Những câu chuyện thần bí - Ma ám vì mở Luân Xa - Liệu có cõi âm cùng tồn tại với chúng ta không?

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi pmpmpm, 05/11/2011.

3228 người đang online, trong đó có 86 thành viên. 01:33 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 2 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 2)
Chủ đề này đã có 35246 lượt đọc và 327 bài trả lời
  1. tlcccs

    tlcccs Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/11/2008
    Đã được thích:
    0
    Em này lấy chồng năm 25 hoặc 29t
    Năm 29t chuyển về nhà mới.
    Thân cư Quan, cung quan xấu, nên khổ về công danh.
    Có thể die trên xa lộ ở 64.
  2. tigerstock6868

    tigerstock6868 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/06/2011
    Đã được thích:
    1
    Ông tiến sĩ và “căn phòng ma quái”





    Áp vong
    Sau khi nhà ngoại cảm “tác động” vào hàng loạt nhóm người, lập tức, căn phòng 80 m2 trên tầng 4 phố Đông Tác (phường Kim Liên, Hà Nội) biến thành một căn phòng toàn “ma quỷ”.

    Tôi đi xem… “ma”

    Hàng ngày, bất kể nắng mưa, căn nhà số 1, phố Đông Tác (Kim Liên, Hà Nội), lúc nào cũng tấp nập người ra vào từ sáng sớm đến đêm. Những người có chút am hiểu về thế giới tâm linh đều có thái độ thành kính khi đến ngôi nhà này, còn những người bác bỏ tâm linh thì coi chuyện người ta ùn ùn kéo đến gặp “ma”, xem “ma” rất nhảm nhí, tốn công sức. Nhưng với ông Vũ Thế Khanh và một số nhà khoa học ở Liên hiệp Khoa học Công nghệ tin học ứng dụng (UIA), thì việc nghiên cứu “ma quỷ” được xem như một vấn đề khoa học nghiêm túc.

    Từ 6 giờ sáng tôi đã có mặt ở số 1, phố Đông Tác, song sân để xe dưới tầng một đã không còn một chỗ, phải gửi xe máy sang siêu thị bên cạnh. Mọi người, cả đàn ông lẫn đàn bà, cả già lẫn trẻ đều giữ trật tự, đi lên căn phòng hội trường trên tầng 4 của toà nhà. Trước khi vào căn phòng rộng chừng 80 m2 trên tầng 4, họ đều thắp một nén nhang, chắp tay thành kính lạy Phật ở căn phòng bên cạnh.

    Trong căn phòng kỳ lạ đó, từng nhóm người túm năm tụm ba ngồi thành vòng tròn đối mặt với nhau. Mỗi nhóm là một gia đình, thường gồm ông bà, bố mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, cháu chắt… là những người có quan hệ máu mủ ruột rà với nhau. Những người ngồi trong phòng đều nhắm mắt, khoanh chân, hai tay bắt chỉ ngồi thiền. Họ giữ tâm trí thanh thản, thoát tục, để cho “linh hồn” nhập vào thân thể, gặp gỡ người nhà.

    Trong căn phòng này có hai nhà ngoại cảm nữ, một người mặc áo nâu sồng, có lẽ là người theo hầu cửa Phật. Hai nhà ngoại cảm đứng giữa đám đông quan sát, thi thoảng họ lại tiến về phía nhóm người nào đó rồi dùng lòng bàn tay đặt lên đỉnh đầu, huyệt đạo ở lưng một phụ nữ, giống như kiểu cao thủ võ lâm đang… truyền công lực. Lúc tập trung truyền công lực, lúc họ nói giọng như nịnh trẻ con: Nào cụ X, cụ thương con cháu thì về cho con cháu gặp gỡ nào! Em Y chết trẻ thảm quá, người nhà nhớ mong nhiều lắm, về cho mọi người gặp đi…”. Khi nhà ngoại cảm nói thế, nhóm người ngồi túm tụm, người xì xụp khấn vái như khấn Thánh sống, người khóc tu tu gọi “linh hồn” hiện về gặp gỡ.

    Chỉ cần nhà ngoại cảm “truyền năng lượng” và “nịnh ma” một lát, lập tức diễn ra hiện tượng “ma nhập”. Khi “ma nhập”, người bị “ma nhập” không còn lý trí riêng của mình nữa mà nói cười, trò chuyện cứ như người đã chết. Sau khi nhà ngoại cảm “tác động” vào hàng loạt nhóm người, căn phòng 80m2 trên tầng 4 phố Đông Tác biến thành một căn phòng toàn “ma quỷ”. Những tiếng khóc, tiếng cười của những người, được cho là âm dương cách biệt, bao năm trời mới gặp lại nhau, tạo nên một khung cảnh hết sức xúc động. Chính vì thế, cảm giác ớn lạnh như đứng giữa nghĩa địa ban đêm xâm chiếm cơ thể tôi không còn nữa. Thay vào đó là sự ấm áp, gần gũi giữa con người dương thế với một thế giới khác, mà theo những người tham gia thí nghiệm, là thế giới của những linh hồn.

    Đề tài khoa học “nhập hồn”

    Sau khi bị thế giới tâm linh hút hồn, là một nhà khoa học biện chứng, với khát vọng làm sáng tỏ phần nào cái thế giới mà con người cứ bị huyễn hoặc hàng vạn năm nay, và cũng là để tìm ra những lợi ích của thế giới huyền ảo ứng dụng vào thực tế, tiến sĩ Vũ Thế Khanh đã viết báo cáo trình Chính phủ xin 500 triệu đồng để lập dự án có tên “Nghiên cứu về ma”. Những dự án kiểu này đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu nhiều. Thậm chí, nước Mỹ còn lập hàng loạt cơ quan chuyên biệt, nghiên cứu về hiện tượng đặc biệt, liên quan đến thế giới sau khi chết, để ứng dụng vào khoa học, cuộc sống. Ngay cả cơ quan tình báo Mỹ là CIA cũng rất tích cực với những dự án kiểu này. Tuy nhiên, với Việt Nam, nó còn rất mới mẻ, nên dự án của ông Khanh được cho là “kỳ quặc”, vô nghĩa và lãng phí. Và tất nhiên, dự án của ông đã không được phê duyệt.


    Một người bị ma nhập
    Mặc dù Chính phủ không phê duyệt để cấp vốn cho dự án kỳ quặc này, song cho phép ông cùng các nhà khoa học thành lập một cơ quan chuyên biệt, bí mật nghiên cứu về những hiện tượng lạ lùng trong đời sống xã hội. Sau khi Liên hiệp UIA ra đời, ông Khanh cùng các nhà khoa học của Liên hiệp đã lập hàng loạt đề tài khoa học nghiên cứu về những hiện tượng lạ sau khi chết, trong đó có đề tài “nhập hồn”. Ông Khanh tự bỏ tiền túi, thời gian, công sức, cùng các nhà ngoại cảm, là những cán bộ, cộng tác viên của Liên hiệp thực hiện đề tài độc nhất vô nhị này.

    Điều lạ lùng nhất, có thể nói là bí quyết, đó là tiến sĩ Vũ Thế Khanh tìm được phương pháp đào tạo để các nhà ngoại cảm phát triển mạnh hơn nữa khả năng của mình. Tôi đã gặng hỏi ông Khanh nhiều lần về bí quyết đào tạo các nhà ngoại cảm, song ông Khanh nhất định không tiết lộ. Quả là một chuyện rất lạ!

    Người đàn bà… 5 mắt

    Người đầu tiên mà ông Vũ Thế Khanh đào tạo thành nhà ngoại cảm, lại có khả năng “áp vong” (truyền năng lượng, khai mở huyệt đạo để “ma” nhập vào người bình thường) là chị Hoàng Thị Thiêm, một nhân vật từng gây chấn động cả nước với khả năng bịt mắt vẫn đọc được sách, đi xe máy.


    Bịt mắt vẫn đọc được sách
    Tôi là nhà báo đầu tiên được gặp người đàn bà đặc biệt này, vì đã nhiều năm trời kiên trì thuyết phục ông Khanh. Sau khi thề thốt “lên bờ xuống ruộng”, rằng sẽ không tiết lộ tên thật, địa chỉ người đàn bà này, ông Khanh mới cho tôi tiếp xúc và tham gia cùng các nhà khoa học làm thí nghiệm xác định khả năng của chị ta.

    Tôi đã từng được nghe rất nhiều chuyện kỳ quái, huyễn hoặc về thế giới tâm linh, những khả năng đặc dị của con người, nhưng chuyện một phụ nữ có thể nhìn bằng trán, mũi và hai bên thái dương, thì đúng là từ cổ chí kim chưa từng nghe nói bao giờ. Thậm chí, theo ông Nguyễn Phúc Giác Hải, thế giới cũng chưa từng có người thứ hai có khả năng như vậy.

    Hôm đó, căn phòng làm việc của ông Khanh chật kín các nhà khoa học, có cả đại diện của Viện Khoa học Hình sự, Bộ ******* đến để chứng kiến, ghi nhận. Viện khoa học hình sự, Bộ ******* được Liên hiệp UIA mời vào cuộc nghiên cứu nhằm tìm cách vận dụng khả năng của chị Nguyễn Thị Thiêm trong việc truy tìm manh mối phá các vụ án phức tạp.

    Khác với tưởng tượng của tôi, chị Thiêm không có vẻ ngoài đặc biệt như một ảo thuật gia, một phù thủy, hay như người từ hành tinh khác đến. Chị Thiêm chừng 40 tuổi, ăn mặc chất phác và bình thường như bao cô gái lam lũ ở các vùng quê. Phương án thực hiện cuộc thí nghiệm được vạch sẵn từng bước. Qua mỗi bước thí nghiệm thông minh của các nhà khoa học, khả năng của chị Thiêm sẽ bộc lộ và những toan tính, những chuyện bịp bợm sẽ dễ dàng bị lộ tẩy.

    Tôi đã thực sự ngỡ ngàng khi các nhà khoa học dùng đủ các biện pháp để bịt chặt hai mắt chị Thiêm lại, song dù bịt bằng khăn, kính đặc biệt, bằng hai bàn tay, dán mí mắt bằng băng dính rồi úp chặt hai chiếc chén sứ uống trà vào hai mắt, song chị Thiêm vẫn cầm tờ báo đọc vanh vách không sai chữ nào. Nếu bịt cả mắt lẫn trán thì chị đọc bằng mũi, bịt cả mũi thì đọc bằng hai bên thái dương. Nếu che nốt cả hai bên thái dương thì chị Thiêm không nhìn thấy gì nữa.

