Quyết tâm cao nhất bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hải đảo - tập 10- Biển Đông - Ngôi nhà chung của chúng

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi hoatimbanglang, 19/10/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
4488 người đang online, trong đó có 359 thành viên. 07:28 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 43562 lượt đọc và 1115 bài trả lời
  1. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Bush: Mỹ là mục tiêu số 1 của Trung Quốc, tiếp theo là Ấn Độ

    Thứ năm 10/11/2011 09:57
    (GDVN) - Cựu Tổng thống Mỹ George W Bush hôm 8/11 đã đưa ra một cảnh báo thẳng thừng tới Ấn Độ về những thách thức từ Trung Quốc.


    Mỹ là mục tiêu số 1 của Trung Quốc


    "Mỹ là mục tiêu số 1 của Trung Quốc, tiếp theo sẽ là Ấn Độ" - nhận xét này được cựu Tổng thống Mỹ đưa ra tại một bữa tối bí mật vào tối ngày 8/11 với sự tham gia của nhiều giám đốc điều hành của các tập đoàn kinh doanh có tiếng ở Mỹ như Chủ tịch HDFC Deepak Parekh và Chủ tịch Ngân hàng ICICI KV Chairman KV Kamath, ICICI Lombard and Fairfax Financial Holdings - một Tập đoàn bảo hiểm sở hữu tới 26% số công ty bảo hiểm tại Ấn Độ.

    [​IMG]Cựu Tổng thống Mỹ George Bush
    Mục đích và địa điểm khách sạn, nơi tổ chức bữa tối thân mật trên giữa cựu Tổng thống Mỹ và các nhà kinh doanh lớn trên cũng được giữ bí mật với giới truyền thông.

    Pakistan

    Tại sự kiện trên, cựu Tổng thống Mỹ George W Bush đã đưa ra cảnh báo với Ấn Độ về những thách thức từ Trung Quốc và tình hình nước Mỹ hiện nay cũng như quan điểm cho rằng nước Mỹ đang rất kiên nhẫn vỡi Pakistan.

    "Nếu Mỹ không kết bạn với Pak (Pakistan), Pak sẽ trở nên nguy hiểm hơn. Nhưng bây giờ, sự kiên nhẫn của Mỹ là boe qua tất cả" - tờ Times of India của Ấn Độ đưa tin cho biết.

    Quan hệ với Nga

    Trong quá trình thảo luận tự do, Tổng thống Bush cũng đề cập tới một số chủ đề quan trọng khác như cảnh báo các doanh nhân Mỹ không bao giờ làm ăn với người Nga; cho rằng EU sẽ muốn có một diện mạo hoàn toàn khác trong 5 năm tới và đồng EU vẫn sẽ còn trụ vững.

    Iran

    "Nếu Iran đi sau Israel, Mỹ sẽ đi sau Iran" - ông Bush nói khi đề cập đến những căng thẳng tại Trung Đông về chương trình vũ khí hạt nhân của Iran. "Trong khi làm nên lịch sử, thời gian là quan trọng nhất" - ông nói thêm.


    Nguyễn Hường (Theo TimesofIdia
  2. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Trung Quốc thừa nhận đã đánh giá thấp mức độ ô nhiễm

    Thứ bảy 12/11/2011 08:40
    (GDVN) - Chính phủ Trung Quốc hôm 11/11 đã hứ hẹn sẽ đưa ra bản đánh giá chính xác hơn về mức độ ô nhiễm môi trường.

    Tình trạng ô nhiễm không khí tại Bắc Kinh trong những tháng gần đây đã diễn biến xấu đi đáng kể đã buộc một quan chức cấp cao phải thừa nhận rằng các đánh giá trước đó đã không chính xác.

    Zhang Lijun, Thứ trưởng Bộ Môi trường của Trung Quốc, cho biết: chất lượng không khí ở Trung Quốc rất thấp so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới và thừa nhận rằng mức độ ô nhiễm ở Bắc Kinh công bố trước đó đã được đo theo hệ thống tiêu chuẩn cũ.

