LCM tích lũy đủ rồi bao giờ mới chạy $$$

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi xgame09, 16/04/2012.

2797 người đang online, trong đó có 208 thành viên. 06:24 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 2 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 2)
Chủ đề này đã có 6762 lượt đọc và 169 bài trả lời
  1. xgameno1

    xgameno1 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    14/11/2009
    Đã được thích:
    8.043
    Trong báo cáo mới nhất “World Wealth Report” được Công ty tư vấn Cap Gemini và Công ty Merrill Lynch Wealth Management công bố, các đại gia, tỷ phú hiện nay khá bảo thủ trong xu hướng đầu tư. Phần lớn ưa thích đổ tiền vào những kênh ít rủi ro.
    Báo cáo này cho biết, dân nhà giàu chỉ đầu tư 5% số tài sản vào kinh doanh vàng và Quỹ phòng ngừa rủi ro (Hedge fund). Tỷ lệ này đã giảm 10% so với năm 2006 và 6% so với năm 2009.
    Công ty International Value Advisers khăng khăng bảo vệ quan điểm: dù ở bất cứ thời điểm nào, mỗi người nên đầu tư 5% vào vàng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, kể cả những người sở hữu số tài sản kếch xù vẫn không tỏ ra quá hứng thú với kênh đầu tư này.
    Tỷ lệ người giàu đầu tư cho Quỹ phòng ngừa rủi ro (Hedge fund) cũng ngày càng giảm sút. Hiện, những dư chấn sót lại sau cú lừa ngoạn mục của Bernie Madoff khiến uy tín của Quỹ này bị giảm sút mạnh. Chuyên gia kinh tế John Theale, công ty Merrill Lynch cho biết, giới nhà giàu thường lắc đầu từ chối trước những sản phẩm đầu tư không đủ sức lưu động khi cần thiết.
    Ngược lại, quan niệm đầu tư của giới nhà giàu lại bảo thủ tới mức đáng ngạc nhiên: 43% ưa thích những lĩnh vực ít mạo hiểm, trong đó 29% đầu tư cho trái phiếu, 14% cho tiền mặt; 33% đầu tư vào thị trường cổ phiếu, tăng khá nhiều so với năm 2008 (mức 25%) và 15 % cho bất động sản.
    Trong đó, giới nhà giàu Nhật Bản được xem là bảo thủ bậc nhất với 55% tài sản đầu tư cho trái phiếu và trữ tiền mặt.
  2. haupro82

    haupro82 Thành viên gắn bó với f319.com Not Official

    Tham gia ngày:
    05/03/2011
    Đã được thích:
    383
  3. xgameno1

    xgameno1 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    14/11/2009
    Đã được thích:
    8.043
    Mỏ quặng chì kẽm tại Suối Thầu, Lào Cai
    Thứ ba, 16 Tháng 3 2010 00:00


    Giấy phép khai thác số 3206/QĐ-UBND ngày 07 tháng 11 năm 2006, thời gian cho phép khai thác 10 năm

    + Diện tích khu vực khai thác: 13,2 ha
    + Công suất khai thác dự tính: 80.000 tấn/ năm
    + Thời hạn khai thác: 10 năm tính từ ngày 07 tháng 11 năm 2006, khi hết hiệu lực giấy phép sẽ tiếp tục xin gia hạn


    Tiềm năng khoáng sản chì kẽm mỏ Suối thầu: Quặng chì kẽm phân bố trong các đá lục nguyên Cacbonat thuộc hệ tầng Chang pung tuổi Cambri.Kết quả công tác tìm kiếm của Liên đoàn địa chất Intergeo đã phát hiện được 6 thân quặng, mỗi thân dày trung bình: 0.5 – 1.5 m, có chiều dài: 50 – 240 m. Hàm lượng Pb: 1.5 – 10.6%, Zn: 4,6 -31%. Tài nguyên dự báo toàn mỏ Suối Thầu có khoảng 1.355.000 tấn quặng nguyên khai
    Trung bình quặng nguyên khai khai thác được có hàm lượng: 10-15%