    Chị Thiêm cho biết, một ngày cách đây 5 năm, tự nhiên chị thấy có một luồng sáng từ trán chiếu ra và chị cảm nhận được những hình ảnh mờ nhạt qua luồng sáng đó. Sợ hãi quá, chị dùng băng dính đen dính “con mắt” ở trán đó lại, nhưng rồi chị lại thấy có luồng sáng phát ra từ mũi. Chị dán ở mũi thì lại nhìn được bằng thái dương. Chị và gia đình quá sợ hãi, không biết nguyên nhân vì sao, thế rồi, một người mách chị đến Liên hiệp UIA, nơi có các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về các hiện tượng đặc dị. Từ đó, chị được các nhà khoa học quan tâm, làm rất nhiều thí nghiệm. Đặc biệt, mỗi ngày chị lại nhìn thấy mọi vật rõ hơn, và giờ đây, “con mắt thứ ba” đã nhìn mọi thứ rõ ràng như mắt thường.

    Đào tạo… nhà ngoại cảm!

    Chuyện đình đám về người đàn bà có khả năng bịt mắt đọc sách rồi cũng bẵng đi, cho đến một hôm, tiến sĩ Vũ Thế Khanh điện cho tôi khoe rằng: “Tớ đã đào tạo cho cô Thiêm khả năng “áp vong” bạn ạ. Có lẽ ấy là người đầu tiên ở Việt Nam “áp vong” được. Hôm nào bạn đến xem nhé”.


    Một người bị vong nhập
    Chuyện gọi hồn qua các nhà ngoại cảm tôi đã gặp nhiều, chứng kiến rất nhiều, song hầu hết những người có đầu óc duy vật đều bác bỏ, bởi họ cho rằng, những lời nói của “hồn”, chẳng qua là miệng lưỡi bịp bợm của nhà ngoại cảm. Tuy nhiên, việc nhà ngoại cảm làm cho “linh hồn” nhập vào người nhà của chính những người đến gọi hồn, thậm chí nhập cả vào nhà khoa học, đã khiến các nhà khoa học duy vật, kể cả những người luôn bác bỏ thế giới tâm linh phải suy nghĩ lại.

    Những ngày đó, mỗi ngày có hàng chục gia đình ngồi quây quần trong căn phòng trên tầng 4 của Liên hiệp UIA để chị Hoàng Thị Thiêm làm thí nghiệm “áp vong”. Tiến sĩ Vũ Thế Khanh thì miệt mài ghi chép, quay phim, thống kê từng chi tiết nhỏ trong mỗi cuộc “áp vong” để phục vụ cho đề tài nghiên cứu đặc biệt và kỳ quái này. Sau hai năm mở “căn phòng ma quỷ” để nghiên cứu về “con ma”, đến nay, không hiểu bằng phương pháp đặc biệt nào, ông Khanh đã đào tạo được gần chục nhà ngoại cảm có khả năng “áp vong” người chết vào người đang sống. Hiện tại, mỗi ngày, có cả trăm gia đình kéo đến đăng ký, những mong được các nhà ngoại cảm làm thí nghiệm “áp vong” cho mình, để được gặp… người thân đã chết. Danh sách người đăng ký làm thí nghiệm “áp vong” đã kín mấy cuốn sổ. Để được làm thí nghiệm “áp vong”, người đăng ký phải chờ 6 tháng trời.

    Cho đến bây giờ, dù đã mở “căn phòng ma quái” và thực nghiệm cả vạn ca “áp vong”, song tiến sĩ Vũ Thế Khanh lại rơi vào cảm giác như bị lạc vào mớ bòng bong. Nhiều nhà khoa học lúc nào cũng giương cao “ngọn cờ phản bác” đã bị “con ma” khuất phục, nhưng với ông Khanh, “con ma” hay còn gọi là “linh hồn”, vẫn là bí ẩn chưa được khám phá. Do đó, ông Khanh vẫn chưa thể khẳng định trên đời có hay không thứ gì đó gọi là “ma quỷ”.

    Mặc dù đề tài nghiên cứu về “linh hồn” đang tiếp diễn, song đã mang lại lợi ích hiện tại và mở ra triển vọng ứng dụng khoa học trong tương lai. Rất nhiều trường hợp, thông qua khảo nghiệm “áp vong” ở “căn phòng ma quỷ” này đã tìm được hài cốt thất lạc, thậm chí tìm được cả người sống thất lạc. Đặc biệt, một số trường hợp đã cung cấp manh mối phục vụ cơ quan điều tra trong việc truy tìm tội phạm giết người, khám phá những vụ trọng án. Đó là một trong số những lợi ích thiết thực cho khoa học mà tiến sĩ Vũ Thế Khanh mong muốn mang lại
  3. tigerstock6868

    tigerstock6868 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/06/2011
    Đã được thích:
    1
    Nghiên cứu về hiện tượng ma ám



    Bác sĩ Jayant Balaji Athavale - sáng lập viên của hội
    “Ma ám” thường được hiểu với ý nghĩa: một người bị khống chế tinh thần để lợi dụng thể xác hoặc bị sai khiến làm những điều không tự chủ bởi một ma lực bí ẩn. Hành vi chiếm hữu này thường đi qua bốn bước cơ bản, tùy theo ý chí và tinh thần của người sống, sự tấn công có thể diễn ra trong vài phút hoặc đôi khi mất nhiều tháng.

    Sự tấn công diễn ra như thế nào

    Bạn hãy tưởng tượng, bạn cầm quân ra trận để tiến đánh một thành trì, thế nhưng kẻ địch ở bên trong lại cố thủ không ra đánh, bởi vì hắn có lợi thế là những bức tường kiên cố, các cung thủ sẵn sàng, và nguồn lương thực đủ sức chịu đựng. Điều đó buộc vị chủ tướng phải vây hãm, kiên nhẫn chờ đợi đối phương đến ngày hết lương thảo hoặc sử dụng chiến thuật tâm lý làm suy yếu tinh thần đối thủ. Tuy quá trình vây hãm sẽ mất nhiều thời gian, bù lại, đến khi tâm lý kẻ địch hoan man hắn sẽ lộ ra những khiếm khuyết chết người, và thắng lợi sẽ ắt về ta.

    Tương tự, cách kiểm soát của ma (quỷ, năng lượng tiêu cực…) với con người cũng cùng bản chất.

    Sự tấn công diễn ra trong bao lâu

    Như đã nói ở trên, tùy thuộc vào tinh thần của nạn nhân, sự chiếm hữu có thể diễn ra trong vài giây hoặc vài tháng. Nó chủ yếu phụ thuộc vào hai yếu tố:

    * Tính dễ mẫn cảm của nạn nhân về cả tinh thần lẫn thể chất.

    * Ma không thể tấn công vào nạn nhân mà nó có tinh thần yếu hơn. Loài ma có sức mạnh tinh thần cao, trong đời sống ở kiếp trước nó có thực hành tâm linh; và việc nâng cao sức mạnh tin thần từ thấp đến cao của loài ma khá dễ dàng, nó chỉ cần có quyết tâm.

    Bốn bước để chiếm hữu một thể xác

    - Bước 1. Làm suy yếu tinh thần nạn nhân.

    Để làm tinh thần nạn nhân suy sụp, nó bám theo người đó như hình bóng, và đợi đến khi khi thời cơ thuận lợi, nó tạo ra những hành vi ám muội hoặc tận dụng các tình huống làm nạn nhân mất ổn định tâm trí.

    Ở mức độ thể chất, chúng lợi dụng bệnh tật có sẵn trên thân thể nạn nhân, hoặc làm cho em bé khóc cả đêm để cha mẹ của nó bị mất ngủ, sự mất ngủ rất dễ làm tinh thần suy nhượt và đây là cơ hội để loài ma tạo ra một ma cảnh.

    Ở mức độ tinh thần, lợi dụng khiếm khuyết cá tính của đối tượng như giận dữ, sợ hãi…chúng “đổ thêm dầu vào lửa” bằng cách cho nạn nhân tiêm nhiễm nhiều hơn các thói xấu này. Bằng sức mạnh của ma lực chúng ám nạn nhân để họ không dễ thích nghi với xã hội, mắc chứng trầm uất, tính tình hay thay đổi, tham muốn vô chừng, sợ hãi.

    Chúng để cho nạn nhận luôn rơi vào trạng thái tâm thần tiêu cực, luôn suy nghĩ mọi vấn đề với tư duy yếm thế, nghi ngờ người khác, hay bất mãn với mọi vấn đề. Trong óc nạn nhân luôn dân lên dồn dập những suy nghĩ và chính kiến khác nhau (hiện tượng đa tính cách), điều này gây hoảng loạn trong tâm trí, nạn nhân không biết mình là ai, đôi khi nhớ trước quên sau, từ đó dẫn đến mất cân bằng tâm lý. Trong các trường hợp nghiên cứu của chúng tôi, điển hình là một một phụ nữ trẻ ban đầu có hơi tham mê sắc dục, sau đó bị một con ma – trước kia là một gã đàn ông – bám theo, và nạn nhân trở nên bị ảm ảnh ********; trong đầu nạn nhân lúc nào cũng có suy nghĩ và tham muốn ái ân, điều này đã dẫn cô ta vào các vụ bê bối ******** và gia đình trở nên tan nát.

    Như vậy, hoặc thông qua các vấn đề về thể chất hoặc tâm thần, ma làm mất ổn định sự cân bằng tinh thần của một người và tạo ra lỗ hổng để xâm nhập.

    - Bước 2. Xâm nhập

    Sau khi đã làm yếu đi tinh thần nạn nhân, nó bắt đầu thực hiện các hành vi của mình nhắm vào người đó.

    + Tính cách : Nếu nạn nhân có tinh thần yếu, ma xâm nhập bất cứ lúc nào. Thông thường tinh thần của một người rất dễ tổn thương khi ở trong trạng thái cảm xúc như ham muốn, đam mê…Trong trạng thái đó, có sự thiếu liên kết và kiểm soát lẫn nhau giữa tinh thần và thể xác. Với trạng thái mở này, ma xâm nhập bất cứ khi nào.

    Nếu một người có tin thần mạnh mẽ, ma chờ đợi cơ hội. Ví dụ, một con người trung thực, con ma sẽ ám để nạn nhân nghĩ thoáng qua mình thiếu trung thực, và anh ta bị đau khổ và ám ảnh về hành vi của mình. Lúc đó cơ hội sẽ rơi vào tay nó.

    + Sự liên kết giữa các kinh mạch vi tế và thể chất con người.

