NBC - Cổ phiếu ngành than trong siêu chu kỳ trong hàng hóa

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi fizz13, 26/05/2021.

5106 người đang online, trong đó có 48 thành viên. 04:05 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 4 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 4)
Chủ đề này đã có 308970 lượt đọc và 1730 bài trả lời
  1. PHR

    PHR Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    31/05/2019
    Đã được thích:
    7.801
    Đây là số liệu tháng 5 và 5 tháng 2021. KH tháng 6/2021. Kết quả tháng 6 và 6 tháng rất OK. Quý 3, 4 chắc chắn ngon lành cành đào rồi.

    "Nhờ việc đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi kỹ thuật số trong công tác quản lý, điều hành, giữ vững mỏ an toàn nên hoạt động của ngành than vẫn duy trì ổn định.

    Trong khi đó, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) vẫn tiếp tục duy trì ổn định trong thời gian qua. Cụ thể, báo cáo tổng hợp của Ban Kế hoạch TKV, trong tháng 5, các chỉ tiêu SXKD của Tập đoàn cơ bản đạt kế hoạch đề ra, vừa duy trì ổn định hoạt động sản xuất vừa đảm bảo thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid - 19.

    Trong đó, than tiêu thụ cho các nhà máy nhiệt điện, sản xuất và tiêu thụ khoáng sản, điện lực đạt kết quả tốt. Biểu hiện, trong tháng 5, Tập đoàn đã sản xuất 3,36 triệu tấn than nguyên khai, tiêu thụ 4,26 triệu tấn; sản xuất Alumin và hydrat quy đổi đạt 122.000 tấn; sản ********* quặng đồng 9.758 tấn; sản xuất và tiêu thụ điện 1,055 tỷ kWh...

    Tính đến hết 5 tháng, toàn Tập đoàn sản xuất được 16,9 triệu tấn than nguyên khai, đạt 44 % kế hoạch năm. Than tiêu thụ đạt 18,15 triệu tấn, bằng 43 % kế hoạch. Doanh thu toàn Tập đoàn ước đạt 50.376 tỷ đồng. Thu nhập của người lao động đạt bình quân hơn 12,9 triệu đồng/người-tháng. Nộp ngân sách Nhà nước đạt 7,8 ngàn tỷ đồng.

    Theo kế hoạch, tháng 6/2021, Tập đoàn sản xuất 3,2 triệu tấn than nguyên khai, tiêu thụ 4,28 triệu tấn than; bóc đất đá 16,5 triệu m3, đào tổng số 22.400 mét lò; sản xuất 124.000 tấn Alumina; 10.100 tấn tinh quặng đồng, đồng tấm 1.000 tấn, kẽm thỏi 1.000 tấn; sản xuất điện 940 triệu Kwh..."
  2. tinthanhdentallab

    tinthanhdentallab Thành viên tích cực Not Official

    Tham gia ngày:
    02/04/2021
    Đã được thích:
    47
    ai có thông tin gì BCTC Q2 kg các bác?
  3. PHR

    PHR Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    31/05/2019
    Đã được thích:
    7.801
    Chưa thể “đoạn tuyệt” nhiệt điện than, thậm chí cần xây thêm để đảm bảo năng lượng?
    Nguyễn Mạnh -
    Đến năm 2030, tổng công suất đặt nguồn điện của Việt Nam đạt 137.200 MW, trong đó nhiệt điện than vẫn chiếm khoảng 27%. Quy mô các nhà máy nhiệt điện than đưa vào giai đoạn 2021-2035 đều là những dự án chắc chắn xây dựng...
    [​IMG]
    Nhiệt điện than vẫn giữ vai trò quan trọng trong hệ thống điện quốc gia.
    Trong hàng loạt hội nghị, hội thảo gần đây liên quan đến phát triển năng lượng, đa số các ý kiến đều cho rằng nhiệt điện than là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường cần phải loại bỏ. Thế nhưng, nếu nhìn vào thực tế tình hình cung cấp điện hiện nay thì rõ ràng đây vẫn là nguồn năng lượng rất quan trọng, đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống điện quốc gia.

    Quy hoạch Phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021 – 2030 tầm nhìn 2045 (Quy hoạch Điện VIII) nêu rõ, đến năm 2030, tổng công suất đặt nguồn điện của Việt Nam đạt 137.200 MW, trong đó nhiệt điện than vẫn chiếm khoảng 27%. Năm 2045, tổng công suất đặt của nguồn điện đạt 276.700 MW, trong đó nhiệt điện than chiếm 18%...