    Công ty đang tiến hành thăm dò ở 4 thân quặng và chuẩn bị đi vào khai thác thân quặng số 3 với dự tính trữ lượng khoảng 300.000 nghìn tấn quặng nguyên khai,đủ phục vụ cho nhà máy chì kẽm 300 tấn/ngày của công ty.Các thân quặng còn lại có triển vọng tương tự thân quặng số 3
  4. xgameno1

    xgameno1 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    14/11/2009
    Đã được thích:
    8.043
    Mấy hôm nữa lại vào mảng đất hiếm thì bỏ mia [r24)][r24)][r24)]
  5. xgameno1

    xgameno1 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    14/11/2009
    Đã được thích:
    8.043
    Tìm thấy đất hiếm ở Bến Đền – Lào Cai
    Thứ năm, ngày 17 tháng 11 năm 2011 cập nhật lúc 08:27

    Ngày 16/11, Thứ trưởng Bộ TN&MT Nguyễn Linh Ngọc đã làm việc với đại diện Tổng Công ty Dầu, Kim khí và Kim loại quốc gia Nhật Bản (JOGMEC) về Kết quả điều tra đánh giá tiềm năng đất hiếm khu vực Bến Đền, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

    Theo báo cáo của đại diện JOGMEC, mỏ đất hiếm (REE) ở Bến Đền thuộc loại mỏ tàn dư, nằm trong vỏ phong hóa của đá granit biến chất. Công tác điều tra đã thực hiện từ năm 2007, với việc đào 29 hào, khảo sát 17 vết lộ và khoan 108 lỗ khoan với tổng chiều dài 1750,5m, tiến hành trên 4 thân đá granit biến chất. Kết quả nghiên cứu cho thấy, “tài nguyên cấp suy đoán – 334a” là 22 triệu tấn với hàm lượng 0,111% TR2O3, , đạt trữ lượng khoảng 24.497 tấn. “Tài nguyên cấp dự tính – 333” là 23 triệu tấn với hàm lượng 0,094% TR2O3, , đạt trữ lượng khoảng 21.588 tấn. So với hàm các mỏ khác tại Việt Nam như Đông Pao, Yên Phú, Nậm Xe thì hàm lượng và trữ lượng đất hiếm ở Bến Đền là thấp. Hơn nữa, thành phần đất hiếm loại nặng chiếm tỷ lệ không cao.
    Đại diện JOGMEC cho rằng, trường hợp Bến Đền ở Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với mỏ Longnan – Trung Quốc, đặc biệt là đất dễ hòa tan trong môi trường axit loãng, do vậy có thể khai thác tại chỗ.
    Tuy nhiên, các chuyên gia địa chất và khoáng sản tại các đơn vị trực thuộc Bộ TN&MT nhấn mạnh, việc phân tích, so sánh hai mỏ còn nhiều điểm chưa thích đáng. Hòa tan đất hiếm tại chỗ có thể gây ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. Đó là chưa kể đến việc chưa định hình rõ lợi ích kinh tế khi hàm lượng, trữ lượng đất hiếm ở Bến Đền thấp.
    Thứ trưởng Nguyễn Linh Ngọc đề nghị phía Công ty Nhật Bản cần bổ sung tài liệu về dạng tồn tại đất hiếm có trong vỏ phong hóa tại Bến Đền, xác định lại tỷ lệ và khả năng hòa tan của đất hiếm. Mặt khác, JOGMEC cần sơ bộ định hướng khôi phục môi trường ở Bến Đền nếu được phép thăm dò.
  6. xgameno1

    xgameno1 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    14/11/2009
    Đã được thích:
    8.043
    Trước việc độc quyền trong lĩnh vực đất hiếm của Trung Quốc, cả Mỹ, châu Âu và Nhật Bản đều đang tìm cách đa dạng hóa nguôn cung nhằm hóa giải thế độc quyền của Bắc Kinh.

    Theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ, những mỏ mới ở Australia đang ngày càng được cho là đóng vai trò mang tính quyết định trong việc phá vỡ thế độc quyền của Trung Quốc trong lĩnh vực đất hiếm, việc nối lại hoạt động khai thác ở một mỏ lớn tại Mỹ và khả năng phát triển ngành khai thác đất hiếm ở Mỹ và Canađa có thể giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng.

    Nhật Bản, quốc gia nhập tới 97% lượng đất hiếm của Trung Quốc cũng đang nỗ lực tìm các nguồn cung khác, trong đó có Việt Nam. Hồi đầu năm nay, có tin tập đoàn Shin-Etsu của Nhật Bản sẽ đầu tư khoảng 26 triệu USD để xây nhà máy tinh luyện đất hiếm cũng như cơ sở chế biến nguyên liệu cho bản phát quang điện tử tại Việt nam.

    Việt Nam hiện là nước có tiềm năng về đất hiếm, dự báo đạt trên 17 triệu tấn và trữ lượng gần 1 triệu tấn, được xếp vào loại hàng đầu thế giới. Kết quả khảo sát cho thấy, tại Việt Nam, đất hiếm có nhiều tại Bắc Nậm Xe, Nam Nậm Xe, Đông Pao (Lai Châu), Mường Hum (Lào Cai), Yên Phú (Yên Bái)... Tuy nhiên, trữ lượng lớn và tiềm năng để khai thác lại là hai vấn đề khác nhau.

    Trong đất hiếm chứa nhiều nguyên tố độc hại, có tính phóng xạ, nếu khai thác không đúng quy trình kỹ thuật có thể gây ô nhiễm môi trường. Việc khai thác có nhiều yếu tố rủi ro cao và khả năng gây tổn hại môi trường (quặng đất hiếm thường xuất hiện gần trầm tích các chất phóng xạ chẳng hạn thorium hoặc uranium).

    Bản thân Mỹ những năm 1980 cũng đã từng sản xuất đất hiếm nhưng sau đó ngừng lại vì lo sợ ảnh hưởng đến môi trường. Do vậy, phương Tây lâu nay "nhường sân" khai thác đất hiếm cho Trung Quốc không hẳn chỉ bởi quốc gia này có nguồn cung dồi dào, mà còn bởi phí nhân công thấp và luật môi trường thuộc hàng lỏng lẻo nhất thế giới.

    Vì vậy, việc tổ chức khai thác đất hiếm tại Việt Nam là một vấn đề cần phải xem xét kỹ càng và không nên quá kỳ vọng vào loại tài nguyên đòi hỏi trình độ khai thác ở mức cao này. Bên cạnh vấn đề về môi trường, nếu trình độ kỹ thuật của nước ta chỉ chỉ dừng lại ở việc khai thác bán nguyên liệu thô chưa qua chế biến thì giá trị thu về cũng rất rẻ mạt.

    Theo bạn, Việt Nam có nên đầu tư khai thác đất hiếm? Nếu phát triển khai thác và kinh doanh đất hiếm, cần lưu ý những đặc điểm gì cho phù hợp thực trạng của Việt Nam? Mời độc giả chia sẻ thông tin về Diễn đàn Kinh tế Việt Nam - báo VietNamNet qua phần Thảo luận phía dưới hoặc gửi thư về địa chỉ vef@vietnamnet.vn. Xin chân thành cảm ơn.
  7. xgameno1