    Ma có thể dễ dàng chiếm lấy thể xác của một người đang sống một cách dễ dàng khi nạn nhân trong trạng thái nằm mơ, sự tuyệt vọng, trầm uất…Thậm trí trong trạng thái xuất thần đại định của một thiền sư, nó cũng có thể lợi dụng.

    + Âm khí và sự liên quan

    Sự tác động cuả môi trường âm khí giúp nó có thêm sức mạnh, đó là vào lúc chuyển giao giữa ngày và đêm, ngày rằm, ngày tối trăng, các đêm nhật thực hay nguyệt thực…Qua những bằng chứng quan sát được chúng tôi sẽ tổng kết thành một bài riêng.

    + Thời cơ vàng tà muội

    Ma có được sức mạnh tinh thần mạnh nhất và âm khí gia tăng vào giữa 12 giờ khuya, cho đến 2 giờ sáng.

    - Bước 3. Khống chế nạn nhân

    Nếu từng là người từng tập thiền hay yoga, ắt hẳn độc giả biết đến năng lượng tinh thần sẽ gia tăng trong việc thực hành quán tưởng. Và nguồn năng-lượng-ý-chí này có hai loại trắng và đen, tức tiêu cực và tích cực, khi loài ma có dụng ý điều khiển con người chúng sẽ sử dụng năng lượng đen. Bằng sự tưởng tượng, loài ma sẽ tạo ra năng lượng đen và nó truyền vào cơ thể nạn nhân, lưu trữ ở một nơi được gọi là “trung tâm” – chổ dễ bị tổn thương nhất.

    Sự gia tăng năng lượng đen sẽ tạo ra những rối loạn thể chất (tama-raja) và gây ra các căn bệnh trên cơ thể như viêm phổi, đa nhân cách, rối loạn tinh thần, trầm cảm…

    - Bước 4: Điều khiển nạn nhân

    Khi các năng lượng đen bên trong cơ thể nạn nhân gia tăng, căn nhà thể xác mới của con ma đã được xây xong với tinh thần và trí tuệ của nó. Từ đây nó thỏa mái trở lại cõi trần, đi đứng nói năng suy nghĩ trong hình dáng một người bình thường với tinh thần và nhân quả mới.
  4. tigerstock6868

    tigerstock6868 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/06/2011
    Đã được thích:
    1
    lá số này chồng rất giỏi , và sẽ gặp thời , không như luận giải trên,
  5. tigerstock6868

    tigerstock6868 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/06/2011
    Đã được thích:
    1
    Luận bàn về ma theo quan niệm Phật giáo




    Đức Phật vượt ma chướng
    Tìm hiểu định nghĩa của Ma trong kinh sách

    Ma là gì ? Chữ Ma do chữ Phạn Mâra mà ra. Tiếng Tây tạng là bDud, người Nhật cũng gọi là Ma hay Hajun, tiếng Hán là Mo hay Mó, nhưng người Trung quốc thường âm từ tiếng Phạn và gọi là Ma-la, vần r không có trong tiếng Trung hoa nên người Trung hoa thường gọi là Ma-la thay vì là Ma-ra. Kể dài dòng ra như thế để thấy rằng không phải chỉ có người Việt Nam ta mới « thấy » Ma.

    Kinh sách định nghĩa chữ Ma (Mâra) là « Quỷ sứ cám dỗ », một thứ « Quỷ tinh ranh » tượng trưng cho những xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả.

    Phổ diệu Kinh (Latitavistara), là bộ kinh kể lại cuộc đời của Đức Phật, cho biết Ma đã từng dùng mọi xảo thuật ma quái để quấy nhiễu và cản trở không cho Vị Phật tương lai là Đức Thích-Ca Mâu-Ni đạt được Giác ngộ. Trong đêm trước khi Ngài thành Phật, Ma dẫn ba con ma nữ đến quyến rũ Ngài, lại đưa ma quân đến để ném đá như mưa vào Đức Phật. Tên cầm đầu đòi Đức Phật phải nhường ngai lại cho hắn, vì hắn nhất định bảo rằng không có gì chứng thực Phật đã đạt được Giác ngộ. Phật liền dùng tay phải chạm xuống mặt đất, mặt đất liền bị chấn động và rung chuyển ầm ầm, chứng minh cho sự Giác ngộ đích thực của Ngài. Cả đàn Ma liền biến mất như bị phù phép vậy.

    Như vừa kể trên đây, nếu ta có ma quân…thì ta cũng phải có tên cầm đầu tức là Ma vương. Ma vương cũng là cách dịch khác của chữ Mâra. Ma vương là Vua các loài Thiên ma, ngụ ở cảnh trời gọi là Tha-hoá Tự-tại thiên (Paranirmitavasavartin), tức là cảnh trời thứ sáu trong cõi Dục giới, một cảnh giới thấp nhất trong Tam giới. Ma vương có phép thần thông, chuyên dùng ma thuật để phá rối, ngăn cản sự tu tập của những vị Bồ-tát. Ma vương còn có tên là Ma vương Ba-tuần, tức là tên của Tha-hoá Tự-tại thiên vương.

    Vậy theo Kinh sách, có bao nhiêu thứ Ma tất cả ? Thật ra Ma nhiều lắm, nhưng tựu trung được phân loại ra làm bốn thứ. Có vài khác biệt trong cách định nghĩa của bốn loại Magiữa Thừa Kinh điển (Sutrayana) và Kim cương thừa(Vajrayana). Vì thế nếu đem cộng lại sẽ có đến tám thứ Ma(Bát ma).

    Theo Thừa Kinh điển (Sutrayana) có bốn loại Ma (Tứ ma) là :

    1. Ma cấu hợp (Skandhamara) : đó là thứ ma quái làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân hồi. Con ma đó gọi là « con ma gánh chịu cái chết ». Kinh sách tiếng Hán gọi là Ấm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma.

    2. Ma dục vọng (Klesamara) : bao gồm những dục vọng, ham muốn, thèm khát, xui khiến ta phạm vào những hành vi tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào vòng khổ đau của cõi luân hồi. Đó là « con ma đưa đến cái chết », kinh sách gốc Hán gọi là Phiền não ma.

    3. Ma thần chết (Mrtyumara) : đó là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp của mọi hiện tượng, tức là quy luật Vô thường. Con ma này có tên là « con ma vô thường », kinh sách tiếng Hán gọi là Tử ma.

    4. Ma con trời (Devaputramara) : bao gồm những thứ ma làm cho ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám víu vào ảo giác bên ngoài làm cản trở sự tu học. Đó là « con ma bấn loạn », kinh sách tiếng Hán gọi là Tha-hoá Tự-tại Thiên tử ma, gọi tắt là Thiên ma, tức thần thánh tay sai của Thiên-hóa Tự tại vương.

    Theo Kim cương thừa (Vajrayana) tứ Ma lại được định nghĩa khác hơn :

    1. Ma xiềng xích (tiếng Tây tạng : thogs-bcas-kyi bdud) : con Ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, binh tật và chướng ngại bên ngoài. Đây là con Ma của sự bám víu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Con ma này luôn luôn tìm cách trói buộc ta vào những thứ ấy. Kinh sách tiếng Hán gọi con ma xiềng xích là Phiền não ma.

    2. Ma thả lỏng (tiếng Tây tạng : thogs-med-kyi bdud) : đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức ta và gây ra khổ đau cho ta. Kinh sách gốc tiếng Hán gọi con ma này là Tâm ma.

    3. Ma khánh hỷ (tiếng Tây tạng : dga’-brod-kyi bdud) : đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, thỏa mãn với chính mình, xem ta hơn cả mọi người, xúi dục ta bám víu vào những « kết quả » và « kinh nghiệm » thiền định đã thực hiện được và cho đấy là cao siêu, rồi trở nên hãnh diện, không chịu cố gắng tu tập thêm. Kinh gốc tiếng Hán gọi là Thiện căn ma.

    4. Ma kiêu căng (tiếng Tây tạng : snyems-byed-kyi bdud) : đó là con ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu, tự đại. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái « ta », cái « tôi », cái « ngã ». Kinh sách gốc tiếng Hán gọi là Tam muội ma.

    Có sách (kinh Hoa nghiêm sớ sao) còn phân chia Mara làm mười thứ gọi là Thập ma, trong số mười loại ma này nhiều thứ đã được liệt kê trên đây, tuy nhiên cũng xin kể ra hết theo thứ tự như sau :

    1. Uẩn ma

    2. Phiền não ma

    3. Nghiệp ma : tức các nghiệp tiêu cực ngăn trở việc tu tập.

    4. Tâm ma

    5. Tử ma

    6. Thiên ma

    7. Thiện căn ma

    8. Tam muội ma

    9. Thiện trí thức ma : tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng vì ích kỷ tham tiếc đạo lý ấy mà giữ riêng cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác. Những kẻ như thế cũng được xem là một loại ma.

    10. Bồ-đề Pháp-trí ma : là những kẻ tuy đã phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước không quán thấy được chính đạo.

    Đã nói đến danh từ và định nghĩa thì cũng mạn phép kể ra thêm :

    Ma cảnh : khung cảnh do ma quái tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở người tu hành.

    Ma chướng : những chướng ngại, ngăn chận việc tu hành và sự thăng tiến của trí tuệ.

    Ma duyên : còn gọi là ác duyên, tức là những xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại.

    Ma đàn : là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố thí của những kẻ mang lòng tà, lòng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tại nạn mà bố thí. Loại ma này nhan nhãn chung quanh ta, rất dễ thấy, không cần đến « kính chiếu yêu ». Chữ Ma đànnghịch nghĩa với chữ Phật đàn, tức là bố thí mà không biết là đã bố thí, không biết bố thí cái gì và bố thí cho ai, bố thí chỉ vì lòng từ bi vô biên mà thôi. Bố thí như thế còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.

    Ma đạo : đường đi của ma, chốn lui tới của ma, còn gọi là ma giới, tức cảnh giới của ma.

    Ma lực : sức mạnh tiêu cực, kích động những hành vị xấu hay hung ác.

    Ma ngoại : là những kẻ phỉ báng, chê bai Đạo pháp.

    Ma Phạm : (Mâra hay Brâma) tức là Ma vương ở cõiPhạm vương, gọi tắt là Ma Phạm. Chữ Ma vương đã được giải thích trên đây, đó là Thiên-hoá Tự tại vương, còn Ma Phạmhay Phạm vương hay Phạm thiên vương (Mahabrahma) là vị Chúa tể của cõi Ta-bà, quyền lực của Ma Phạm hay Phạm thiên vương vượt lên vị thế cao nhất trong cõi Dục giới, cai quản và điều hành cả thế giới này. Kinh điển gốc Hán gọi « Ngài » là Ngọc Hoàng Thượng đế.