    [​IMG]
    KHÓ KHĂN ĐỂ THU XẾP VỐN

    Tại một số buổi tọa đàm trực tuyến về Quy hoạch điện VIII do các tổ chức xã hội tổ chức mới đây, nhiều chuyên gia cùng chung nhận định, tiếp tục phát triển các dự án điện than mới đến năm 2045 là trái với xu thế mới của khu vực và toàn cầu, rất khó khả khi vì nguồn tài chính quốc tế cho điện than ngày càng khó khăn hơn, nhiệt điện than ngày càng đắt đỏ hơn, các địa phương và người dân không ủng hộ.

    Theo bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) kiêm Chủ tịch Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), việc tiếp tục phát triển điện than theo Quy hoạch điện VIII là rất khó khả thi để triển khai trong bối cảnh nguồn tài chính cho nhiệt điện than ngày càng thắt chặt.

    "Nếu tiếp tục đưa những dự án này vào quy hoạch thì nguy cơ cao sẽ lặp lại sai lầm của Quy hoạch điện VII điều chỉnh và ảnh hưởng lớn tới việc đảm bảo cung cấp điện, bỏ lỡ cơ hội thu hút nguồn vốn xanh", bà Khanh lưu ý.

    Đáng chú ý, trong kiến nghị gửi lên lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành góp ý về Quy hoạch điện VIII mới đây, VSEA cũng nêu lên thực tế, mặc dù đã được hưởng cơ chế đặc thù theo Quyết định 2414/TTg về việc điều chỉnh danh mục, tiến độ một số dự án điện và quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù để đầu tư các công trình điện cấp bách trong giai đoạn 2013 – 2020, song có tới 16/34 dự án điện than vẫn không đi vào vận hành đúng tiến độ và tiếp tục bị đẩy lùi thêm nhiều năm trong dự thảo Quy hoạch điện VIII.

    Một trong những nguyên nhân dẫn tới chậm tiến độ của các dự án nhiệt điện than là việc tiếp cận nguồn tài chính ngày càng khó khăn. Hàn Quốc và Nhật Bản là hai trong số ba quốc gia vẫn còn đầu tư cho nhiệt điện than ở Việt Nam đã chính thức tuyên bố dừng cấp vốn cho các dự án điện than mới. Như vậy, áp lực cấp vốn sẽ đặt lên vai các ngân hàng trong nước.

    Phân tích cụ thể hơn, ThS. Phạm Xuân Hòe – nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), cho rằng những dự án nhiệt điện than dang dở chậm tiến độ chủ yếu là do không thu xếp được nguồn vốn. Việc các ngân hàng thương mại cho vay các dự án nhiệt điện than sẽ vượt xa mức cho vay 15% vốn tự có cho một khách hàng hoặc 25% cho một nhóm khách hàng.

    "Điều này sẽ mang đến nhiều rủi ro cho các ngân hàng thương mại, đi ngược lại với xu thế phát triển ngân hàng xanh, ngân hàng bền vững trên toàn thế giới và có thể đe dọa sự phát triển của cả nền kinh tế Việt Nam. Tiếp tục phát triển nhiệt điện than là sự vay mượn của các thế hệ tương lai, chuyển rủi ro cho tương lai" ThS. Hòe nhấn mạnh.

    VÌ SAO VẪN CẦN PHẢI PHÁT TRIỂN?

    Mặc dù nhiệt điện than đang mang lại những lo ngại, song việc phát triển nguồn năng lượng này vẫn cần thiết trong bối cảnh nhu cầu điện cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước ngày càng tăng cao.

    Để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện với chi phí không quá cao, hệ thống điện quốc gia vẫn cần phải xây dựng các nhà máy nhiệt điện than. Bởi nếu chọn năng lượng tái tạo sẽ có nhiều rủi ro, vì đây là nguồn năng lượng thiếu ổn định do phụ thuộc vào thời tiết, còn phát triển nhiệt điện khí hóa lỏng thì chi phí sẽ khá lớn và giá điện theo đó sẽ tăng cao hơn nhiều.

