng lời luôn nhiều hơn đồng chi tiêu. Bây giờ thì thay đổi hoàn toàn nhưng lại tốt hơn. Chỉ sau một thời gian ngắn, việc phát triển doanh số từ 10 đồng tăng lên 20 đồng là thấy rõ nhờ vào mạng lưới đại lý mở rộng.
    Hiện nay việc hoạch định tài chính, lương bổng đã được hệ thống hóa và được theo dõi chặt chẽ hơn. Ngày xưa lương nhân công 7 - 8 triệu đồng đã là cao, còn giờ 1.000 đô la Mỹ là chuyện bình thường. Tôi trăn trở lý do gì họ làm việc cho Yến Việt? Làm sao để họ cùng có khát vọng và xác định đây là cuộc chơi lâu dài? Tôi cũng cố gắng thích ứng với mô hình quản lý mới, không để lệch pha giữa nhóm này nhóm kia mà phải có sự tương tác là điều cần thiết. Có một hệ thống tốt mới xây dựng được nền tảng văn hóa doanh nghiệp và ứng xử linh hoạt về thị trường, kiến trúc bên dưới tốt thì hệ thống kinh doanh mới bền vững.
    - Vậy hệ thống phân phối và sản xuất của Yến Việt hiện nay được cấu trúc lại ra sao?
    Hiện nay chúng tôi vận hành song song hai hệ thống phân phối. Hệ thống cửa hàng đại lý trước đây được duy trì và phát triển với mục tiêu có mặt trên cả nước, sau vài tháng đã phát triển từ 30 lên đến 60 đại lý. Riêng mặt hàng nước yến được xây dựng theo kênh hàng tiêu dùng với 20 nhà phân phối qua kênh 70 đại lý.
    Từ giữa năm 2011, chúng tôi đã triển khai hệ thống cửa hàng cung cấp sản phẩm ăn nhanh từ tổ yến như: cháo, súp, chè… Nhà máy Yến Việt vận hành từ năm 2009 với công suất thiết kế 7 triệu lọ nước yến/năm, dự kiến đến năm 2017 mới chạy hết công suất thì thực tế vượt xa dự tính. Năm 2011, chúng tôi đã đầu tư thêm 60 tỉ đồng để nâng công suất chế biến lên 10 triệu lọ và dự kiến đến năm 2015 đạt 28 triệu lọ.
    - Ông nghĩ gì về tiềm năng của ngành Yến Việt Nam, đầu tư như vậy liệu có mạo hiểm?
    Người nào tới WalMart mua sâm cũng nghĩ ngay đến sâm Hàn Quốc! Câu chuyện yến của Việt Nam cũng phải đi theo con đường đó​
    Yến là một ngành tiềm năng và có nhiều lợi thế. Việt Nam không mấy lợi thế với các ngành công nghiệp thì việc chọn đầu tư vào ngành nông nghiệp theo tôi là đúng đắn. Giá tổ yến do Việt Nam sản xuất có mức giá cao nhất nhờ khí hậu và môi trường thiên nhiên tốt nhất cho tổ yến. Cả thế giới thừa nhận yến Việt Nam là số 1, nhưng thực tế là doanh nghiệp mình làm chưa bài bản.



    Tại sao khi đến Bắc Kinh thì tìm món vịt quay, Nhật có bò Kobe, trong khi đến Việt Nam tìm cái nổi trội nhất lại khó khăn. Theo tôi do mình chưa đầu tư đúng mức để giải quyết câu chuyện đặc sản của Việt Nam. Tiềm năng của yến không chỉ là thực phẩm mà còn mỹ phẩm, dược phẩm, thế giới lại chưa khai thác nhiều. Như sâm là thương hiệu quốc gia của Hàn Quốc với doanh thu hàng chục tỉ đô mỗi năm, từ cây sâm trồng đại trà cho ra rượu sâm, thuốc sâm, nước sâm, rễ sâm… Tôi thấy người nào vào WalMart mua sâm cũng nghĩ ngay đến sâm Hàn Quốc, câu chuyện yến của Việt Nam phải đi theo con đường đó.