    Ma thiền : phép thiền định tà mị, sai lầm, liên hệ với ma quỷ, đi ngược với chánh đạo. Ma thuật : nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan, phản khoa học.

    Ma sự : ý nghĩa của ma sự khá rắc rối, đại cương là những sự việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học trên con đường chánh Pháp. Những người thực thi ma sự có thể xem như những con ma chạy theo lục trần : yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống tiện nghi sang trọng. Ma sự cũng là những cám dỗ kích động người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc dục. Ma sự cũng có thể dùng để chỉ người ngồi thiền u mê và ngủ gục, hoặc trụ vào những cảnh hiện ra khi thiền, hoặc cảm thấy bấn loạn trong tâm thức, thấy cảnh dữ mà bỏ thiền… Ma sự cũng dùng để ám chỉ những người đã xuất gia tu hành nhưng còn ham thích luận bàn thế sự, chiến tranh, tình yêu nam nữ, hoặc xu nịnh bọn cư sĩ và bá tánh lui tới chùa có nhiều của cải, cúng dường nhiều, hoặc vướng vào phép bói toán, đoán số mệnh, ếm ma, trừ quỷ…

    Vậy Ma thực sự là gì ?

    Ma hay Mâra là một biểu tượng trong Phật giáo và cả Ấn độ giáo, dùng để chỉ một vị trời hay vị thần đứng vào hàng đầu, cao siêu và mạnh hơn hết, giống như định nghĩa của chữMa Phạm vừa nói trên đây. Tên của Ma có nghĩa là thần chết.Ma là chúa tể của mọi dục vọng, thèm khát, ham muốn, mọi thứ khoái lạc do thân xác. Đó là Chủ nhân ông của thế giới vật chất và hiện tượng. Trọng trách và bổn phận của người Chủ nhân ông này là phải điều khiển và canh chừng sự vận hành của thế giới đang diễn biến chung quanh ta.

    Ma không những tượng trưng cho dục vọng hiển hiện như vừa kể mà còn tượng trương cho những thèm khát tiềm ẩn bên trong ta, không bộc lộ ra ngoài, chúng thuộc về bản năng, có thể phát sinh từ tâm thức mặc dù rất tinh khiết, hoặc từ những nghiệp sâu kín và những cấu hợp của thân xác. Con Manày nằm trong da thịt của ta, trong tâm thức ta, trong sự vận hành của cơ thể ta.

    Ma còn mang một cái tên nữa mà Kinh sách ít nói đến, đó là con ma Ái dục (Kâma, xin đừng lầm lộn với karma), đó là sự yêu mến, lòng yêu thương, nói nôm na là tình yêu. Con maÁi dục ấy là một thứ bản năng, tinh anh của sự sống, luôn luôn « canh chừng » và « chăm lo » cho ta rất cẩn thận. Con Ma đó hiển hiện một cách tuyệt vời, thật đẹp, nó làm phát sinh ra mọi hình tướng, màu sắc và âm thanh đủ loại. Con ma đó hiến dâng cho ta những ảo giác biến động như vửa kể do chính nó tạo ra, kèm theo mọi thứ lạc thú và mọi cảnh giới tuyệt đẹp thuộc vào thế giới luân hồi, và tạo ra mọi thứ hạnh phúc của thế tục.

    Vấn đề mấu chốt và gay go là Ma không bao giờ chú ý đến hậu quả của những thứ mà nó đã tạo ra. Nó rất hào phóng, cho không tiếc tay, « tham » bao nhiêu nó cũng cho, « yêu » bao nhiêu nó cũng khuyến khích thêm, « bám víu » bao nhiêu nó cũng sẵn sàng tiếp tay. Nhưng hậu quả của những ảo giác ấy mà Ma đem tặng cho ta chỉ là khổ đau mà thôi : cướp giật, mưu mô, thất tình, tự tử, lường gạt, đâm chém… Những khổ đau ấy Ma không cần biết. Ma cho ta lạc thú, nhưng đồng thời cũng tập cho ta thèm khát lạc thú. Điều này có nghĩa là Ngũ uẩn quen dần với với những lạc thú, lệ thuộc vào lạc thú và bị kích động bởi lạc thú. Ma vừa là Kẻ sáng tạo và đồng thời cũng là Kẻ phá hoại là như thế đó.

    Khi nhìn Ma dưới khía cạnh này, ta sẽ hiểu ngay là ma ở đâu. Ma ngự trị chính trong đầu của ta. Ma nằm sẵn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và tâm trí ta. Nói cách khác Ma không nằm bên ngoài ta, không có ta thì cũng không có Ma. Ma quân hay những đạo binh ma chính là sự thèm khát nhục dục, thất vọng, buồn bực, đói khát, bám víu, tham lam, chiếm giữ, lười biếng, đờ đẫn, sợ hãi, nghi ngờ, hận thù, tiện nghi, kiêu căng, tự phụ, yêu thương một cách ích kỷ, tự mãn với cái « tôi » của chính mình v.v. và v.v. Tất cả những thứ này được Kinh sách phân ra làm tám thứ hay mười thứ ma : Uẩn ma, Phiền não ma, Tử ma, Thiên ma, Tâm ma, Thiện căn ma, Tam muội ma…như đã đề cập trong phầntrên đây. Nhưng nếu suy nghĩ sâu sa thì ta sẽ thấy Manhiều hơn, đông đảo hơn như thế nữa, Ma hiển hiện cùng khắp trong thế giới luân hồi này.

    Trên đây là những gì Kinh sách nói về Ma, định nghĩa về Ma. Dựa theo đó ta có thể phân loại và tổng kết thành ba loại như sau :

    - Ma tượng trưng những cấu hợp do nghiệp của mỗi cá nhân hay những cảnh huống bất lợi xảy ra bên ngoài : chẳng hạn như ma nghiệp, ma duyên, uẫn ma, ấm ma, ngũ chúng ma, ma chướng, ma cảnh, ma đạo, ma duyên…

    - Ma tượng trưng cho những hành vi sai lầm hay bất chính : ma phiền não, ma khánh hỷ, ma kiêu căng, thiện ma, tâm ma, tam muội ma…

    - Ma tượng trưng cho những chúng sinh thực thi những hành vi sai lầm, tai hại : chẳng hạn như ma phạm, ma vương, những người thực thi ma sự, ma thuật…

    Điều lạ là kinh sách nhiều vô kể nhưng ít thấy nói đến những con ma có thể làm cho ta dựng tóc gáy, hét lên và phóng chạy, hoặc làm cho người ngủ mê kêu ú ớ, tay chân lạnh ngắt và toát mồ hôi đầm đìa. Ta thử tìm hiểu loại ma này xem sao.

    Một thí dụ cụ thể về Ma

    Để tránh cách nói tổng quát, siêu hình như trên đây, ta thử đưa ra một vài thí dụ thực tiễn hơn, đơn giản hơn vể những con ma thường hiện ra dọa nạt những con người bình dị như chúng ta đây, kể cả trẻ con cho đến người lớn. Chẳng hạn khi ta bước vào một căn phòng tối, ta thấy trong một góc phòng có một con Ma, tóc xõa, mặt xanh mét, đang nhe răng trợn mắt,… và cười với ta một cách thật rùng rợn. Nếu ta bình thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con Ma, ta sẽ không thấy nókhi ta đến gần. Vì đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu hay do bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn « không dám » tiến đến gần, ta cứ bật đèn lên, thì con Ma cũng biến mất. Nhưng nếu ngược lại, ta hét lên một tiếng, « vắt giò lên cổ » mà chạy, thì nhất định con Ma sẽ đuổi theo, và nhất định ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn nóđược, vì chính ta cõng nó mà chạy. Nó ở trong đầu của ta, trong thân xác đang « nổi da gà » của ta.

    Tệ hơn nữa, có thể sau đó ta lại đem chuyện « thấy ma » ấy mà vừa thở hổn hển, vừa kể như thật với người khác, tức là ta giới thiệu con Ma mà ta thấy cho một người thứ hai. Người này có thể vừa thích thú vừa sợ sệt mà đón rước nó, đem cất giữ nó vào trong đầu. Người này lại kể cho người thứ ba, người thứ ba lại kể cho người thứ tư. Mỗi lần như vậy thì con ma mà ta thấy trước đây lại trở nên hung tợn hơn và khiếp đảm hơn một chút, mắt nó trợn to hơn, răng nó dài hơn, và nó cười rùng rợn hơn. Biết đâu sau một vòng, người nghe sau cùng lại vô tình kể lại cho ta nghe về con ma ấy, có thể ta còn sợ nó hơn cả con ma mà chính ta đã từng thấy « thật » trước đây.

    Phật có đưa ra một thí dụ dễ hiểu. Khi bước ngang ngưỡng cửa lúc nhá nhem tối, ta thấy một con rắn. Ta hoảng hốt và giật lùi lại. Nhưng nhìn kỹ thì đấy chỉ là một cuộn dây thừng. Con rắn ở trong đầu ta. Con Ma cũng ở trong đầu ta là như vậy.

    Khi ta ngủ mê, ta thường chiêm bao « thấy ma ». Ta hét lên hay la ú ớ…Giật mình thức dậy, ta không thấy con ma nào cả. Khi ngủ, ta nhắm mắt, nằm trên giường và trong gian phòng tối om, làm gì ta có thế dùng mắt mà thấy được. Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, hình ảnh con ma hiện lên từ tiềm thức ta, từ nơi a-lại-da-thức (âlayavijnâna) của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn và tiềm ẩn trong ta, từ những nghiệp sâu kín của ta, từ những ám ảnh bịnh hoạn của ta, từ những đam mê, tham dục của ta, từ những bám víu vào ảo giác, sân hận của ta…Những người tu tập cao, nhất là tu tập theo các phép thiền định của Phật giáo Tây tạng, họ ít chiêm bao hay hoàn toàn không còn chiêm bao nữa, hoặc nếu có chiêm bao thì họ chỉ « thấy » những phản ứng và hành vi của họ thấm đượm lòng tư bi, yêu thương, khoan dung và độ lương trước những cảnh đau thương trước mặt họ, nhưng tuyệt đối họ không còn thấy ma nữa.

