Nóng trong ngày...

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi hoatimbanglang, 30/12/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
3448 người đang online, trong đó có 148 thành viên. 00:36 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 2 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 2)
Chủ đề này đã có 30842 lượt đọc và 1031 bài trả lời
  1. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Nghịch lý giữa nói và làm về yêu sách “đường lưỡi bò” (06/01/2012)

    Nhiều năm qua, sự trỗi dậy Trung Quốc đi liền với mối lo ngại về cái gọi là "mối đe dọa Trung Quốc” trong cộng đồng quốc tế. Cho rằng thế giới hiểu nhầm mình, Trung Quốc bằng nhiều cách, khi lặng lẽ, lúc ồn ào, cố gắng làm an lòng phần còn lại của thế giới về một chiến lược "trỗi dậy hòa bình” của họ. Cố gắng thuyết phục thế giới hiểu đúng về tham vọng phát triển, nhấn mạnh xây dựng quan hệ đối tác thực sự dựa trên sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thế nhưng hành động của Trung Quốc, nhất là trong vấn đề Biển Đông lại buộc thế giới phải đặt những dấu hỏi nghi ngờ.

    Từ yêu sách "đường lưỡi bò” ngang ngược áp đặt "chủ quyền không thể tranh cãi” lên hầu như gần trọn Biển Đông, "phớt lờ những giới hạn luật pháp được quy định bởi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982” như nhận xét của các chuyên gia quốc tế, đến những hành động thực tế mang tính gây hấn trên Biển Đông, Trung Quốc đã phá vỡ cam kết "giữ nguyên trạng”, "không làm căng thẳng tình hình” mà nước này đã ký năm 2002 với các quốc gia ASEAN trong Tuyên bố về cách Ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC).

    Có thể nói tại Biển Đông, từ cuối thập niên 1990 tình hình từng được cải thiện theo hướng hòa dịu, nhất là sau khi Trung Quốc ký Hiệp định Phân định ranh giới trong Vịnh Bắc Bộ với Việt Nam vào năm 2000 và DOC với ASEAN vào năm 2002. Tuy nhiên, bên dưới bề mặt có vẻ yên ổn này cán cân lực lượng vẫn không ngừng chuyển dịch. Trung Quốc, một mặt tăng cường hiện đại hóa hải quân và các lực lượng chấp pháp biển, hoàn thiện chiến lược biển, hệ thống pháp luật, thể chế quản lý và bảo vệ biển; mặt khác nhất quyết thực hiện "hai không” (không quốc tế hóa, không đa phương hóa tranh chấp), chỉ đàm phán song phương nhằm khoét sâu vào sự khác biệt về lợi ích giữa các thành viên ASEAN, tìm cách áp đặt "gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác”, biến những vùng không có tranh chấp thành có tranh chấp và dần dần tiến tới việc áp đặt "chủ quyền không thể tranh cãi” của họ theo đúng yêu sách "đường lưỡi bò”. Trong điều kiện nhiều qui định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) không được tôn trọng thì về bản chất đây không phải là "trò chơi cùng thắng” được quảng bá rầm rộ, mà là kiểu cờ vây. Trong đó đối phương do mất dần thế cân bằng chiến lược nên bị dồn vào chỗ phải "gác lại tranh chấp”, tức là đánh đổi quyền tài phán để lấy hòa bình, rồi sau đó phải chấp nhận "cùng nhau khai thác”, tức là đánh đổi nốt quyền chủ quyền nếu muốn khai thác tài nguyên biển để phát triển. Hậu quả là trong gần một thập niên kể từ năm 2002, tiến trình đàm phán ASEAN - Trung Quốc về việc nâng cấp DOC thành Bộ Quy tắc ứng xử (COC) hầu như dẫm chân tại chỗ, khuôn khổ an ninh Biển Đông ngày càng trở nên lỗi thời, tụt hậu, không phù hợp với tương quan lực lượng mới.