    xgameno1 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa Not Official

    Tham gia ngày:
    14/11/2009
    Đã được thích:
    8.043
    Việt Nam giàu khoáng sản nào nhất?
    Thứ bảy - 10/03/2012 10:58
    Việt Nam có 3 loại khoáng sản có trữ lượng lớn là bauxit, đất hiếm và ilmenit (quặng titan) có trữ lượng lớn, nhưng trên thế giới cũng có nhiều loại này và phải hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm nữa vẫn chưa khai thác hết.
    Trong các ngày từ 7 – 9/3 tại Trung tâm Triển lãm giảng Võ (Hà Nội) đã diễn ra triển lãm quốc tế về khai thác khoáng sản và khôi phục tài nguyên môi trường lần đầu tiên đã được tổ chức tại Việt Nam. Bên cạnh đó, hội thảo “Địa chất, Khoáng sản và ứng dụng các công cụ quản lý trong doanh nghiệp khoáng sản” cũng lần đầu tiên công bố rộng rãi tiềm năng khoáng sản Việt Nam.
    Việt Nam có, thế giới cũng nhiều
    Việt Nam là nước có diện tích không lớn nhưng có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và phong phú với gần 40 chủng loại từ khoáng sản năng lượng (dầu khí, than, urani, địa nhiệt), khoáng sản không kim loại, vật liệu xây dựng đến khoáng sản kim loại. Tuy nhiên đất nước ta không phải là nước giàu về tài nguyên khoáng sản vì hầu hết các khoáng sản ở Việt Nam có trữ lượng không lớn, lại phân bố tản mạn không tập trung.
    Việt Nam có 3 loại khoáng sản có trữ lượng lớn là bauxit, đất hiếm và ilmenit (quặng titan) có trữ lượng lớn, nhưng trên thế giới cũng có nhiều loại này và phải hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm nữa vẫn chưa khai thác hết.