    [​IMG]Đám mây bụi ô nhiễm phía trên thành phố Bắc Kinh
    Hua Lei, Phó giám đốc của trung tâm giám sát thành phố Bắc Kinh nói với hãng thông tấn Tân Hoa Xã: "Chúng tôi hy vọng động thái mới có thể xoa dịu những lo ngại của công chúng".

    Một lớp khói mờ màu vàng nâu đã bao phủ thành phố Bắc Kinh ngày 10/11 với chỉ số ô nhiễm không khí trong thành phố ở mức 84.

    Trong khi đó, kết quả đo đạc của một trạm giám sát tại đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh được công bố trên mạng iternet cho thấy có sự chênh lệch lớn với kết quả do các nhà chức trách Bắc Kinh công bố.

    Hôm 10/11, máy cảm biến đo lượng hạt bụi có trong không khí ở Đại sứ quán Mỹ cho thấy chỉ số ô nhiễm không khí ở Bắc Kinh ở mức 229/500 - vượt 2 lần mức tiêu chuẩn an toàn hay "rất không lành mạnh".

    Những hạt bụi nhỏ có trong không khí có thể đi qua phổi vào máu người làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim hoặc ung thư phổi, đặc biệt ở người già và trẻ em.

    Ô nhiễm không khí nghiêm trọng tại Bắc Kinh trong những tháng gần đây đã gây ra làn sóng giận dữ trên internet của người dân.

    Một số nhân vật nổi tiếng ở Trung Quốc cũng đã lên tiếng đề nghị chính phủ áp dụng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường chặt chẽ hơn.

    Sự cố trên đã gây ra làn sóng bất bình trong dân chúng Bắc Kinh buộc các nhà chức trách phải thừa nhận sai sót trong quá trình đo đạc và hứa hẹn sẽ "cố gắng đo lường chuẩn xác hơn".