    Lấy UNCLOS 1982, một văn kiện pháp lý cơ bản về biển đã được 161 quốc gia phê chuẩn và tham gia, trong đó Trung Quốc là quốc gia thứ 92 phê chuẩn và tham gia Công ước năm 1996, làm cơ sở thì có thể nói là yêu sách "đường lưỡi bò” của Trung Quốc hoàn toàn vô nghĩa vì không có một chút giá trị pháp lý nào. Nếu như Trung Quốc thực sự có chủ quyền lâu dài, liên tục với "vùng nước lịch sử” là "đường lưỡi bò” trên Biển Đông thì chắc chắn rằng vấn đề này đã phải được bàn cãi rất mạnh mẽ trong quá trình xây dựng Công ước từ năm 1973 đến 1982, phải được UNCLOS ghi nhận, và hẳn là Trung Quốc không phải đợi đến năm 2009 mới thông báo cho thế giới biết yêu sách này.

    Trên thực tế, yêu sách "đường lưỡi bò” của Trung Quốc sau khi công khai đã vấp phải những phản ứng mạnh mẽ của không những các nước liên quan đến Biển Đông như Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Philippines mà còn từ các nước đứng ngoài tranh chấp chủ quyền nhưng có lợi ích thương mại, hàng hải đối với Biển Đông như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ. Đây là những quốc gia có lợi ích bị ảnh hưởng trực tiếp bởi yêu sách "đường lưỡi bò” mà Trung Quốc ngang nhiên áp đặt, bất chấp những chuẩn mực trong quan hệ quốc tế, bất chấp những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bất chấp cả những mâu thuẫn về lịch sử, mâu thuẫn về cơ sở pháp lý và kỹ thuật thể hiện trên bản đồ mà Trung Quốc không thể và không bao giờ có thể giải thích được để dư luận quốc tế có thể chấp nhận được. Đòi hỏi ngang ngược của Trung Quốc được khẳng định bằng những ngôn từ chắc chắn như "chủ quyền không thể tranh cãi” hay "lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc ở Biển Đông, lúc công khai, lúc mập mờ, hoàn toàn không dựa trên những lập luận hay bằng chứng xác thực, sẽ trở thành những điều bất lợi cho chính bản thân Trung Quốc khi quốc gia này đang cố tạo dựng hình ảnh tốt đẹp về một nước Trung Quốc đang trỗi dậy hoà bình, một quốc gia có tiếng nói và vị thế trong quan hệ quốc tế.
    Tình hình trở nên căng thẳng hơn kể từ giữa năm 2009, khi Trung Quốc liên tục "gây chuyện” trên Biển Đông bắt đầu bằng việc công khai yêu sách "đường lưỡi bò” trong một công hàm gửi Liên Hợp Quốc. Trung Quốc đã có những hành động thực tiễn nhằm áp đặt yêu sách hoang đường này bất chấp luật pháp quốc tế và sự phản ứng của các quốc gia khu vực, như xây dựng đơn vị hành chính trên Biển Đông, đơn phương cấm đánh bắt cá, bắt giữ và đòi tiền chuộc với các tàu cá của các quốc gia Đông Nam Á, va chạm với tàu Mỹ, xây dựng cơ sở hải quân khổng lồ ở đảo Hải Nam, tổ chức tàu tuần tra, tập trận không quân và hải quân trong khu vực tranh chấp... Những hành động ngày càng leo thang của Trung Quốc đơn phương áp đặt yêu sách "đường lưỡi bò” đã làm căng thẳng tình hình Biển Đông.

    Từ đầu 2011, các tàu và máy bay Trung Quốc đã liên tục xâm phạm vùng biển và vùng trời của một số quốc gia láng giềng ven Biển Đông. Trung Quốc mặc dù liên tục trong nhiều năm áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm và thực hiện các biện pháp chống lại tàu cá của ngư dân Việt Nam thế nhưng tàu cá và tàu tuần tra của Trung Quốc đã hình thành một hàng rào kiểm soát vây quanh các khu vực đánh cá gần quần đảo Hoàng Sa và thậm chí xuống đến tận quần đảo Trường Sa. Trong suốt thời gian Trung Quốc ra lệnh cấm đánh bắt, tàu cá Trung Quốc lại đi vào vùng biển Việt Nam với số lượng nhiều hơn trước đây. Số lượng tàu cá của Trung Quốc hoạt động giữa Đà Nẵng và quần đảo Trường Sa dao động từ 120 – 150 và thỉnh thoảng lên tới 200 chiếc liên tục trong mùa "cấm đánh bắt cá” của Trung Quốc đang có hiệu lực với ngư dân Việt Nam.