    Một mẩu quặng đất hiếm.
    Bauxit thế giới có dự trữ 55 tỉ tấn, Việt Nam có hơn 5 tỉ tấn. Mỗi năm chỉ cần 200 triệu tấn, như vậy 275 năm nữa mới khai thác hết. Đất hiếm thế giới có 150 triệu tấn (Việt Nam hơn 10 triệu ), mỗi năm chỉ cần 135.000 tấn, như vậy phải hơn 1.000 năm nữa mới hết.
    Quặng titan thế giới có khoảng 2 tỉ tấn (Việt Nam dự báo có khoảng 600 triệu tấn), hàng năm thế giới chỉ cần hơn 6 triệu tấn, như vậy cũng phải hàng trăm năm nữa mới hết. Việt Nam không giàu về tài nguyên khoáng sản, những thứ khoáng sản thiết yếu mà thế giới cần như dầu khí, vàng, kim cương… thì Việt Nam có rất ít.
    PGS.TS Nguyễn Khắc Vinh – Chủ tịch Tổng hội Địa chất Việt Nam cho biết: “Tổng kết 13 năm thực hiện luật Khoáng sản (1996-2009) và trên thực tế đã thấy rất rõ, tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản tràn lan, nhiều nơi vô tổ chức đã không những làm thất thoát lớn nguồn tài nguyên mà còn ảnh hưởng xấu đến cơ sở hạ tầng làm xuống cấp rất nhanh hệ thống đường xá, cầu cống, phá hủy môi trường sống, nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội cho địa phương nơi có mỏ. Trong 13 năm cấp Trung ương đã cấp 353 giấy phép khai thác mỏ, cấp địa phương cấp tới 3.822 giấy phép khai thác mỏ. Các tỉnh cấp giấy phép khai thác mỏ nhiều nhất là Bình Thuận (200), Vĩnh Long (155), Yên Bái (152), Cao Bằng (142), Lâm Đồng (136), Nghệ An (126), Lai Châu (124), Lào cai (121), Thanh Hóa (101)…”.
    Nhiều loại khoáng sản như đồng, chì kẽm, antimon, than… xuất thô tiểu ngạch sang nước ngoài làm thất thoát đáng kể và cạn kiệt tài nguyên khoáng sản của đất nước.
    Việt Nam giàu khoáng sản đất hiếm, bauxit
    Đất hiếm trong sa khoáng chủ yếu ở dạng monazit, xenotim là loại phosphat đất hiếm, ít hơn là silicat đất hiếm (orthit). Trong sa khoáng ven biển, monazit, xenotim được tập trung cùng với ilmenit với các mức hàm lượng khác nhau, phân bố ven bờ biển từ Quảng Ninh đến Vũng Tàu. Sa khoáng monazit trong lục địa thường phân bố ở các thềm sông, suối điển hình là các mỏ monazit ở vùng Bắc Bù Khạng (Nghệ An) như ở các điểm monazit Pom Lâu – Bản Tằm, Châu Bình… Monazit trong sa khoáng ven biển được coi là sản phẩm đi kèm và được thu hồi trong quá trình khai thác ilmenit.
    Ngoài các kiểu mỏ đất hiếm nêu trên, ở vùng Tây Bắc Việt Nam còn gặp nhiều điểm quặng, biểu hiện khoáng hoá đất hiếm trong các đới mạch đồng – molipden nhiệt dịch, mạch thạch anh – xạ – hiếm nằm trong các đá biến chất cổ, trong đá vôi; các thể migmatit chứa khoáng hoá urani, thori và đất hiếm ở Sin Chải, Thèn Sin (Lai Châu); Làng Phát, Làng Nhẻo (Yên Bái);… nhưng chưa được đánh giá.
    Theo nguồn gốc có thể chia các mỏ, điểm quặng đất hiếm trên lãnh thổ Việt Nam thành 3 loại hình mỏ như sau: Mỏ nhiệt dịch: phân bố ở Tây Bắc, gồm các mỏ lớn, có giá trị như Bắc Nậm Xe, Nam Nậm Xe, Đông Pao, Mường Hum, Yên Phú và hàng loạt các biểu hiện khoáng hoá đất hiếm khác trong vùng. Kiểu mỏ hấp thụ ion: kiểu mỏ này mới đươc phát hiện tại khu vực huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Mỏ sa khoáng: gồm 2 kiểu sa khoáng chứa đất hiếm: Sa khoáng lục địa: phân bố ở vùng Bắc Bù Khạng (Pom Lâu, Châu Bình và Bản Gió); Sa khoáng ven biển: ven biển Việt Nam có nhiều mỏ và điểm quặng sa khoáng ilmenit có chứa các khoáng vật đất hiếm như monazit, xenotim.
    Theo thành phần nguyên tố, quặng đất hiếm ở Việt Nam có thể chia làm 2 loại. Đất hiếm nhóm nhẹ: gồm các mỏ Nam Nậm Xe, Bắc Nậm Xe, Đông Pao và quặng sa khoáng. Trong đó, khoáng vật đất hiếm chủ yếu là bastnezit (Nậm Xe, Đông Pao, Mường Hum) và monazit (Bắc Bù Khạng, sa khoáng ven biển). Đất hiếm nhóm nặng: điển hình là mỏ Yên Phú, tỷ lệ hàm lượng oxyt đất hiếm nhóm nặng trên tổng oxyt đất hiếm trung bình khoảng 30%. Ngoài mỏ Yên Phú, mỏ đất hiếm Mường Hum, tỷ lệ này tương đối cao, trung bình khoảng 22%.
    Ông Bùi Tất Hợp - Cục Kinh tế Địa chất và Khoáng sản cho biết: Tổng trữ lượng và tài nguyên đất hiếm trong các mỏ gốc và phong hóa ở Việt Nam đạt khoảng trên 16 triệu tấn tổng oxit đất hiếm, tập trung chủ yếu ở tỉnh Lai Châu. Các mỏ đất hiếm gốc và phong hóa ở Việt Nam đều thuộc loại quy mô lớn, trong đó mỏ đất hiếm lớn nhất là Bắc Nậm Xe. Tổng trữ lượng và tài nguyên monazit khoảng 7.000 tấn. Khối lượng tài nguyên không lớn nhưng phân bố tập trung, điều kiện khai thác, tuyển đơn giản nên cần được quan tâm thăm dò và khai thác khi có nhu cầu.