    Tóm lại, Ma nằm trong tâm trí ta và tâm thức ta. Tại sao ? Vì Ma chính là Chủ nhân ông của mọi tư duy và hành vi duy ý của ta. Vị Chủ nhân ông ấy tượng trưng cho sự vận hành của nghiệp, cơ sở của sự vận hành ấy là ngũ uẩn (skanha), ngũ uẫn tác động với ngoại cảnh tức là cơ duyên để giúp chonghiệp biến thành quả. Vậy con Ma, hay Vị Chủ nhân ông của ta chính là cái ta, cái ngã, cái tôi đang ẩn nấp trong ta, đang điểu khiển ta. Con Ma đó chính là vô minh, tức những bản năng thú tính, dục vọng, thèm khát, bám víu, sân si, ảo giác…, chúng kích động ta, đẩy ta vào những hành vi với mục đích làm thoả mãn những thèm khát và dục vọng trong ta. Hậu quả đưa đến là khổ đau. Trong đầu ta, Ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ cái tôi, cái ngã của ta, nó rất khôn ngoan và khéo léo, tùy theo từng người, từng hoàn cảnh và trường hợp, nó sẽ dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng những tiếng êm ái, dễ thương, hoặc hét lên the thé…, mục đích để in đậm trong tâm trí ta sự hiện diện của cái ngã.

    Ma là cái ngã đang thống trị ta, làm cho ta tham lam, ích kỷ, nó xúi dục ta, nịnh hót ta, biến ta thành đốn mạt, nói dối và quỷ quyệt. Ma không phải chỉ biết doạ nạt suông mà thôi, nhưng chính những hành vi do Ma xúi dục đã làm phát sinh ra Thế giới luân hồi. Thế giới luân hồi nằm trong sự kiềm tỏa của Ma, đồng thời Ma lại nằm trong tâm thức ta. Đánh đuổi con Ma ấy ra khỏi tâm thức có nghĩa là xoá bỏ cả thế giới luân hồi này. Vì thế có thể nói Ma chính là biểu hiện của luân hồi, của sợ hãi, đọa đày và khổ đau. Ma hay Vô minh tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u mê, lầm lẫn và đau khổ, kích động ta tạo nghiệp, trói buộc ta vào thế giới luân hồi.

    Chu kỳ của sự sống là sự vận hành của bánh xe luân hồi mà động cơ là con Ma trong đầu ta. « Tỉnh thức » hay « Giác ngộ » tức là nhận thức được quá trình đó, sự vận chuyển đó không thật, chúng chỉ là ảo giác, chỉ là Ma. Tóm lại, ta không thể đuổi con Ma ra khỏi phòng, ta cũng không thể chạy trốn nó được, mà ta phải đuổi con Ma ra khỏi đầu. Ta không thể dùng bùa chú, phù phép hay nghi lễ để đuổi Ma. Ta chỉ có thể đuổi Ma bằng tu tập, bằng cách khắc phục Vô minh,mang lại cho ta một tâm linh minh mẫn, an bình, trong sáng và rạng rỡ, không còn bóng dáng một con Ma nào nữa.

    Trừ Ma theo Phật giáo Tây tạng

    Theo sự trình bày trên đây, Ma ẩn nấp trong đầu ta, tu tập tức là tìm cách đánh đuổi con Ma ra khỏi đầu. Lý thuyết là như thế, nhưng đánh đuổi bằng khí giới gì, bằng cách nào ? Xin trích ra đây câu chuyện trừ Ma hay trị Ma của Mật-lặc-Nhật-ba (Milarepa) do Kalou Rinpoché thuật lại trong một quyển sách của ông. Kalou Rinpoché (1904-1989) là một Đại sư Tây tạng rất uy tín đã thuyết giảng trong hai mươi năm liền tại các nước Tây phương trước khi ông qua đời. Mật-lặc-Nhật-ba (1052-1135) là một thánh nhân Tây tạng, đệ tử của Mã-nhĩ-ba (Marpa). Câu chuyện như sau :

    Mật-lặc-Nhật-ba ẩn cư trong một hang động trên Hy-mã Lạp-sơn. Một hôm, khi ông quay vào hang thì bắt gặp một đàn quỷ rất hung tợn đang chờ đợi ông, chúng nhe răng và trợn hai mắt to như hai cái dĩa. Chúng dọa nạt ông, dậm chân làm mặt đất rung chuyển, hò hét thật khiếp đảm. Mật-lặc-Nhật-ba tìm mọi cách để xua đuổi chúng : ông kêu gọi đến sức mạnh của thầy ông là lạt-ma Mã-nhĩ-ba và quán tưởng đến các thần linh phù trợ, nhưng đều không hiệu quả ; ông quay ra hăm dọa lại đàn ma quỷ, tìm mọi cách đánh đuổi chúng. Chẳng những chúng không sợ mà còn chế nhạo ông nữa :

    « Nhìn thấy mi như thế, chúng ta thừa biết mi hoảng sợ lắm rồi. Mi mất hết trầm tĩnh và sự an bình rồi. Ha ! ha ! »

    Mật-lặc Nhật-ba liền tự nhủ :

    « Mã-nhĩ-ba thầy ta có dạy rằng những biểu hiện bên ngoài chỉ là những phóng ảnh của tâm thức, bản chất của tâm thức thật ra là trống không và trong sáng. Nếu xem ma quỷ thuộc bên ngoài tâm thức để mà đánh đuổi chúng ra xa thì cũng giống như là những hành động ảo giác mà thôi ».

    Mật-lặc-Nhật-ba liền hiểu rằng ông không được phép để cho tâm thức bị ám ảnh bởi những biểu hiện như thế, phải giữ tâm thức vững vàng trước những đàn ma quỷ dù cho chúng hung tợn đến đâu cũng thế. Ông cũng quán nhận được rằng ma quỷ chỉ là những bám víu, và những tư duy nhị nguyên phát sinh từ trong tâm thức. Ông bèn hết sợ, chấp nhận sự đối diện với ma quỷ, đồng thời ông phát lộ lòng Từ bi vô biên đối với chúng.

    Ông tự nhủ như sau :

    « Nếu chúng nó muốn ăn thịt ta, ta sẽ hiến dâng thân xác này của ta cho chúng ; sự sống là tạm bợ, đấy chính là một dịp tốt để ta đem thân xác này làm một việc thiện ».

    Thật bất ngờ, thái độ Từ bi và sự quán nhận Tánh không của Mật-lặc-Nhật-ba đã làm nguôi cơn thịnh nộ của đám ma quỷ và tên cầm đầu liền nói với Mật-lặc-Nhật-ba như sau :

    « Chúng ta cứ tưởng là mi khiếp sợ chúng ta ; nào ngờ các ý nghĩ đen tối về ma quỷ không thể nào hiển hiện ra được trong đầu mi, vậy thì mi chẳng có gì để sợ hãi cả ».

    Dứt lời, toàn thể đám ma quỷ đều biến mất.

    Người ta nghĩ rằng ma chỉ có thể hiện ra trong kẹt cửa hay trong những nơi đầy bóng tối, nhưng thật ra thì chúng đang ẩn nấp trong các ngõ ngách u tối phía sau tấm màn vô minh trong tâm thức của mỗi người trong chúng ta. Khi nào chúng ta vun xới tâm thức mình để biến cải nó thành một ngôi vườn đầy hoa thơm và cỏ lạ, tràn đầy lòng Từ bi và rộng lượng, chan hòa ánh hào quang của Phật tính, thì khi ấy trong tâm thức ta tức là ngôi vườn chan hoà ánh sáng đó sẽ không còn có bóng dáng của một con ma nào ẩn nấp.
  6. tigerstock6868

    tigerstock6868 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/06/2011
    Đã được thích:
    1
    Khoa học nghiên cứu về cận tử




    Cận tử - thoát khỏi tay Thần chết?
    Từ lâu, điều bí ẩn về sự tồn tại mối liên hệ giữa con người và những thế giới khác đã trở thành một đề tài hấp dẫn giới khoa học. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi có hay không sự tồn tại ranh giới giữa sự sống và cái chết, hay điều gì sẽ xảy ra với ý thức của con người khi chết đi? Các nhà khoa học đã phát hiện ra những câu chuyện thú vị về các trường hợp bệnh nhân từng trải qua hiện tượng có tên gọi khoa học là “cận tử”.

    Nghiên cứu về các trường hợp cận tử trong nhiều năm qua, các nhà khoa học tại Trường đại học Southampton (Anh) đã tập hợp được nhiều tài liệu giá trị phục vụ việc nghiên cứu khoa học về trạng thái cận tử. Nghiên cứu hơn 1.500 bệnh nhân bị mắc bệnh tim trong vòng 3 năm, mục đích của các nhà khoa học ngoài việc tìm cách điều trị, còn nhằm tìm hiểu về hiện tượng gì sẽ xảy ra khi trong cơ thể con người không còn hoạt động của tim và não. Công trình nghiên cứu này đã thu hút được sự quan tâm của hàng loạt các trung tâm khác nhau tại Mỹ, bao gồm các trung tâm nghiên cứu thuộc các bệnh viện ở Cambridge, Birmingham và Swansea… Tại nơi điều trị cho các bệnh nhân bị bệnh tim trong các trung tâm này, hàng loạt thiết bị máy ghi hình, máy chụp ảnh tự động được lắp đặt nhằm theo dõi những hiện tượng xảy ra đối với bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật. Những bệnh nhân trải qua hiện tượng cận tử sẽ kể lại với các bác sĩ những sự việc mà họ đã nhìn thấy trong khi ý thức rời khỏi cơ thể họ (khi xảy ra những sự việc này, bệnh nhân hoàn toàn ở trong trạng thái hôn mê). Sau đó, những sự việc này được đem so sánh với những hình ảnh đã được ghi lại bằng các thiết bị ghi hình và máy chụp ảnh tự động.

    Theo TS. Sam Parnia – người đứng đầu chương trình nghiên cứu về ý thức con người của Mỹ, thì việc bố trí một cuộc theo dõi và so sánh nêu trên sẽ giúp loại bỏ giả thuyết cho rằng cái chết chỉ là một hiện tượng đơn lẻ. Ông cho biết: Chết không phải là một khoảnh khắc đặc biệt, thay vào đó, nó là một quá trình bắt đầu từ khi tim ngừng đập, phổi ngừng hoạt động, hoạt động chức năng não dần bị suy giảm và ý thức rời khỏi cơ thể con người. Quá trình này nhìn từ khía cạnh sinh học, thì tương tự như khi người ta rơi vào trạng thái chết lâm sàng. Nó có thể diễn ra và kết thúc trong vòng một vài giây cho tới một giờ hoặc hơn thế. Tuy nhiên, trong khi diễn ra cái chết, dưới sự can thiệp của các thiết bị y tế, quá trình này bị cản trở, nhịp tim được phục hồi lại bình thường và quá trình diễn ra cái chết kết thúc, bệnh nhân sống lại. Trong số hơn 1.500 bệnh nhân được theo dõi nêu trên, các bác sĩ cho biết có 10-20% số bệnh nhân từng trải qua hiện tượng tim bị ngừng đập và chết lâm sàng vẫn duy trì được nhận thức tỉnh táo. Trong khi chết lâm sàng, họ vẫn nhận biết được chi tiết các sự việc đã diễn ra xung quanh nơi giường bệnh của mình.