    Cùng lúc đó, giới truyền thông Trung Quốc trong tháng 6 và tháng 7-2011 liên tục tuyên bố về chuyện "sẵn sàng dạy cho Việt Nam một bài học” bằng vũ lực. Điển hình là tờ Thời báo Hoàn Cầu (phụ trang của Nhân Dân Nhật Báo) thường xuyên cho lưu hành nhiều bài báo xuyên tạc, bôi nhọ Việt Nam, kích động tâm lý chống Việt Nam trong dư luận. Gần đây, tờ Thời báo Hoàn Cầu còn lớn tiếng đe doạ Philippines và Việt Nam "chuẩn bị để nghe tiếng đại pháo” trên Biển Đông. Tờ báo này còn có bài bình luận doạ rằng nếu các nước láng giềng không kiềm chế trong vấn đề Biển Đông thì sẽ sớm xảy ra xung đột quân sự.

    Cũng trong tháng 6-2011, Trung Quốc đã tổ chức cuộc diễn tập chống tàu ngầm ngoài khơi đảo Hải Nam, một trong sáu cuộc diễn tập quy mô lớn do Hải quân Trung Quốc tổ chức trong năm 2011. Giữa lúc tình trạng căng thẳng trong khu vực liên quan đến các cuộc tranh chấp trên biển ngày càng tăng và Mỹ có những động thái nhằm khẳng định sức mạnh ở Thái Bình Dương, ngày 6-12-2011, một nhà lãnh đạo Trung Quốc đã kêu gọi hải quân nước này chuẩn bị chiến đấu. Từ đầu năm 2011, nhiều dấu hiệu cho thấy Trung Quốc ngày càng đầu tư nhiều cho hải quân để có thể mở rộng phạm vi hoạt động ra bên ngoài Thái Bình Dương. Giới quan sát gần đây cũng chú ý tới việc hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc chạy thử lần thứ hai hồi tuần trước. Con tàu dài 300 mét, được tu bổ từ một tàu cũ của Liên Xô trước đây, lần đầu tiên ra mắt hồi tháng 8-2011, khiến một số quan sát viên lo ngại về tiềm lực hải quân của Trung Quốc. Tiềm lực ngày càng tăng của Trung Quốc và đặc trưng bản chất của yêu sách lãnh thổ của nước này đã biến Trung Quốc ngay lập tức trở thành quốc gia quan trọng nhất có yêu sách trong việc hoặc giải quyết tranh chấp lãnh thổ hoặc biến tranh chấp này thành xung đột vũ trang. Điều đáng chú ý là Trung Quốc lại luôn tự cho mình là một quốc gia cam kết giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ thông qua các biện pháp ngoại giao. Theo đó, Trung Quốc cho rằng mình luôn luôn giữ lập trường kiềm chế, bình tĩnh và mang tính xây dựng và luôn tích cực kiếm tìm giải pháp để giải quyết tranh chấp Biển Đông. Công bằng mà nói thì Trung Quốc cũng đã thể hiện sự tích cực kiếm tìm giải pháp để giải quyết tranh chấp lãnh thổ, nhưng luôn luôn theo điều kiện của Trung Quốc – chủ nghĩa song phương.

    Mặc dù Trung Quốc tham gia ký tuyên bố chung với ASEAN trong việc duy trì nguyên trạng ở Biển Đông, ý đồ ngoại giao của Trung Quốc thực ra là muốn lôi kéo các quốc gia khác có yêu sách vào bàn đàm phán song phương và ngăn chặn bất kỳ hình thức giải quyết có sự tham gia của bên thứ 3 nào thông qua các thủ tục của UNCLOS hay bất kỳ tổ chức quốc tế nào khác. Điều này rõ ràng được thể hiện qua phản ứng tức thì và gây tranh cãi của Trung Quốc trước phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ Hillarry Clinton tháng 7-2010 tuyên bố lợi ích của Hoa Kỳ trong việc giải quyết tranh chấp. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì ngay lập tức bác bỏ đề xuất của Ngoại trưởng Clinton, cho rằng Mỹ không nên quốc tế hóa tranh chấp này. Ông tuyên bố mạnh mẽ rằng bất kỳ tranh chấp lãnh thổ nào liên quan đến Biển Đông nên được giải quyết song phương và không nên có sự tham gia của cộng đồng quốc tế. Ông còn lập luận rằng tranh chấp Biển Đông nên được giải quyết qua đàm phán song phương giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng, hơn là giữa Trung Quốc và ASEAN. Ông tuyên bố "Biến một vấn đề song phương thành một vấn đề quốc tế hay đa phương sẽ chỉ làm xấu đi tình hình và gây thêm nhiều khó khăn”. Có thể thấy rõ ưu tiên tiếp cận song phương hơn là đa phương của Trung Quốc trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông bắt nguồn từ các nguyên do: 1) sự coi nhẹ nói chung của Trung Quốc đối với các chuẩn mực của các quy tắc hàng hải và luật quốc tế được chấp nhận rộng rãi; 2) sẽ dễ dàng hơn cho một cường quốc như Trung Quốc bắt nạt và lừa phỉnh các quốc gia nhỏ hơn để Trung Quốc có thể một mình nắm lấy các đảo san hô, các tuyến đường biển và tài nguyên thiên nhiên.