    Chính vì thế, trong Quy hoạch điện VIII vẫn dành một phần công suất nhất định cho nhiệt điện than. Cụ thể, đến năm 2030 nhiệt điện than vẫn chiếm 27% trong tổng công suất lắp đặt nguồn điện; đến năm 2035 sẽ giảm xuống 23% và tiếp tục giảm xuống 21% và 18% trong vào năm 2040 và 2045.

    Như vậy, trong giai đoạn đến năm 2030 và các năm sau, nguồn nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn điện, đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo cung cấp điện cho phát triển kinh tế – xã hội.

    Theo giải trình của Viện Năng lượng Việt Nam - đơn vị xây dựng Quy hoạch điện VIII, quy mô các nhà máy nhiệt điện than đưa vào giai đoạn 2021-2035 đều là những dự án chắc chắn xây dựng. Đây là những dự án đã thực hiện, công tác xúc tiến đầu tư tốt, không thể loại bỏ.

    Ví dụ như nhà máy nhiệt điện Nam Định I, Thái Bình II, Vũng Áng II, Vân Phong I, Duyên Hải II, Vĩnh Tân III.... Sau năm 2035, hệ thống vẫn cần tiếp tục phát triển một phần nhỏ nhiệt điện than để đảm bảo tiêu chí an ninh năng lượng, giá điện không tăng quá cao.

    Trong bối cảnh việc phát triển ngành điện vừa phải đáp ứng nhu cầu điện, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, vừa phải giảm thiểu ô nhiễm môi trường, Quy hoạch điện VIII cũng yêu cầu rất rõ, các nhà máy nhiệt điện than trong giai đoạn 2021-2025 chỉ xây dựng công nghệ nhiệt điện than siêu tới hạn trở lên.

    Giai đoạn từ 2025-2035, chỉ xây dựng nhiệt điện than trên “siêu tới hạn” trở lên và sau năm 2035 chỉ xây dựng nhiệt điện than trên “siêu tới hạn” cải tiến.

    Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện với chi phí không quá cao, hệ thống điện quốc gia vẫn cần phải xây dựng các nhà máy nhiệt điện than. Bởi nếu chọn năng lượng tái tạo sẽ có nhiều rủi ro, vì đây là nguồn năng lượng thiếu ổn định do phụ thuộc vào thời tiết, còn phát triển nhiệt điện khí hóa lỏng thì chi phí sẽ khá lớn và giá điện theo đó sẽ tăng cao hơn nhiều.

    GIẢI BÀI TOÁN NGUỒN THAN NHẬP KHẨU

    Vấn đề đặt ra đối với các dự án nhiệt điện than trong Quy hoạch điện VIII là yêu cầu các nhà máy sử dụng than nhập khẩu có nhiệt trị cao để giảm lượng sử dụng và mức độ tác động xấu đến môi trường. Trong quy hoạch này, sẽ có 14.590 MW công suất nhiệt điện than chắc chắn được xây dựng.

    Ngoài ra, quy hoạch cũng thực hiện đánh giá thêm các vị trí tiềm năng có thể xây dựng tại các vùng miền. Kết quả đánh giá sơ bộ cho thấy, tổng công suất nhiệt điện than nhập khẩu có thể xây dựng thêm trên toàn quốc là hơn 75.000 MW (gồm cả các dự án đã có trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh).

    Tuy nhiên, theo đánh giá của Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, việc nhập khẩu than, nhất là cho sản xuất điện có một số khó khăn, thách thức.

    [​IMG]
    Cụ thể Việt Nam mới tham gia thị trường nhập khẩu than nhiệt, trong khi thị trường này đã được các tập đoàn tài chính - thương mại lớn trên thế giới sắp đặt “trật tự” và chi phối từ lâu; có sự cạnh tranh gay gắt của các nước, nhất là các nước trong khu vực.

    Trong khi đó, cơ sở hạ tầng, hệ thống logistics phục vụ nhập khẩu than còn yếu, năng lực vận chuyển đường thủy nội địa từ cảng biển về các nhà máy nhiệt điện than quá mỏng.

    Mặt khác, cơ chế chính sách và tổ chức nhập khẩu than cho các nhà máy nhiệt điện còn nhiều bất cập, hình thức nhập khẩu than còn chưa đa dạng, chủ yếu mua theo chuyến, theo lô chưa có các hợp đồng nhập khẩu than dài hạn, chưa đầu tư khai thác than ở nước ngoài.