    Heather Sloan – một y tá làm việc tại Southampton (Anh) cho biết: Cô từng bị rơi vào trạng thái cận tử bí ẩn khi bị một cơn sốc do chảy máu nội tạng. Điều cuối cùng mà cô nhớ được là việc cô được đưa vào bệnh viện. Sau đó, cô nhận thấy mình đang đứng cạnh giường của một bệnh nhân. Theo thói quen nghề nghiệp, Sloan bắt đầu tiến hành các thao tác kiểm tra nhiệt độ và huyết áp cho bệnh nhân. Song cô bất ngờ nhận ra rằng bệnh nhân đang nằm trên giường bệnh đó lại chính là cơ thể của mình.

    Cô Heather cũng kể lại rằng: Khi ấy cô có cảm giác như mình đang từ từ bay lên không trung. Phía trên đầu là hàng trăm người đang đứng đợi cô, họ nói cho cô biết rằng cô đã bị mất đứa con nằm trong bụng mình. Y tá Heather bất chợt nhận ra rằng mình đang bị chết. Tuy nhiên, chỉ vài phút sau đó, Heather đột ngột thoát khỏi tình trạng cận tử. Cô dường như quay trở lại với thể xác của chính mình và tỉnh lại. Khi tỉnh lại, các y tá kể lại cho Heather biết là cô vừa bị mất đứa con chưa kịp chào đời, điều mà trên thực tế, cô đã biết trước trong lúc rơi vào trạng thái cận tử. Nghiên cứu của các nhà khoa học đã giúp y tá Heather Sloan hiểu được cảm giác khi ý thức rời khỏi cơ thể cô là một hiện tượng khoa học. Việc người bệnh thường nhìn thấy mình bị rơi vào một đường hầm tối đen và vầng sáng ở cuối đường hầm hay gặp lại những người thân đã quá cố đôi khi chỉ là một ảo giác. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học thì đây vẫn còn là một vấn đề khó lý giải.

    Trường hợp của Gary Williams – một bệnh nhân người Anh là một ví dụ khác về hiện tượng cận tử xảy ra trong bệnh viện. Gary kể lại rằng anh phải trải qua một ca phẫu thuật nguy hiểm vì mắc bệnh tim. Các bác sĩ đã bơm vào cơ thể anh một loại thuốc kháng sinh mà Gary vốn bị dị ứng với nó. Mặc dù trong suốt quá trình tiến hành phẫu thuật, bản thân Gary đã được gây mê và không biết gì, song ngay sau khi hiện tượng dị ứng với kháng sinh xảy ra, anh bỗng nhận thấy dường như anh đang lơ lửng và đang từ từ bay lên không trung, thoát khỏi cơ thể đang nằm bất động của mình. Bệnh nhân cũng cho biết, khi đó anh nhìn thấy chị gái mình đang ở bên cạnh giường bệnh và cầu xin các bác sĩ điều gì đó. Ngay sau đó Gary nhìn thấy các bác sĩ tiến hành tiêm cho mình. Anh bỗng nhiên có cảm giác như mình bắt đầu hạ thấp xuống và quay trở lại với cơ thể đang nằm yên bất động trên giường bệnh. Ngay sau khi tỉnh lại, Gary đã kể lại toàn bộ câu chuyện của mình cho các bác sĩ trực tiếp phẫu thuật cho anh, và các bác sĩ khẳng định rằng hiện tượng mà anh gặp phải chính là một dạng cận tử.

    Trong trường hợp của một bệnh nhân khác sống tại Pari (Pháp), một phụ nữ có tên là Mulholland kể lại rằng bà đã từng chết và cảm nhận thấy cái chết của mình khi tim ngừng đập. Bà thấy mình đang rời khỏi thân thể và từ từ bay lên trần nhà. Trong lúc ấy, mặc dù các bác sĩ khẳng định là cơ thể bệnh nhân đã được gây mê và không hề nhận biết được gì, song khi bà Mulholland kể lại cho họ nghe những gì bà đã nhìn thấy trong phòng phẫu thuật của mình và những gì các bác sĩ đã thao tác trong quá trình tiến hành phẫu thuật cho bà, thì họ vô cùng ngạc nhiên. Bà Mulholland cũng cho biết: Khi đang dần bay lên không trung, bà đã ra sức để với xuống, chỉ vì không muốn xa rời chồng và con gái, nên bà đã cố không để mình rời khỏi cơ thể đang nằm bên dưới. Sau ca phẫu thuật, bà Mulholland đã tỉnh dậy và biết rằng mình đã rơi vào trạng thái cận tử. Tuy nhiên, 3 ngày sau đó, bà không thể vượt qua căn bệnh hiểm nghèo và đã chết thực sự.

    Trong một số trường hợp khác, tác giả của cuộc gặp gỡ và nói chuyện với nhiều trường hợp bệnh nhân từng trải qua hiện tượng cận tử, y tá Shirley Learthart kể lại rằng: Trong suốt 10 năm phục vụ trong các bệnh viện của Anh, bà đã từng tiếp xúc, nói chuyện và nghe rất nhiều câu chuyện từ những bệnh nhân khác nhau bị rơi vào cận tử. Họ không quen biết nhau, song tất cả những câu chuyện mà họ kể về tình trạng họ từng trải qua thì đều có một nội dung khá tương tự nhau. Trong thời gian trải qua cận tử, họ hầu như đều bị rơi vào một đường hầm tối đen với duy nhất một nguồn ánh sáng chói chang ở phía cuối đường hầm. Họ đang tiến về phía ánh sáng ấy, thì bỗng nhiên, như bị kéo trở lại và sau đó thấy mình tỉnh lại.

    Qua các trường hợp thực tế đã xảy ra, hiện tượng cận tử ít nhiều đã được chứng minh về sự tồn tại của nó. Đó là sự tồn tại của ranh giới giữa sự sống và cái chết. Và theo như nhận xét của nhiều nhà khoa học, điều này cũng minh chứng cho giả thuyết: Chết không có nghĩa là “chấm dứt” tất cả, con người chỉ chuyển đổi sang một dạng trạng thái khác, một trạng thái hữu thức, song vô hình mà khoa học vẫn đang tiếp tục đi tìm lời giải đáp.
  7. tigerstock6868

    tigerstock6868 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/06/2011
    Đã được thích:
    1
    Những mẫu chuyện về luân hồi (1)




    Vị Lạt Ma thứ 14 - Một bằng chứng về luân hồi
    Ý niệm về sự luân hồi xuất hiện trong đạo Hồi, đạo Do Thái, Ấn Độ giáo, trong quan niệm của người cổ Hy Lạp, và nhiều vùng miền trên thế giới.

    Theo quan điểm của nhiều người, cuộc sống không kết thúc khi xác thân con người chết đi, mà linh hồn ấy đầu thai trở lại và bắt đầu một cuộc đời mới.

    Đáng ngạc nhiên là không phải chỉ Phật giáo mới có khái niệm luân hồi và ý niệm về sự đầu thai, mà các khái niệm đó cũng tồn tại ở nhiều nơi khác. Ý niệm về sự luân hồi xuất hiện trong đạo Hồi, đạo Do Thái, Ấn Độ giáo, trong quan niệm của người cổ Hi Lạp, và nhiều vùng miền trên thế giới. Điều đáng kinh ngạc là nhiều nhà nghiên cứu cho rằng quyển sách Bible của đạo Thiên Chúa nguyên thủy có nhiều khác biệt so với hiện nay, trong đó từng có cả những nội dung về sự luân hồi đầu thai, nhưng đã bị một số thế lực chỉnh sửa và lược bỏ đi vào khoảng thế kỷ 4 và 5 vì những nguyên do bí ẩn.

    Trường hợp tiêu biểu và nổi tiếng nhất về sự đầu thai và luân hồi chuyển kiếp có lẽ là việc đi tìm Đạt Lai Lạt Ma hay Ban Thiền Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng sau khi các Lạt Ma ấy qua đời. Những vị sư phụ trách việc này tiến hành tìm kiếm đứa trẻ nào sinh ra đúng vào thời điểm qua đời. Họ dựa vào những dấu hiệu và kiến thức đặc biệt của đứa trẻ mà tương hợp với vị Lạt Ma đó khi còn sống, và cả những mô tả của vị Lạt Ma trước khi viên tịch về kiếp sau của mình, để xác định xem đứa trẻ đó có phải là vị Lạt Ma ấy đầu thai hay không.

    Tại các quốc gia phương Tây, các nhà nghiên cứu đã bỏ nhiều thời gian và công sức nghiên cứu hiện tượng luân hồi. Kết quả là: Không ai giải thích nổi tại sao những người “kiếp sau” lại có cách cư xử, thói quen rất giống những người đã khuất, thậm chí biết cả những bí mật riêng tư của họ, có những vết bớt khi mới sinh tương hợp kỳ dị với những vết thương của người đã khuất, hoặc những đứa trẻ đi còn chưa vững đã biết ngoại ngữ, biết làm toán, biết chơi đàn… giống y như những người mà chúng nói là chính chúng trong tiền kiếp, mặc dù không ai chỉ dạy chúng cả. Các kết quả thu được đó đã gây ra luận chiến dai dẳng giữa một bên thừa nhận, và một bên cố gắng phủ nhận hiện tượng luân hồi. Những người thừa nhận nói rằng, cách duy nhất để lý giải bí ẩn này là khoa học buộc phải công nhận hiện tượng luân hồi như một thực tại khách quan hiển nhiên mà thôi.

    Trên thế giới đã có vô số trường hợp về sự đầu thai, gồm những trường hợp lưu truyền trong dân gian, hay được lưu trữ trong các kho tài liệu của các tu viện, các đền thờ, các thư viện và gần đây nhất là trong các Viện nghiên cứu Hiện tượng Luân hồi ở Hoa Kỳ, Ấn Ðộ, Anh, Pháp, Ý, Nga…

    Sau đây là một số trường hợp Luân hồi đầu thai được ghi chép trong lịch sử.