    Vài ngày trước thềm Hội nghị thường niên ARF 2011 ở Jakarta, Trung Quốc và ASEAN đã ký được thỏa thuận về bản hướng dẫn nhằm mục đích thực hiện Tuyên bố về cách Ứng xử của các bên trên Biển Đông 2002. Tuy nhiên, thỏa thuận này chỉ là một phần của DOC năm 2002 bởi lẽ nó không thể đứng một mình. Mặc dù Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì tuyên bố rằng Trung Quốc sẵn sàng ký Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) vào một thời điểm thích hợp, các quan chức các nước Đông Nam Á vẫn không thôi nghi ngờ về điều đó. Đông Nam Á đơn giản không tin là Trung Quốc đã có sự thay đổi về thực chất.

    Có thể nói, việc sút giảm lòng tin này là hệ quả của việc Trung Quốc đã từ bỏ các chính sách ôn hòa như trước đây, thay vào đó trở nên quyết đoán và mang tính dân tộc chủ nghĩa nhiều hơn khi tuyên bố vị thế đang nổi lên của Trung Quốc và yêu sách "chủ quyền không thể tranh cãi” của họ đối với Biển Đông. Đồng thời với việc sử dụng sức mạnh hải quân ngày càng tăng của Trung Quốc để hỗ trợ cho yêu sách ngang ngược rằng Biển Đông là "vùng nước lịch sử” của họ.

    Nhóm PV Biển Đông


    http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1501&chitiet=44779&Style=1
  2. TuGan

    TuGan Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/11/2010
    Đã được thích:
    112
    Tết đến nơi rồi nên mới bận ?
    Còn ngày thường ... ở truồng hay sao ?
    Hỏi thiệt , Bằng Lăng đừng có giận !
    Bận gì ... là bận cái gì nào ?
    Mùa đông bận áo cổ cao !
    Quần len đủ ấm kẻo đau bây giờ !

    Hơ hơ ...

    :)):)):)):)):)):)):)):)):)):)):)):)):)):))

  3. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142


    [-X[-X[-X[-X[-X^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^
  4. TuGan

    TuGan Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/11/2010
    Đã được thích:
    112

    Thêm ảnh Su-30 Việt Nam diễn tập chiến đấu


    Cập nhật lúc :9:04 AM, 02/01/2012
    Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, ngày cuối năm 2011, Binh đoàn Cửu Long đã tổ chức diễn tập bắn đạn thật tại trường bắn khu vực III thuộc tỉnh Đồng Nai.

    (ĐVO) Dưới đây là thêm một số hình ảnh buổi diễn tập:

    [​IMG]
    Biên đội 2 Su-30 làm nhiệm vụ chi viện hỏa lực cho lực lượng bộ binh, tăng thiết giáp tấn công cứ điểm quân địch.

    [​IMG]
    Một chiếc Su-30 trút bom.​

    [​IMG]
    Xe tăng T-54/55 cùng bộ binh tiến công địch.​

    [​IMG]
    Đơn vị bộ binh tiến quân.​

    [​IMG]
    Pháo 100mm xe tăng yểm trợ hỏa lực cho đơn vị ta tiến công.​

    [​IMG]
    Pháo phản lực phóng loạt BM-21 Grad khai hỏa.​

    [​IMG]

    Mục tiêu bay bị các khẩu đội pháo phòng không 37mm - 57mm bắn hạ ngay trong loạt đạn đầu.