    Để giải quyết bài toán này, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đề xuất, trước mắt và trung hạn, nguồn than nhập khẩu là từ thị trường than Indonesia, Australia và Nam Phi. Trong dài hạn, ngoài thị trường Australia cần tập trung mở rộng sang thị trường Nga và một số thị trường tiềm năng khác như Mông Cổ, Triều Tiên, Hoa Kỳ, Colombia...

    Đặc biệt, để có nguồn than ổn định phải đầu tư mua mỏ ở nước ngoài. Các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn độ, Đài Loan... đã đầu tư mua mỏ ở các nước khu vực châu Á – Thái Bình dương từ hàng chục năm nay.

    Đây là dạng đầu tư mạo hiểm và nhiều rủi ro cần có chiến lược bài bản. Chính phủ phải có sự hỗ trợ thích đáng bằng các hình thức thích hợp từ cơ chế chính sách, hỗ trợ đầu tư, hợp tác quốc tế, đường lối ngoại giao năng lượng...

    Về cơ chế, chính sách nhập khẩu và đầu tư khai thác than ở nước ngoài, Nhà nước cần xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, giải pháp đồng bộ nhập khẩu than và đầu tư khai thác than ở nước ngoài.

    Hỗ trợ xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, hệ thống logistics phục vụ nhập khẩu than. Cho phép nghiên cứu xây dựng các trung tâm quản lý than cho mỗi cụm các nhà máy nhiệt điện than (3 - 5 nhà máy) với mục đích quản lý giao nhận, phối trộn và điều hành chuỗi cung ứng tập trung cho các nhà máy nhiệt điện than trong cụm.

    Về tổ chức nhập khẩu than, hiện nay khối lượng than nhập khẩu chủ yếu cho nhiệt điện với các đơn vị nhập khẩu chính là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) và các công ty tư nhân, hoặc một số đơn vị nước ngoài đầu tư nhà máy điện.

    Vì vậy, thời gian tới vẫn phải giao nhiệm vụ cho các đơn vị này thực hiện nhập khẩu than, nhất là cho điện.

    Tuy vậy, để tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, đẩy giá than tăng cao, gây rối loạn thị trường cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và với các hộ sử dụng than theo chiến lược chung dưới sự chỉ đạo, giám sát kịp thời của Chính phủ.

    Có thể thành lập Hiệp hội nhập khẩu than để hợp tác, hỗ trợ nhau cùng nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin, thống nhất hành động và đàm phán theo chủ trương, định hướng chung với người bán.

    Đặc biệt trong xây dựng, vận hành hệ thống logistics, vận chuyển than nhằm đảm bảo có nguồn cung ổn định dài hạn, chất lượng phù hợp và giá cả hợp lý.
    https://vneconomy.vn/chua-the-doan-...am-chi-can-xay-them-de-dam-bao-nang-luong.htm
    fizz13 thích bài này.
  4. PHR

    PHR Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    31/05/2019
    Đã được thích:
    7.801
    Nắng nóng khủng khiếp, tiêu thụ điện lập kỷ lục chưa từng có
    21/06/2021 18:59 GMT+7
    TTO - Công suất tiêu thụ điện toàn quốc lần đầu tiên vượt 42.000 MW, và thiết lập mức đỉnh kỷ lục mới với con số là 42.146 MW.
    [​IMG]
    Tiêu thụ điện liên tục lập đỉnh trong những ngày nắng nóng - Ảnh: EVN

    Theo thông tin từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), diễn biến thời tiết nắng nóng cực đoan diện rộng ở miền Bắc và miền Trung từ ngày 16-6 trở lại đây đã làm tiêu thụ điện của miền Bắc nói riêng và toàn quốc nói chung không ngừng tăng lên.

    Cụ thể, theo số liệu từ Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia, vào trưa 21-6, công suất tiêu thụ điện toàn quốc lần đầu tiên vượt 42.000 MW và thiết lập mức đỉnh kỷ lục mới với con số là 42.146 MW.

    Bên cạnh đó, công suất tiêu thụ điện của riêng khu vực miền Bắc và riêng TP Hà Nội cũng đã lập mức đỉnh kỷ lục mới, với công suất đỉnh mới của miền Bắc là 18.700 MW và của TP Hà Nội là 4.700 MW.