    Tôi kỳ vọng sản phẩm yến của mình sẽ có mặt trên hệ thống WalMart, tại sao mình không làm được trong khi yến có giá trị cao? Con đường làm thương hiệu có thể chông gai và cần nguồn lực, cả tầm nhìn ở mức quốc gia. Vì thế cứ đặt mục tiêu ngắn thì 5 năm, dài 10 năm để có một thương hiệu mạnh. Tôi không chỉ ấp ủ cho doanh nghiệp mình mà cho ngành Yến Việt Nam.- Yến Việt đang sở hữu một "nhà chim" lớn nhất thế giới, chắc hẳn ông tự hào lắm?
    Nhà chim đó của chúng tôi ở Phan Rang có trên 100.000 con, cho sản lượng gần 1 tấn yến hàng năm. Nhưng quan trọng tôi xem nó như một kỳ quan thiên nhiên, có giá trị tinh thần lớn lắm. Người ta có thể bỏ triệu đô ra mua chiếc xe xịn, nhưng nhà chim như thế này có tiền nhiều cũng không sở hữu được. Nhà chim này đã bảy năm rồi, môi trường ngày càng khắc nghiệt thì các đàn yến lại di cư và nhà chim tại Phan Rang lại có cơ hội đón.
    - Ông có thể chia sẻ bí quyết "làm bạn với yến" của mình?
    Tại sao vợ chồng ly dị: bởi không hiểu nhau. Cũng vậy, muốn nuôi được yến thì mình phải hiểu nó. Nuôi yến phải có tính toán khoa học chứ không phải cứ xây nhà lên là chim đến. Từ cơ chế làm tổ, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, cái gì hấp dẫn để chim đến... Tại sao có 5, 7 nhà chim trong vùng, nhưng chim chỉ quy tụ về một điểm? Đây là ngành chuyên môn, không nên nghĩ đơn giản mà nuôi chỉ theo phong trào, nếu không có chuyên gia tư vấn hỗ trợ thì rất dễ thất bại.
    Cũng cần nói thêm là người ta biết nhiều về yến miền Trung bởi nghề yến bắt đầu từ đây với các vùng đảo ven biển, nhưng thực tế càng về phía Nam ngành yến càng có cơ hội phát triển nhờ hệ thống thực phẩm lớn với đồng lúa cây trái và thời tiết ôn hòa. Chim sẽ tập trung những vùng thuận lợi, hiện nay chủ yếu như: Cần Giờ, Bạc Liêu, Cà Mau về phía miền Đông càng thuận lợi hơn như: Bình Phước, Bình Dương… chứ không chỉ ở gần biển.
    - Ông đã thăng trầm với con yến ra sao để công ty có thể phát triển được như hiện nay?
    Bảy năm xây dựng công ty có nhiều thăng trầm và nhiều yếu tố tác động, nhưng động lực lớn với tôi là làm sao để người ta biết đúng giá trị của con yến. Nhớ lần đầu mới làm được yến, tôi mang vào Sài Gòn bán với suy nghĩ mình làm được con yến là mình ngon lắm, nhưng khi mang đến nhà yến lớn nhất Sài Gòn lúc đó, 1kg yến Phan Rang có giá thị trường khoảng 2.500 - 3.000 đô la Mỹ, nhưng tôi bán được chưa tới 1.000 đô la, trong khi họ bán ngay trước mắt mình đã 3.000 đô la. Tôi tưởng bị hố, nhưng đi mười tiệm cũng chỉ nhận được giá đó. Thậm chí khi tôi mang yến đến một tiệm thuốc bắc, ông chủ cũng không tin mình có thể nuôi yến và cho rằng, đó là hàng ăn cắp. Tôi thất vọng vì sản phẩm mình làm ra mà giá trị người ta hưởng, mình chịu nhiều rủi ro, nhưng lợi nhuận thấp. Nhưng điều đó cũng cho tôi bài học rằng, việc bán yến không dễ nếu không làm thương hiệu.
    Những năm qua theo đuổi điều này thật sự không dễ dàng, nhưng đến giờ tôi có thể tự hào, nhiều nhà bán yến trước đây đã trở thành đại lý của mình, từ chỗ bị động đến chủ động thị trường là thành quả lớn nhất mình đạt được.
    - Yến là một thực phẩm xa xỉ, nhưng nhiều người tiêu dùng cũng chỉ biết lơ mơ về yến và tác dụng của yến nên thị trường này không đơn giản, ông nghĩ sao?
    Người ta nói có cầu ắt có cung, nhưng kinh doanh hiện đại thì tạo cung để kéo cầu về phía mình​
    Thực tế chất lượng không kiểm soát được, việc hưởng thụ kiểu cộng hưởng xã hội, nhiều khi ăn đồ dỏm tưởng đồ thiệt là vấn đề trong môi trường kinh doanh hiện nay. Theo tôi cần có hiệp hội ngành Yến để xây dựng tiêu chuẩn sản phẩm, khuyến cáo cho người tiêu dùng nhận biết được sản phẩm.