    [​IMG]
    Thiếu tướng Nguyễn Hoàng, tư lệnh Binh đoàn Cửu Long trao quà cho các đơn vị diễn tập tốt.
  5. TuGan

    TuGan Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/11/2010
    Đã được thích:
    112
    Độc thân cho khỏe cái thân !
    Gặp người tri kỷ thì mần la phanh !
    Già rồi , nói thế cho nhanh !
    Trẻ trung chi nữa mà xanh tím hồng ?
    Bằng Lăng muốn có bé bồng ?
    Tú Gân mai mối có chồng liền tay !
    @TALATA đó chớ ai ?
    Chịu chưa ? Để Tú tính ngày rước dâu ?

    ;));));));));));));));));));));));));));));));))

  6. TuGan

    TuGan Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/11/2010
    Đã được thích:
    112
    Miền Trung tui nói như rứa đó !
    Hà Nội gọi là mặc ấy mà !
    Bận yếm , bận quần , bận áo gió ...
    Trời dông nhớ bận áo mưa nha !

    Hà hà !!!

    =))=))=))=))=))=))=))=))=))
  7. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Biển Đông là sinh mệnh của Trung Quốc trong tương lai

    Thứ tư, 04 Tháng 1 2012 00:00

    Trong bài viết đăng trên Tuần báo “Tin tức Trung Quốc", Trịnh Vĩnh Niên, trưởng phòng nghiên cứu Đông Á thuộc trường Đại học công lập Xinhgapo, cho rằng trên thực tế, Biển Đông không chỉ là vấn đề chủ quyền, mà còn là sinh mệnh của Trung Quốc. Một khi đánh mất Biển Đông, ưu thế địa hải dương của Trung Quốc có thể không tồn tại, sẽ không thể tránh khỏi phải trở thành một quốc gia lục địa.