    Đại tướng George Smith Patton

    Trường hợp Đại tướng George Smith Patton

    Đại tướng George Smith Patton (11/11/1885 -21/12/1945) là một trong những viên tướng vĩ đại nhất lịch sử Hoa Kỳ, một nhà chiến lược kỳ tài lừng danh thế giới. Một bộ phim đã được làm năm 1970 để vinh danh ông. Tính ông nghiêm khắc và luôn luôn chủ trương “kỷ luật sắt, kỷ luật là sức mạnh của quân đội”. Người hùng ấy, lạ lùng thay, rất tin vào sự luân hồi. Ông thường bảo: “Cuộc đời và cuộc sống là một vòng tuần hoàn chuyển tiếp. Ðời tôi cũng nằm trong một vòng tuần hoàn chuyển tiếp nào đó”.

    Một sĩ quan cao cấp của quân đội Hoa Kỳ kể lại câu chuyện mà ông nhớ mãi về tướng Patton:

    Hôm đó tướng Patton đến thăm một địa danh lịch sử tại Ý. Ðó là vùng đất nằm cạnh sông Métaure, nơi mà xưa kia, trong trận chiến ác liệt giữa những đoàn quân dũng mãnh của đế chế Carthage và đế chế La Mã, đã để lại trên chiến trường hàng ngàn tử thi, mặc dầu hai bên đều do những chiến lược gia và danh tướng chỉ huy. Hình ảnh bi tráng ấy đã đi vào quá khứ, và cách thời của tướng Patton đến hơn 1800 năm, nhưng khi tướng Patton cùng các tướng lĩnh và một số nhà sử học đến thăm vùng đất này, và thử luận bàn về những chiến thuật và chiến lược của trận đánh ấy thì điều kỳ dị đã xảy ra. Trong khi tướng Patton nghe một viên Đại tá trình bày những địa điểm đóng quân của hai phe Carthage và La Mã, ông nhiều lần tỏ ý không hài lòng. Sau cùng tướng Patton cắt ngang lời viên Đại tá và nói:

    “Xin lỗi Đại tá, mặc dù Ðại tá là chuyên gia nghiên cứu các trận chiến trong cuộc chiến tranh La Mã, nhưng tôi khẳng định rằng đoàn kỵ binh của tướng Hasdrubul trong trận này không phải đóng tại địa điểm đầu kia mà Ðại tá đã trình bày. Tôi quả quyết điều này vì một lẽ rất dễ hiểu là vào lúc ấy, chính tôi đã có mặt tại đó…”

    Và rồi, tướng Patton nghiêm nét mặt, đưa cao chiếc can cầm ở tay lên chỉ về một địa điểm trước mặt và nói thật chậm rãi, rõ ràng:

    “Ðó là địa điểm mà đoàn kỵ binh của Hasdrubul đã đóng quân, và tôi nhắc lại, lúc ấy tôi đã ở đó!…”

    “Nó đây, chiến trường là đây. Những người Carthage đã phòng thủ thành phố trước cuộc tấn công của 3 quân đoàn La Mã. Người Carthage kiêu hùng và can đảm, nhưng họ đã không trụ vững được. Họ đã bị tàn sát. Những người đàn bà A Rập đã lột quân phục, kiếm và những ngọn giáo của họ. Những người lính đã nằm trần trụi dưới mặt trời, 2.000 năm trước đây. Và tôi đã ở đó!”.

    Trong những lần dừng chân nơi chiến trận hay những lúc nghỉ ngơi, tướng Patto thường nói đến những địa danh và những chiến trường cổ xưa mà ông đã từng có mặt, tuy những nơi đó đã đi vào quá khứ xa xăm hay chỉ còn lại trong các pho sử liệu của các thư viện.

    Trong nhật ký của mình, tướng Patton thường ghi lại những cảm nghĩ lạ lùng của mình về kiếp trước. Có đoạn ông viết:

    “Tôi tin là có tiền kiếp và hậu kiếp. Tôi tin, thật ra là tôi biết, rằng tôi đã có ít nhất là một quãng đời trước đây trong binh nghiệp và hiện nay tôi lại đầu thai lần nữa vào đời binh nghiệp”.

    Về sau, nhà văn đồng thời là nhà tư tưởng nổi tiếng Aldons Huxley (26/7/1894 – 22/11/1963) đã trình bày trường hợp của tướng Patton cùng câu chuyện lạ lùng xảy ra trong lần đi thăm chiến trường La Mã cổ xưa ấy, trong một hội nghị quốc tế có chủ đề “Ứng dụng của Khoa tâm lý học” tổ chức lần thứ 14 vào năm 1961. Aldons Huxley phát biểu: “Không riêng gì tướng Patton mà ngay cả chúng ta, đôi lúc ở những thời điểm nào đó trong đời bỗng ta có những cảm giác, những suy nghĩ, cái nhìn kỳ lạ mà ý thức của chúng ta như bỗng nhiên hé mở, có khi ta bắt gặp một hình ảnh, một sinh hoạt, một tiếng nói, một cảnh tượng, một con người mà hình như ta có lần đã thấy, đã nghe, đã ở, đã đi qua, mặc dầu trong cuộc đời chưa bao giờ gặp. Ðó là quá khứ, quá khứ ấy không phải trong một cuộc đời hay nói khác đi là trong “một kiếp” mà là trước đó nữa. Cảm nhận ấy đôi khi vượt ra khỏi những cảm nhận của các giác quan thông thường của con người chúng ta, mà thuộc về quá khứ xa xăm, hay có thể gọi là tiền kiếp”.

    Tờ báo Paris Match danh tiếng đã đăng tải trường hợp của Đại tướng Patton vào ngày 23/3/1989.

    Một số trường hợp khác

    Chaokun Radzh-sutadzharn, sinh ngày 12/10/1908 ở miền trung Thái Lan, tên thường gọi là Choti. Cha cậu tên là Nai Pae, mẹ là Nang Rieng. Ngay khi mới biết nói, cậu bé đã khẳng định mình là Nai Leng, người bác ruột của cậu bé đã mất từ trước khi cậu bé ra đời. Đáng chú ý là cậu có thói quen gõ bàn giống hệt như người bác trai, có thể nói và đọc được các thứ tiếng mà người bác lúc sinh thời từng học, và biết chính xác từng chi tiết một trong cuộc đời ông ta. Sau này Choti đi tu ở một ngôi chùa ở Bangkok và sau đó xuất bản cuốn sách về cuộc luân hồi chuyển kiếp của chính mình.

    Tại làng Nathul, phía bắc Myanmar, cô gái M Tin Aung Myo sinh ngày 26/12/1953 trong một gia đình có 3 chị em gái. Ngay từ nhỏ, cô bé luôn tự xem mình là con trai, và luôn miệng nói rằng mình là người lính Nhật đã bị quân đồng minh bắn chết cách ngôi nhà của cha mẹ cô bé gần 100m. Cô bé rất sợ máy bay, nhất định không chịu mặc quần áo con gái, nói tiếng Myanmar rất khó khăn, thích ăn và nấu các món ăn theo khẩu vị của người Nhật, và luôn buồn nhớ quê hương Nhật Bản. Ma Tin Aung Myo cho biết gia đình trước kia của “cô” ở miền Bắc nước Nhật. Trước khi nhập ngũ, “cô” là chủ một cửa hiệu nhỏ nhưng khi vào quân đội thì làm đầu bếp. Cô sống độc thân không chịu lập gia đình, bởi cô “là đàn ông” và chỉ có thể kết hôn với phụ nữ mà thôi.
  8. Bo_cu_Bin

    Bo_cu_Bin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    25/04/2011
    Đã được thích:
    0
    Nhưng người hành nghề bói toán hay xem tử vi là tiêtlộ thiên cơ, nói chung là nên hạn chế kẻo không tốt cho mình, hoặc vân vào con cháu.
  9. tigerstock6868

    tigerstock6868 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/06/2011
    Đã được thích:
    1
    Những mẫu chuyện về luân hồi (2)




    Nhà thần học Arnall Bloxham
    Nhà thần học Arnall Bloxham

    Arnall Bloxham là nhà thôi miên nổi tiếng người xứ Wales sống giữa những năm 1970, là chủ tịch Hội các nhà thôi miên Anh quốc. Ông đã sử dụng thuật thôi miên để chữa bệnh, hoặc giúp người ta loại bỏ được những thói quen xấu chẳng hạn như hút thuốc. Bằng cách thôi miên, Bloxham có thể giúp một người nhớ lại được thời điểm khi mới sinh ra, và thậm chí trước thời điểm đó. Trong 20 năm, ông đã thôi miên vài trăm người và đã ghi lại những miêu tả về các kiếp trước của họ.

    Những gì diễn ra trong các cuộc thôi miên này làm đảo lộn những quan niệm truyền thống về sự sống. Những người được thôi miên có thể thuật lại, một cách tường tận chi tiết, về cuộc đời của những người đã từng sống hàng trăm năm trước.

    Bloxham đã ghi âm hơn 400 cuộn băng thu lại lời kể về các cuộc đời trước của những người này trong các cuộc thôi miên. Hơn nữa, nhiều sự việc đã được ghi lại một cách rất chi tiết, sau đó được kiểm tra lại trong thực tế, và kết quả đều đúng như những gì họ mô tả. Theo Bloxham, tất cả những điều đó đã chứng minh rõ ràng rằng: Luân hồi là có thật.

    Một trong những trường hợp nổi tiếng nhất mà Arnall Bloxham đã ghi lại là trường hợp của Jane Evans. Vào năm 1971, khi cô thấy một tấm biển có dòng chữ: “Arnall Bloxham nói rằng bệnh thấp khớp là do tâm lý” cô đã rất ngạc nhiên để ý. Jane là một bà nội trợ xứ Wales 32 tuổi mắc bệnh viêm khớp, đã quyết định tìm cách liên hệ với chủ nhân của tấm biển ấy. Cuối cùng cô đã liên lạc được với Arnall Bloxham nhờ một người bạn của chồng cô. Qua các cuộc thôi miên, cô đã nhớ lại được 6 cuộc đời trước đây của mình. Cô đã từng là: Vợ của một gia sư vào thời La Mã; Một người Do Thái bị tàn sát vào thế kỷ thứ 12 ở thành phố York, nước Anh; Người hầu của một thương gia giàu có thời trung cổ ở Pháp; Một tỳ nữ của nữ hoàng Catherine của xứ Aragon (ngày nay thuộc Tây Ban Nha); Một nông dân nghèo ở Luân Đôn dưới thời cai trị của nữ hoàng Anne; Và là một nữ tu sĩ ở Mỹ vào thế kỷ 19.