    Về nguyên tắc thị trường, chỗ nào trũng, hàng hóa sẽ tới, việc mua đi bán lại nhan nhản thương hiệu yến đang làm cho người tiêu dùng ngộ nhận. Những người buộc phải ăn như: bệnh ngặt nghèo, trẻ ốm yếu rồi hiếu hỉ trao tặng, đủ thứ nhu cầu khiến yến trở thành một sản phẩm ngày càng phổ biến.- Ông có kế hoạch gì cho năm mới?
    Trong năm vừa qua thị phần và doanh thu của Yến Việt liên tục tăng trưởng mỗi tháng. Ngoài việc mở rộng hệ thống, chúng tôi cũng đẩy mạnh các hoạt động truyền thông để người tiêu dùng hiểu được các ích lợi của yến và các sản phẩm từ yến. Việc phát triển ra các thị trường: Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore và các thị trường xuất khẩu trên toàn thế giới cũng là mục tiêu. Sự cạnh tranh hiện nay là phải tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm, phải có những nghiên cứu sâu về tổ yến và đa dạng hóa sản phẩm. Nếu mình chia nhỏ sản phẩm ra được thì cơ hội đến với người dùng nhanh hơn, rộng hơn.
    Chúng tôi đang thiết kế sản phẩm cho các phân khúc thị trường để có cơ hội dẫn đầu. Người ta nói có cầu ắt có cung, nhưng kinh doanh hiện đại thì tạo cung để kéo cầu về phía mình. Yến là sản phẩm đặc thù, tôi nghĩ, xây dựng được hệ thống tư vấn cho người mua thì cơ hội họ đến với mình sẽ lớn hơn. Lượng khách hàng của mình nhiều hay ít phụ thuộc vào hệ thống này.
    - Xin chúc ông thành công!
    Theo Hoàng Vỹ
    Ảnh: Thanh Tùng
    Diễn đàn doanh nghiệp
  9. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967
    Gửi @hoatimbanglang , @ptkh và cả nhà để biết thêm về giá trị tuyệt vời của giun quế !
    http://traigiunquepht.com/home/detai...annel=Products

    Giun Quế - Nguồn thực phẩm bổ dưỡng cho con người và sản xuất mỹ phẩm !


    Giun có hàm lượng Protein cao, giàu nguyên tố vi lượng tương tự thịt thỏ - là loại thịt giàu đạm, ít chất béo. Trong giun có tới 8 loại Axit Amin cần thiết cho con người. Hàm lượng Vitamin B1, B2 trong giun gấp 10 lần khô đậu tương, gấp trên 14 lần bột cá, cùng sự phong phú về Vitamin A, E, C và các vi lượng khoáng chất có lợi cho sức khỏe dinh dưỡng của con người. Vì vậy nhiều nước đã sử dụng giun để chế biến thành thực phẩm cho con người.


    [​IMG]




    Ở Nhật, có tới 200 loại thực phẩm được chế biến từ giun, bột giun được đưa cả vào bánh bích qui. Ở Italia giun được dùng chế biến patê. Ở Đài Loan có hơn 200 món ăn làm từ giun. Ở Australia người ta ăn giun với món ốp lếp. Nhiều nước khác cũng có nhiều cách chế biến giun thành các loại món ăn quý phái. Hiện nay, đã có đồ hộp thực phẩm làm bằng giun và bánh bích qui bán ra thị trường. Nhiều nhà dinh dưỡng học trên thế giới dự đoán: Giun - loại động vật dinh dưỡng, dễ nuôi, trong tương lai sẽ trở thành nguồn quan trọng về thực phẩm động vật bình dân, phổ biến và quý giá của loài người.

    Giun cũng cung cấp nguyên vật liệu thô tốt nhất cho công nghiệp. Một số Enzim và hoạt chất được chiết xuất từ giun để làm thuốc, thức ăn, mỹ phẩm. Chất men Selenium (Se) dưới dạng Protein ở trong giun, có tác dụng làm chậm quá trình lão hóa tế bào, bảo vệ tế bào trước các độc tố nguy hại, giúp cân bằng các kích tố nội tiết liên quan tới quá trình sinh sản và bài tiết tế bào, sản xuất ra chất Protaglandin Có tác dụng dưỡng da, dưỡng tóc, làm trẻ hóa cơ thể. Vì vậy giun hiện đang được quan tâm nghiên cứu sử dụng trong sản xuất mỹ phẩm.