    Đối với Trung Quốc, tầm quan trọng của Biển Đông là điều không phải nghi ngờ. Một số người nói Biển Đông là lợi ích quốc gia của Trung Quốc, hoặc nói ở mức độ cao hơn là lợi ích quốc gia cốt lõi, vì nó liên quan tới vấn đề chủ quyền của Trung Quốc. Nhưng trên thực tế, Biển Đông không chỉ là vấn đề chủ quyền, mà còn là sinh mệnh của Trung Quốc. Một khi đánh mất Biển Đông, ưu thế địa hải dương của Trung Quốc có thể không tồn tại, sẽ không thể tránh khỏi phải trở thành một quốc gia lục địa. Vì sao có thể nói như vậy? Mặt phía Đông của Trung Quốc đã có khối đồng minh vững chắc Mỹ-Nhật-Hàn. Liên minh này lấy Mỹ làm thủ lĩnh, đã trở thành cơ chế hoá cao độ. Sau khi đảng Dân chủ Nhật Bản lên cầm quyền (năm 2009), Thủ tướng Nhật Bản Hatoyama khi đó đã tính toán theo đuổi quan hệ tương đối cân bằng với Mỹ, tuy nhiên đã sớm thất bại. Thất bại của Chính quyền Hatoyama đã cho thấy bất cứ một Chính phủ Nhật Bản nào cũng khó có thể thay đổi hiện trạng cơ chế hiện nay trong quan hệ Nhật-Mỹ. Sau sự kiện “tàu Cheonan” của Hàn Quốc bị đánh chìm tại vùng biển Hoàng Hải, xu hướng liên minh Mỹ-Nhật-Hàn được tăng cường. Liên minh này có ý nghĩa gì đối với Trung Quốc? Thứ nhất, Trung Quốc rất khó có thể thông qua phía Đông để trở thành quốc gia hải dương. Thứ hai, Nhật Bản, Hàn Quốc có thể lợi dụng liên minh này để tăng cường lợi ích bản thân, từ đó làm tổn hại lợi ích của Trung Quốc. Ví dụ Nhật Bản có thể tăng cường năng lực đàm phán của mình trong vấn đề Đông Hải. Nhật Bản quyết định tiến hành “quốc hữu hoá” những vùng biển có tính tranh chấp như đảo Điếu Ngư (Senkaku) chính là nhằm tranh thủ liên minh Mỹ-Nhật-Hàn hiện nay đang có lợi cho cục diện của Nhật Bản. Sau khi xảy ra sự kiện đảo Điếu Ngư gần đây, quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ cũng cho thấy rõ ý đồ của Nhật Bản trong vấn đề này. Thứ ba, liên minh này cũng có thể cấu thành mối đe doạ an ninh trực tiếp đối với Trung Quốc. Trong thời kỳ Chính quyền Bush (con), Mỹ đã hoàn thành ý đồ bố trí “tiểu NATO” tại châu Á, thông qua sự điều chỉnh lớn về chiến lược để nâng cao năng lực tấn công và phá hoại “các quốc gia thù địch” trên phạm vi toàn thế giới.
    Mặt phía Tây Nam của Trung Quốc có Ấn Độ Dương. Ấn Độ Dương là phạm vi thế lực tranh chấp tất yếu của Ấn Độ. Trung Quốc và Ấn Độ Dương không có đường giao thông trực tiếp, hiện nay Trung Quốc muốn thông qua Mianma để mở đường qua Ấn Độ Dương. Điều này cho thấy Trung Quốc hầu như không có hy vọng thông qua Ấn Độ Dương để trở thành quốc gia hải dương. Vì tại vùng biển này tồn tại quá nhiều nhân tố không xác định. Thứ nhất, quan hệ giữa Trung Quốc và Mianma. Mianma là một quốc gia chủ quyền cũng mong muốn tìm kiếm lợi ích quốc gia lớn nhất, vì vậy Mianma duy trì quan hệ qua lại giữa Trung Quốc và Ấn Độ, thậm chí cả Mỹ. Thứ hai, quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Ấn Độ cũng là một nước lớn đang trỗi dậy, đồng thời có tinh thần dân tộc chủ nghĩa cao độ. Phái cứng rắn trong nước luôn coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh và “kẻ thù tiềm tàng”. Ấn Độ không dễ dàng cho phép Trung Quốc biến Ấn Độ Dương thành tuyến đường biển quốc gia. Thứ ba, quan hệ Ấn-Mỹ. Một khi Mỹ coi Trung Quốc là đối thủ, vậy thì Ấn Độ rất dễ ngả theo Mỹ. Quan hệ giữa Mỹ và Ấn Độ mấy năm gần đây có những tiến triển mang tính thực chất, hơn nữa hợp tác và phối hợp quân sự đa phương cũng bắt đầu được thúc đẩy, trong đó có hợp tác quân sự Mỹ, Nhật, Ấn. Vì vậy, đối với Trung Quốc, hy vọng duy nhất trở thành quốc gia hải dương nằm ở Biển Đông. Vì sao nói Biển Đông là sinh mệnh của Trung Quốc trong tương lai? Hiện nay, khi người Mỹ đề cập đến vấn đề an ninh và ổn định hàng hải tại Biển Đông, hầu như quyền phát ngôn đều nghiêng về phía Mỹ. Trên thực tế, điều này lẽ ra phải thuộc quyền phát ngôn của Trung Quốc. Bất luận được coi là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu hay là một nước lớn phụ thuộc cao độ vào nhập khẩu tài nguyên, an ninh hàng hải tại Biển Đông đã quyết định vấn đề kinh tế Trung Quốc có thể vận hành bình thường hay không. Trong vấn đề Biển Đông, Đặng Tiểu Bình từng đề xuất chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” là nhằm tạo ra một môi trường quốc tế hoà bình cho xây dựng kinh tế trong nước của Trung Quốc. Trong môi trường quốc tế hiện nay, cách đề cập này lại có những hàm nghĩa mới, thậm chí còn quan trọng hơn. Rõ ràng, mối đe dọa đối với việc vận hành hệ thống nền kinh tế có thể trực tiếp đe dọa đến đời sống thường nhật của mỗi người dân Trung Quốc, vì vậy nó có hàm nghĩa xã hội và chính trị hết sức sâu sắc.