    Khai thác Bauxit ở Tây Nguyên.
    Theo tài liệu hiện có, tài nguyên bauxit nói chung và bauxit laterit ở Việt Nam được dự tính khoảng 5,5 – 6,9 tỉ tấn và có khả năng còn tăng thêm, thuộc loại quốc gia có tài nguyên bauxit lớn trên thế giới.
    Với nguồn tài nguyên bauxit phong phú, năm 2007 Việt Nam đã có quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng bauxit giai đoạn 2007 – 2015, có xét đến năm 2025 nhằm phát triển bền vững ngành công nghiệp nhôm trong tương lai, góp phần phát triển bền vững đất nước.
    Tuy nhiên, vấn đề hiện nay là cân đối như thế nào giữa tài nguyên và trữ lượng với tỷ lệ hợp lý để đảm bảo trữ lượng tin cậy cho sự phát triển bền vững công nghiệp khai thác, chế biến bauxit ở Việt Nam trong sự ảnh hưởng của lạm phát, suy giảm kinh tế ở khu vực và toàn cầu.
    Tài nguyên bauxit ở Việt Nam đã được biết đến từ những năm 30 thế kỷ trước, khi vào khoảng năm 1936-1943 các nhà địa chất Pháp đã phát hiện và khai thác mỏ bauxit Lỗ Sơn (Hải Dương) và các mỏ bauxit ở vùng Lạng Sơn. Cho đến trước năm 1975 kết quả điều tra, thăm dò của ngành địa chất Việt Nam đã xác định và sơ bộ đánh giá triển vọng các vùng quặng bauxit lớn ở miền Bắc Việt Nam phân bố ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Nghệ An. Trữ lượng và tài nguyên được điều tra, thăm dò với các độ tin cậy khác nhau ở các vùng quặng bauxit này đạt 357,205 triệu tấn, trong đó trữ lượng chung ở các nhóm mỏ Lạng Sơn và Cao Bằng.
    Từ năm 1975 đến nay công tác điều tra, thăm dò bauxit ở Việt Nam đã đưa lại những kết quả mới với những dự báo đến “chóng mặt”, chủ yếu liên quan đến loại bauxit laterit trong các vỏ phong hóa các đá bazan tuổi Neogen và Pliocen – Pleistocen.
    Quặng bauxit laterit ở miền Nam Việt Nam tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên. Năm 2010, một kết quả thống kê chuyển đổi trữ lượng và tài nguyên bauxit laterit về một “mặt bằng cấp trữ lượng và tài nguyên” theo quy định về thăm dò, phân cấp trữ lượng và tài nguyên bauxit cho thấy tổng trữ lượng và tài nguyên bauxit laterit của 23 mỏ ở Tây Nguyên được 2,522 tỉ tấn quặng tinh. Trữ lượng quặng tinh có thể huy động vào nghiên cứu khả thi khai thác đạt 314,159 triệu tấn. Trữ lượng đã được cấp phép khai thác là 50,739 triệu tấn.
    Quyết định số 167/2006/QĐ- TTg ngày 01/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ xác định mục tiêu và định hướng phát triển là: “Đẩy mạnh công tác thăm dò và nâng cấp trữ lượng tài nguyên bauxit để đảm bảo độ tin cậy cho việc khai thác; đảm bảo trữ lượng tin cậy cho phát triển bền vững công nghiệp khai thác và chế biến bauxit toàn quốc”.
  8. haupro82

    haupro82 Thành viên gắn bó với f319.com Not Official

    Tham gia ngày:
    05/03/2011
    Đã được thích:
    383
    anh em nào quan tâm và đầu tư lcm không nên nôn nóng, theo cách đánh VSA nó sẽ dụ cho bà con cảm thấy chán nản bán ra hết rồi nó gom ===> gom xong tụi đánh fải test cung còn không rồi mới đây

    [​IMG]
  9. xgame09

    xgame09 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2009
    Đã được thích:
    116
    Hàng ngon nhưng vẫn không lên được để lại cho các pac [r24)][r24)][r24)]
  10. DongNaiClub

    DongNaiClub Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/04/2012
    Đã được thích:
    0

Chia sẻ trang này