    Để hạn chế nguy cơ xảy ra sự cố cục bộ trên lưới điện cũng như trong gia đình, EVN tiếp tục khuyến cáo người dân, các cơ quan công sở và nơi sản xuất cần chú ý sử dụng điện an toàn, tiết kiệm, đặc biệt vào các giờ cao điểm trưa và tối, cụ thể là buổi trưa từ 11h30 đến 15h, buổi tối từ 20h đến 23h.

    Đồng thời chú ý sử dụng hợp lý điều hòa nhiệt độ (đặt ở mức 26-27 độ trở lên, sử dụng kết hợp với quạt) và chú ý không nên sử dụng đồng thời nhiều thiết bị điện có công suất lớn.

    Lượng điện tiêu thụ tăng cao khiến công suất huy động sắp tiến gần với công suất khả dụng của hệ thống. Hiện nay công suất đặt toàn hệ thống là 70.000 MW, trong đó riêng nguồn điện mặt trời lên tới gần 17.000 MW, chiếm tỉ trọng 25%.

    Tuy vậy, điện mặt trời chỉ phát điện được vào ban ngày nên với những thời điểm phụ tải tăng mạnh vào buổi tối, một số nơi bị quá tải cục bộ sẽ gây áp lực rất lớn đến vận hành hệ thống. Lúc này công suất đặt toàn hệ thống chỉ còn khoảng 53.000 MW, giảm rất mạnh khi không có nguồn mặt trời.

    Trong khi đó, hiện công suất khả dụng của hệ thống ở mức 45.000 - 47.000 MW (không bao gồm điện mặt trời), nên khi phụ tải toàn hệ thống liên tục lập đỉnh, để đảm bảo vận hành an toàn, các nguồn điện chạy nền như thủy điện, nhiệt điện than vẫn phải duy trì và được huy động.
  5. hoagiayck

    hoagiayck Thành viên gắn bó với f319.com Not Official

    Tham gia ngày:
    16/07/2020
    Đã được thích:
    3.850
    Điện MT mới phát triển 5 năm mà đã chiếm 25% rồi.
    Mang tiếng là tăng cao tiêu thụ nhưng cung mới cũng nhiều, nên các dự án cũ sẽ giảm tải vào thời điểm ĐMT hoạt động.
    Nếu soi sâu sát thì chưa chắc nhiệt điện đã tăng cs huy động.
  6. PHR

    PHR Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    31/05/2019
    Đã được thích:
    7.801
    VN phải tăng 10 lần vì 60% dân số VN chưa có điều kiện sử dụng điều hòa. Điều hòa là thiết bị tiêu thụ điện rất lớn. Do đó nhu cầu điện ko ngừng tăng cao

    NHU CẦU ĐIỆN DÀNH CHO ĐIỀU HÒA KHÔNG KHÍ SẼ TĂNG GẤP 3 LẦN VÀO NĂM 2050
    Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), điều hòa không khí dự kiến sẽ trở thành động lực chính thúc đẩy nhu cầu điện toàn cầu trong 30 năm tới.

    [​IMG]



    Lượng điện tiêu thụ của các máy điều hòa trên toàn thế giới được dự báo sẽ tăng gấp 3 lần vào năm 2050, theo báo cáo của IEA.

    Nhu cầu gia tăng kéo theo yêu cầu một lượng lớn công suất phát điện mới, tương đương công suất phát điện của Mỹ, Nhật Bản và Liên minh Châu Âu hiện nay cộng lại. Theo báo cáo của IEA, số lượng máy điều hòa không khí trong các tòa nhà sẽ tăng từ 1,6 tỷ hiện nay lên 5,6 tỷ vào năm 2050.

    Cũng theo IEA, máy điều hòa không khí và quạt điện tiêu thụ khoảng 20% tổng lượng điện sử dụng trong các tòa nhà trên toàn thế giới. Điều hòa không khí dự kiến sẽ trở thành nhân tố thúc đẩy tăng trưởng nhu cầu điện lớn thứ hai, chỉ sau lĩnh vực công nghiệp.

    “Nhu cầu tiêu thụ điện của điều hòa không khí ngày càng tăng là một trong những điểm mù lớn nhất trong ngành năng lượng hiện nay”, ông Fatih Birol - Giám đốc điều hành IEA, cho biết.