    Mặc dù, tình hình Biển Đông hiện nay không hoàn toàn đến mức như một số người nói là “gươm súng sẵn sàng”, nhưng nếu không thể nhìn thẳng vào hiện thực, tình hình tương lai tất yếu sẽ ngày càng nghiêm trọng. Đối phó với thách thức này như thế nào? Đây chính là câu hỏi đầu tiên: Tình hình Biển Đông bắt nguồn từ đâu? Chỉ có lý giải nguồn gốc, mới có thể tìm được phương pháp để kiểm soát và giải quyết vấn đề. Rõ ràng, cục diện Biển Đôn ghiện nay không phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của quá trình lịch sử. Trên thực tế, đối với các nhà quan sát cục diện Biển Đông, xuất hiện tình hình hiện nay hoàn toàn không bất ngờ, mà đều nằm trong dự báo. Mọi người đều rõ tính phức tạp lịch sử của vấn đề Biển Đông. Hiện nay, các nước đều đang tìm kiếm chứng cứ lịch sử có lợi cho mình, nhưng khách quan mà nói, nếu giải quyết vấn đề xuất phát từ căn cứ lịch sử có thể là một sứ mệnh không thể thực hiện. Đặc điểm chủ yếu của vấn đề Biển Đông là chỉ có thể giữ quyền kiểm soát và quản lý, chứ không thể giải quyết. Chính vì vậy, khi đó Đặng Tiểu Bình mới đưa ra ý tưởng hiện thực chủ nghĩa là “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Dưới sự chỉ đạo của tư tưởng này, Trung Quốc đã có những nỗ lực rất lớn trong bình diện song phương với các nước có liên quan khác trên vấn đề Biển Đông, nhưng hiệu quả không lớn. Các nước liên quan hầu như không có động lực và động cơ lớn để thực hiện hợp tác với Trung Quốc. Trong quá trình này, Trung Quốc đã quên mất một vấn đề đưa ra: vì sao các nước liên quan không có động lực và động cơ hợp tác? Nguyên nhân có lẽ cũng rất rõ ràng, sức ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các nước này chưa đủ, hoặc có thể nói, các quốc gia này cho rằng không cần thiết phải đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự. Thật ra, so với Trung Quốc, những nước liên quan đến Biển Đông khác có thể nói là nước nhỏ. Lo lắng bản năng của các nước nhỏ này lại chính là đơn độc đối diện với một nước lớn, cho dù nước lớn đó có nhiều thiện ý. Vì thế, những nước này đã chuyển hướng sang chủ nghĩa đa phương. Đối với những nước này, mong muốn đa phương hoá là nhằm ràng buộc hành vi của Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân khiến một số nước nhỏ luôn cố gắng đưa vấn đề Biển Đông vào khung đa phương của ASEAN trong nhiều năm qua. Lần này, dưới sự ủng hộ của Mỹ, những nước này bắt đầu được toại nguyện. Mặc dù, Trung Quốc hoàn toàn không chấp nhận chủ nghĩa đa phương trong vấn đề này, nhưng phân tích cụ thể, cách làm này cũng phù hợp với lợi ích của Trung Quốc. Cho dù đa phương không thể giúp giải quyết vấn đề, nhưng đa phương là một sự ràng buộc đối với tất cả các nước liên quan. Hoặc có thể nói, nếu đa phương trói buộc Trung Quốc, vậy thì các quốc gia liên quan khác cũng bị trói buộc. Trong bối cảnh song phương không thể giải quyết, quan hệ đa phương chính là cơ chế hữu hiệu duy trì cục diện hoà bình tại Biển Đông. Trung Quốc hoàn toàn không muốn đa phương hoá vấn đề Biển Đông, cho rằng đa phương hoá có thể khiến vấn đề trở nên phức tạp. Mặc dù lo ngại của Trung Quốc không hẳn không có lý nhưng vấn đề ở chỗ quan hệ song phương không có tiến triển trong suốt thời gian dài.
    Ngoài đa phương hoá, các quốc gia liên quan cũng cố gắng khiến vấn đề Biển Đông trở thành “quốc tế hoá”, một số nước (Việt Nam và Malaixia) đã đưa khu vực tranh chấp lên Toà án quốc tế, hy vọng thông qua sự can thiệp của tổ chức quốc tế để giải quyết vấn đề. Trung Quốc đương nhiên cũng không mong muốn đi theo con đường này. Trong bối cảnh song phương không giải quyết được vấn đề, Trung Quốc lại không chấp nhận “đa phương” và “quốc tế hoá”, vậy phải giải quyết thế nào? Vấn đề này đã phát triển thành “chính trị hoá nước lớn” như hiện nay, tức sự can dự của Mỹ. Một khi “chính trị hoá nước lớn” xuất hiện, sẽ đẩy cục diện Biển Đông trở nên khó lường hơn bao giờ hết. Bất luận là quan hệ song phương, quan hệ đa phương hay là quốc tế hoá, nếu có thể giải quyết vấn đề, các quốc gia Đông Nam Á đều có thể chấp nhận. Mặc dù, không phải tất cả các quốc gia Đông Nam Á đều có tranh chấp với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, song Việt Nam, Malaixia, Philíppin… đều là thành viên của ASEAN, các nước thành viên khác có nghĩa vụ và trách nhiệm phải quan tâm. Nhưng “chính trị hoá nước lớn” lại không như vậy. Rất nhiều quốc gia Đông Nam Á đều có quan hệ rất khăng khít với cả Trung Quốc và Mỹ, hai nước Trung-Mỹ cùng chung sống hoà bình là lợi ích lớn nhất của các quốc gia này, nhưng một khi hai nước Trung-Mỹ xảy ra xung đột, một số nước sẽ đứng trước vấn đề là ngả về bên nào, điều này sẽ diễn ra giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Chính vì vậy, trong vấn đề Biển Đông, “chính trị hoá nước lớn” hoàn toàn không phải là lợi ích lớn nhất của các quốc gia Đông Nam Á./.
    Theo Tuần báo “Tin tức Trung Quốc”
  8. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142