    Nuốt sống giun là bài thuốc cổ truyền chống sốt rét mà hầu hết những ai đã ở rừng hoặc đi bộ đội thời chiến đều biết .
    Các cô gái muốn giữ mãi làn da tươi trẻ , chống nếp nhăn đến sớm nên ăn mỗi ngày một chú giun quế hoặc giun đất cũng được , nhưng coi chừng nhầm giun lãi !

    :-":-":-"

  10. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967
    http://traigiunquepht.com/home/detail.asp?iData=980&iCat=609&iChannel=56&nChannel=Products

    TRIỂN VỌNG VỮNG CHẮC CỦA NGHỀ NUÔI VÀ CHẾ BIẾN GIUN


    Ở Việt Nam, việc nuôi và sử dụng giun có từ những năm 80. Một số cơ quan đã tiến hành nghiên cứu và triển khai việc nuôi giun đất để tạo nguồn đạm động vật cho chăn nuôi gia súc, gia cầm như: Gà, vịt, lợn, tôm, ba ba, cá, lươn, ếch...
    [​IMG]


    Ngoài ra, nuôi giun còn để tạo ra nguồn phân hữu cơ sạch cho cây trồng và góp phần làm sạch môi trường. Một số nhà khoa học trong nước đã nghiên cứu về giun từ trên 30 năm nay, thậm chí đã có những người trở thành tiến sĩ về giun. Nhưng chỉ thực sự từ 1990, sau khi Bộ Thủy sản công bố qui trình nuôi một số thủy, hải sản, thì việc nuôi giun phục vụ cho chăn nuôi rất có hiệu quả, trở thành phong trào ở nhiều nơi. Nuôi giun Quế tuy là một nghề mới phát triển nhưng rất hữu ích và phù hợp với điều kiện của mọi gia đình. Việc ứng dụng thành công mô hình nuôi giun sẽ giúp người nông dân có thêm biện pháp tạo nguồn thức ăn mới giàu dinh dưỡng phục vụ chăn nuôi; tiết kiệm được chi phí, tăng hiệu quả kinh tế, bảo đảm an toàn cho người dùng sản phẩm chăn nuôi.
    Nuôi giun hàng hóa có thể trở thành một nghề rất có triển vọng trong nông thôn. Trước hết là nông dân nuôi giun để sử dụng làm thức ăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản đạt hiệu quả kinh tế cao và cũng có thể sử dụng giun để tự chế biến thành các món ăn giàu đạm ngay tại gia đình, góp phần chống suy dinh dưỡng. Giun và phân giun có thể cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu để sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế biến thực phẩm, sản xuất dược phẩm, mĩ phẩm, làm phân bón v.v… với nhu cầu lớn và ổn định. Vì vậy, đầu ra của con giun vô cùng rộng lớn.

    Nghề nuôi giun sẽ là một nghề góp phần thiết thực để xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, kể cả ở vùng sâu vùng xa. Không những thế còn có thể làm giàu. Thực tế trong vài năm gần đây, có một số người nuôi giun ở TP HCM và các tỉnh thành phố khác đã trở thành tỉ phú. Rất tiếc, nhiều bà con nông dân chưa được biết hoặc chưa thấy rõ cơ hội làm giàu này, nên việc nuôi giun chưa thành phong trào phổ biến ! Khi phong trào nuôi và sử dụng giun cùng với các loại hình sn xuất nông nghiệp sinh thái hữu cơ bền vững, khép kín, với qui mô công nghiệp tr thành phổ biến - thì nông nghiệp, nông thôn Việt Nam chắc chắn sẽ có sự phát triển đột biến; Nông dân sẽ không còn nghèo khó như bao đời nay !

    Nhận thức được giá trị to lớn của giun Quế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đài Truyền hình VN cùng Trung tâm khuyến nông Quốc gia và các trung tâm khuyến nông ở các tỉnh thành đang đẩy mạnh việc vận động nuôi giun Quế. Nguyên Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn, giáo sư Nguyễn Lân Hùng cũng là những người đang tích cực vận động cho phong trào này, nhất là áp dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và y tế.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này