    “Khi thu nhập ngày càng tăng, việc sử dụng máy điều hòa sẽ tăng vọt, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Dù việc này sẽ mang đến sự thoải mái và cải thiện chất lượng cuộc sống, điều quan trọng là hiệu suất sử dụng điện của máy điều hòa không khí vẫn cần được ưu tiên. Tiêu chuẩn đặt ra cho các máy điều hòa hiện vẫn thấp hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn cần thiết”, vị giám đốc IEA nói thêm.

    Báo cáo của IEA cũng đưa ra giải pháp cho xu hướng tiêu thụ điện ngày càng tăng của điều hòa không khí. Báo cáo này cho rằng nhiều giải pháp, trong đó có việc đặt ra tiêu chuẩn hiệu suất sử dụng năng lượng khắt khe hơn, có thể giúp tăng hơn gấp đôi hiệu suất năng lượng trung bình của máy điều hòa trên toàn cầu từ nay đến năm 2050.

    “Đặt ra hiệu suất sử dụng năng lượng cao hơn cho các máy điều hòa là một trong những cách dễ dàng nhất mà chính phủ các nước có thể áp dụng để giảm nhu cầu xây thêm nhà máy điện, đồng thời giúp cắt giảm phát thải và chi phí”, ông Birol cho biết.



    #Nguồn: Trường Giang

    Theo Kinh tế & Tiêu dùng
  7. PHR

    PHR Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    31/05/2019
    Đã được thích:
    7.801
    NL tái tạo như điện MT, điện gió, thủy điện ko ổn định thì ko bền vững. Nó phụ thuộc thời tiết. Cái gì phụ thuộc thời tiết ko ổn rồi. Điện mặt trời chỉ phát tối đa 12h/ngày. Mùa mưa, mùa đông thì đói. Điện gió thì phập phù. Thủy điện vào mùa khô thì cạn nước. Nói chung năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió dù công suất cao nhưng hiệu quả khai thác, đóng góp chỉ mới 15% sản lượng điện. Nhiệt điện vẫn chiếm 40% sản lượng. Trong nhiệt điện thì điện than chiếm 90%. Điện dầu, điện khí phát có mà lỗ lòi mắt.
    VN vẫn ko ngừng xây mới, mở rộng các nhà máy nhiệt điện than. Gần nhất là nhiệt điện than Quảng Trạch, Quảng Bình của EVN. VN vẫn thiếu điện trầm trọng trong 10 năm tới nếu ko có điện hạt nhân thì phải xây nhiệt điện than. Thủy điện thì ko còn phát triển. Điện mặt trời thì tốn đất, 20 năm phải thay pin, công suất giảm dần. Điện gió thì phụ thuộc gió, phập phù. Nói chung nhiệt điện than, điện hạt nhân là ok nhất
  8. hoagiayck

    hoagiayck Thành viên gắn bó với f319.com Not Official

    Tham gia ngày:
    16/07/2020
    Đã được thích:
    3.850
    Vậy thì các nước phát triển NLTT trên thế giới hiện nay đi thụt lùi cả.
  9. PHR

    PHR Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    31/05/2019
    Đã được thích:
    7.801
    Vì sao VN tăng nhanh điện tái tạo mà trước đó phát triển kém là vì trước 31/12/2020 được ưu đãi giá điện mặt trời. Trước 31/12/2021 ưu đãi điện gió nên mới phát triển ồ ạt. Sau khi hết ưu đãi thì chẳng mấy ai mặn mà đầu tư điện tái tạo. Thế giới đang sử dụng nhiệt điện than, thủy điện và điện hạt nhân là chủ yếu. Các nước phát triển thì sử dụng điện hạt nhân là chủ yếu. Các nước đang phát triển thì nhiệt điện than, thủy điện là chủ yếu tuy nhiên rất ít nước làm đc thủy điện vì địa hình và thời tiết. Mà nhu cầu sử dụng điện của các nước đang phát triển ko ngừng tăng thì phải sử dụng điện than vì giá rẻ, chi phí đầu tư ko lớn mà công suất rất khủng. Chấp nhận đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế. Điện hạt nhân chi phí đầu tư cao, rủi ro ô nhiễm phóng xạ rất lớn bởi vậy VN đã hủy dự án điện hạt nhân tại Bình Thuận.
    Last edited: 10/07/2021
    hoagiayck thích bài này.
  10. PHR

    PHR Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    31/05/2019
    Đã được thích:
    7.801
    fizz13 thích bài này.

Chia sẻ trang này