    Câu chuyện của Jane Evans và vài trường hợp luân hồi khác đã được công bố trong cuốn sách tựa đề “Nhiều Hơn Một Kiếp?” của nhà sản xuất truyền hình BBC – Jeffrey Iverson. Vào năm 1975, để kiểm nghiệm lý thuyết Luân hồi, Iverson đã xin phép Jane để Bloxham thôi miên cô một lần nữa, lần này là trước các máy quay phim và máy thu thanh của truyền hình BBC.

    Iverson đã nghiên cứu kỹ lưỡng về những cuộc đời mà Jane kể lại, và đã xác minh rằng những cuộc đời đó là có thực và các chi tiết được mô tả là chính xác. Cuối cuốn sách, ông nói thành quả 20 năm nghiên cứu của Bloxham đã cho thấy sự luân hồi là một hiện tượng thực tế khách quan. Ông còn sản xuất một cuốn phim tài liệu BBC, có tên “Những cuốn băng ghi âm của Bloxham” dựa trên các tài liệu này.


    Bác sỹ Arthur Guirdham
    Những nghiên cứu của Bác sỹ Arthur Guirdham

    Bác sỹ Arthur Guirdham (1905-1992) là một nhà vật lý, bác sỹ tâm thần học, đồng thời là một nhà văn. Ông đã viết nhiều cuốn sách về các Phương pháp trị liệu thay thế, về Tri giác ngoại cảm và về Luân hồi. Ông từng sống tại Workington, Cumberland, và tốt nghiệp tại trường đại học Oxford, Anh quốc.

    Bác sỹ Authur Guirdham ghi lại nhiều trường hợp luân hồi mà ông đã gặp trong những cuốn sách của mình, “Chúng ta là người khác,”“Những người Cathars và sự Luân hồi”, “Một bàn chân trên cả hai thế giới”. Ông cũng khẳng định rằng mình đã từng là một người theo tín ngưỡng Cathars trong những kiếp trước. Cathars là tín ngưỡng đã tồn tại ở khu vực Languedoc thuộc Tây Nam nước Pháp vào thế kỷ thứ 13.

    Trong cuốn sách “Những người Cathars và sự Luân hồi” xuất bản năm 1970, bác sỹ Guirdham đã kể lại tình huống kỳ lạ đã khiến ông bắt đầu quan tâm nghiên cứu sự Luân hồi. Năm 1962, ông làm công việc của một bác sỹ tâm thần tại khu dành cho bệnh nhân ngoại trú của bệnh viện. Một ngày nọ, bệnh nhân của ông là một phụ nữ có tên thường gọi là Smith, nghi mắc bệnh động kinh. Người phụ nữ này gặp một cơn ác mộng tái diễn nhiều lần từ hồi còn bé. Trong khoảng thời gian đi bệnh viện ấy cô bị những 2 hoặc 3 lần một tuần. Cơn ác mộng đó rất rõ ràng, là về một cuộc đời của cô vào thế kỷ 13 tại Toulouse, Pháp, trong một gia đình quen thân với một thầy tu tên Rogiet de Cruisot. Khi ấy cô là một cô gái nông dân. Cô đã bị thiêu sống trên cột, còn Rogiet de Cruisot thì bị bắt và chết ở trong tù.

    Mặc dù bác sỹ Guirdham vẫn giữ bình tĩnh, nhưng ông vô cùng kinh ngạc bởi chính ông cũng bị một cơn ác mộng giống y như vậy ám ảnh suốt hơn 30 năm qua, chỉ có khác là ông không biết được tên của người đàn ông đó mà thôi. Nhưng ông không nói gì với bệnh nhân. Lạ kỳ thay, từ đó trở đi cô không gặp ác mộng trở lại nữa, rồi cả bác sỹ Guirdham cũng thoát khỏi cơn ác mộng dai dẳng ấy.

    Mặc dù vậy họ vẫn tiếp tục gặp nhau. Bác sỹ Guirdham chắc chắn nữ bệnh nhân này không có vấn đề về tâm thần và những hiểu biết về quá khứ của cô làm ông tò mò. Sau đó cô cho ông một danh sách tên của những người mà cô nói là đã sống vào thế kỷ 13 và mô tả những gì đã từng xảy ra với họ. Cô cũng nói với bác sỹ Guirdham rằng, ông cũng sống vào lúc đó và chính là Rogiet de Cruisot.

    Là một bác sỹ tâm thần, bác sỹ Guirdham đã từng biết qua về hiện tượng luân hồi, nhưng không mấy quan tâm. Tuy nhiên, lần này ông thực sự tò mò, và quyết định bắt đầu nghiên cứu. Ông khám phá ra rằng những cái tên mà người nữ bệnh nhân ấy cung cấp quả thật chính xác, mặc dù những người đó chỉ được nhắc đến sơ sài trong các ghi chép lịch sử từ thời Trung cổ. Tuy nhiên, những ghi chép này được viết bằng tiếng Pháp chứ chưa bao giờ được dịch sang tiếng Anh. Ông đã xác nhận rằng, quả thực có một người đàn ông tên là Rogiet de Cruisot đã bị giết vào năm 1242. Các chi tiết về gia đình từng quen thân với ông ta cũng hoàn toàn khớp. Hơn thế nữa, tất cả những ghi chép riêng của bà Smith chứa nhiều thông tin về các tín đồ và tín ngưỡng Cathar – mà cho đến lúc ấy vẫn chưa học giả nào biết tới – về sau này đã được kiểm chứng là hoàn toàn chính xác.

    Tín ngưỡng Cathar rất hưng thịnh ở miền Nam nước Pháp và miền Bắc nước Ý vào thời Trung cổ. Các tín đồ Cathar tin vào sự luân hồi. Theo thời gian, bác sỹ Guirdham đã gặp được thêm nhiều người nữa, tổng cộng 11 người. Thật đáng kinh ngạc, tất cả họ đều có ký ức tiền kiếp rất khớp nhau, cho thấy rằng họ đã cùng chung sống trong một nhóm tín đồ Cathar hàng trăm năm trước.

    Bác sỹ Guirdham cho biết: Không có đối tượng nào đã được gây mê hoặc thôi miên; những cái tên và các sự kiện quá khứ chỉ đơn thuần xuất hiện trong trí nhớ của họ. Ông cũng công bố một trong những bằng chứng đáng chú ý nhất mà ông thu thập được. Đó là một tập tranh vẽ của một cô bé 7 tuổi, trong đó có những hình vẽ về một thời quá khứ. Tập tranh vẽ cũng viết nhiều tên tuổi các tín đồ Cathar. Quá kinh ngạc, bác sỹ Guirdham nói, “Tôi không thể tưởng tượng nổi, làm sao một đứa trẻ 7 tuổi có thể biết những cái tên này, trong khi tôi chắc rằng không có nhà sử học về thời trung cổ nào ở Anh quốc vào lúc đó biết về những người này”.

    Những ký ức, tên tuổi và các mối liên hệ rõ ràng đã khiến bác sỹ Arthur Guirdham buộc phải tin rằng ông và nhóm của ông đã cùng nhau sống chung, không chỉ một, mà vài đời trước đó. Ông đã nói, “Với 40 năm kinh nghiệm trong y học, hoặc là tôi biết được sự khác nhau giữa khả năng siêu nhiên và bệnh tâm thần phân liệt, hoặc là chính tôi bị tâm thần. Không ai trong nhóm tôi khùng cả – và cũng không có bạn đồng nghiệp nào của tôi cho rằng tôi mất trí”.


    Giáo sư Bác sỹ Ian Stevenson
    Nghiên cứu của Giáo sư Bác sỹ Ian Stevenson

    Giáo sư Bác sỹ Ian Stevenson, thuộc khoa tâm thần học tại Đại Học Virginia là một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới về lĩnh vực Luân hồi (xem phần 1). Ông đã đi khắp thế giới để điều tra nghiên cứu những báo cáo khác nhau về sự luân hồi và đã phát minh ra phương pháp kiểm chứng khắt khe nhằm loại trừ sự gian lận, hiện tượng tiềm ký ức, v.v… Trong 200 trường hợp nghi vấn luân hồi, chỉ có 20 trường hợp qua được chế độ kiểm tra kỹ lưỡng của bác sỹ Stevenson. Có 7 trường hợp xảy ra tại Ấn Độ, 3 trường hợp ở Sri Lanka, 2 trường hợp ở Brazil, 1 trường hợp ở Lebanon và 7 trường hợp của những người da đỏ ở Alaska, Hoa Kỳ.

    Ở đây đơn cử trường hợp của bé gái rất nhỏ, sinh năm 1956 tại miền trung Sri Lanka tên là Gnantilleka Baddewithana. Ngay sau khi cô bé bắt đầu tập nói, cô đã bắt đầu nhắc đến cha mẹ khác, hai anh trai và nhiều chị gái khác của mình ở một nơi khác.

    Từ những chi tiết mà cô bé diễn tả, cha mẹ mới của cô đã tìm thấy một gia đình tại thị trấn cách đó không xa. Họ biết được rằng gia đình này đã mất một đứa con trai vào năm 1954. Khi Gnantilleka được đưa đến thăm họ, cô bé nói mình chính là đứa con trai đã mất của họ và đã nhận diện rất chính xác 7 thành viên trong gia đình của người đã khuất. Cho đến tận lúc đó, hai gia đình chưa bao giờ gặp nhau, thậm chí chưa từng đến thăm thị trấn của nhau.

    Những người hoài nghi có thể phớt lờ và cho sự Luân hồi là ảo tưởng, trong khi những người không tin sự Luân hồi có thể cho là mê tín dị đoan vô căn cứ.

    Từ thời xa xưa, Phật gia và Đạo gia; Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo… đã luôn giảng về sự luân hồi. Họ hiểu rõ mối liên hệ giữa nhân và quả. Họ tin rằng nhân cách của một người trong cuộc đời và tất cả những việc làm tốt hay xấu của người ấy đều được ghi lại. Tính cách sẽ được lưu giữ tới kiếp sau, sướng khổ đời sau sẽ tương xứng với việc làm của kiếp trước. Tri thức của những chủng người cổ xưa vốn chưa thể đo lường được, và chúng ta chỉ có thể sống thật tốt mà thôi.
  10. tigerstock6868

    tigerstock6868 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/06/2011
    Đã được thích:
    1
    khi chưa hiểu được tử vi thì không nên phát biểu , tôi đánh giá anh vượng vicom là người hiểu biết về tử vi và biết thời thế mình đang làm gì và ở đâu , để đưa ra những quyết định đúng đawns trên bước đường đi của mình

Chia sẻ trang này