    À à à ........


    ^:)^^:)^^:)^^:)^^:)^
  9. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Tàu sân bay Trung Quốc sẽ sớm hoạt động
    05/01/2012 13:48

    (TNO) Tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc nhiều khả năng sẽ chính thức được đưa vào hoạt động năm nay, theo tường thuật của truyền thông Trung Quốc.

    Đài truyền hình vệ tinh Phượng Hoàng ở Hồng Kông hôm 4.1 đã dẫn nguồn từ tạp chí Jingbao Yuekan (Kính báo Nguyệt san) cho biết con tàu nặng 67.000 tấn cải tạo từ tàu sân bay của Liên Xô “đủ điều kiện để chính thức hoạt động sau khi giải quyết được vấn đề kỹ thuật liên quan đến việc cất cánh và hạ cánh trên con tàu thông qua ba chuyến chạy thử”.

    Đài này bổ sung rằng thời điểm chính thức để con tàu nhận nhiệm vụ vẫn chưa được quyết định song nhiều khả năng là trong năm nay.


    Hình ảnh tàu sân bay của Trung Quốc trong chuyến chạy thử vào tháng 11 từ vệ tinh - Ảnh: Reuters

    Theo tờ Chosun Ilbo, tàu sân bay của Trung Quốc đã thực hiện ba chuyến chạy thử vào tháng 8, tháng 11 và cuối tháng 12 năm ngoái.

    Trong chuyến chạy thử thứ hai kéo dài gần hai tuần, một số chiến đấu cơ J-15 đã cất cánh và hạ cánh thành công trên con tàu, theo tờ Jingbao.

    Trước đó, một số tạp chí quân sự nước ngoài tường thuật vào tháng 11 rằng Trung Quốc gặp khó khăn khi giải quyết vấn đề hạ cánh vì Nga không bán cho họ thiết bị hãm cần thiết cho việc hạ cánh an toàn.

    Tuy nhiên, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân phát biểu trong cuộc họp báo hằng tháng vào ngày 28.12 rằng vấn đề trên đã được giải quyết.

    Ông Dương nói Trung Quốc “đã có được mọi thiết bị lớn cần thiết cho tàu sân bay”, bao gồm thiết bị hãm thông qua việc tự nghiên cứu và phát triển. Tờ Jingbao nói một đội kỹ sư Ukraine đã tham gia phát triển thiết bị hãm.

    Tờ này cũng tường thuật rằng quân đội Trung Quốc có kế hoạch xây dựng ba căn cứ dành cho tàu sân bay, với hai căn cứ đặt tại biển Đông và biển Hoa Đông đã được khởi công.
  10. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Bái Bai bác nhé, BL đi ngó nghiêng một chút.....[};-
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này