    Nguyễn Hường (Theo Telegraph)
  3. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    [​IMG]
    Sứ mệnh tối hậu của Nga: chết cho Mỹ
    Cách đây chưa lâu, nhà chính trị học Mỹ nổi tiếng tên là Edward Lyuttvak, người rất thân cận với các thành viên đảng Cộng hoà của Mỹ, đã trình trình bày ở Moskva một bài giảng. Nhân danh là chuyên gia, Lyuttvak lớn tiếng tuyên bố, rằng sắp tới giới cầm quyền chính thức ở Mỹ sẽ không còn thích nói một cách ngoại giao: “Chính sách Lớn giờ đây đã đảo ngược. Các yếu nhân của chính sách ấy không còn là Mỹ và Nga, mà là Mỹ và Trung Quốc. Theo đó, lập trường của Nga sẽ phải khác đi so với lập trường và chiến lược của họ trong thời chiến tranh lạnh. Theo đà phát triển của xung đột giữa Trung Quốc và Mỹ (mà xung đột ấy tất yếu sẽ xẩy ra, chí ít là vì những lý do kinh tế: Trung Quốc sẽ tăng trưởng, mà Mỹ thì không thể nhường vị trí hàng đầu cho Trung Quốc một cách dễ dàng), cả hai phía đều có ý đồ cân nhắc lại các đồng minh của mình. Một số nước đã tự phân chia trong nội bộ. Ví như Trung Quốc thì có Pakistan, còn Mỹ lại có Ấn Độ, và ở chuyện này, Mỹ lợi hơn Trung Quốc. Trung Quốc có Bắc triều Tiên, Mỹ lại có Nam Hàn. Mỹ có Nhật Bản, còn Trung Quốc có ý đồ thắt chặt quan hệ với các nước trong khu vực. Chắc chắn sẽ diễn ra một cuộc chiến lớn để giành giật nước Nga. Và khi ấy, Moskva phải rời bỏ cái hiện thực mà hiện nay họ đang kỳ vọng để trở về với hiện thực đích thực. Nga cần rũ bỏ thái độ tiêu cựu vô bổ trong quan hệ với Mỹ. Thái độ ấy không phù hợp với lợi ích của bản thân nước Nga. Lịch sử chưa kết thúc. Nhưng cái giai đoạn nghỉ hơi, ngủ vùi đánh dấu sự trầm lắng trong chính sách đối ngoại ở những năm gần đây thì đã kết thúc. Sắp tới sẽ có những thay đổi lớn, và nước Nga phải chuẩn bị đối mặt với nó”.
    Thế tức là nhà chính trị học người Mỹ đã tiên đoán số phận của Nga phải trở thành đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến chống Trung Quốc. Chẳng những thế, theo ông ấy, việc Nga rốt cuộc thế nào rồi cũng trở thành một đồng minh như vậy là điều hiển nhiên, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Một điều nữa cũng thú vị, là chính “Câu lạc bộ thủ cựu” - cánh cực tả của đảng “Nước Nga thống nhất”[1] đã mời mọc, tháp tùng Lyuttvak đến Moskva. Trên phụ trương của tờ “Báo độc lập”, những nhân vật nắm trọng trách cao nhất của cánh này là Mezuev và Remezov đã không dấu giếm sự thán phục dành cho nhà chính trị học người Mỹ này. Tức là, giới cầm quyền của nước Nga có vẻ như ra mặt tán thưởng cái vị thế mà họ được đặt vào đấy trong một ván bài địa chính trị cực lớn.
    Liệu Nga có vì lợi ích của Mỹ mà chiến đấu chống lại Trung Quốc hay không? Tạm thời, nhà chính trị học người Mỹ chưa muốn trả lời câu hỏi ấy. Nhưng Lyuttvak nói toạc ra rằng, bây giờ trên thế giới có những phương pháp tác động tới đối thủ tiềm năng hữu hiệu hơn, ấy là những trò chơi ngoại giao phức tạp. Chẳng những thế, Lyuttvak còn tỏ ý thán phục chính sách ngoại giao của Hy Lạp ở cái thời rất xa chúng ta và kêu gọi giới cầm quyền Mỹ sử dụng các phương pháp của “La Mã Đệ Nhị”. Ông ta đã dẫn ra Afghanistan để làm ví dụ. Theo quan điểm của ông, nếu cuộc chiến chống lại nước này giá không phải do Mỹ, mà do các nước láng giềng khác của Afghanistan , ví như Uzbekistan, tiến hành, thì sẽ hay hơn, đúng hơn.

    Hãy chia rẽ, đầu độc và thống trị

    Một trong những kế sách của trò chơi ngoại giao được vay mượn từ Hy Lạp xa xưa là đầu độc “những bộ lạc, thị tộc xung quanh nước đại bá”. Chính sách lược này đã giúp đế chế Hy Lạp chống lại những kẻ thù rất lớn, như quân Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Arap, Polovtses và quân Tarta - Mông Cổ. Rõ ràng, qua sự phân tích của Lyuttvak, người đang tán thưởng kinh nghiệm của Hy Lạp, chúng ta sẽ phải hiểu, là thì cần tạo ra một khu vực bất ổn thường xuyên xung quanh Trung Quốc.
    Phía Tây Trung Quốc đã có một khu vực bất ổn như thế, và rõ ràng khu vực này từng tồn tại từ rất lâu, ấy là vùng Tân Cương, nơi cư trú của những người Hồi giáo, cũng như nước Afghanistan du mục và vùng Trung Á với những xung đột sắc lộc lúc nào cũng sẵn sàng tách ra (trước hết là vùng thung lũng Ferghana). Những cú chích như kim đâm của các “bộ tộc bán khai” kia thoạt nhìn hình như cũng có một ý nghĩa nào đó đối với Trung Quốc chăng? Xin chớ quên, Trung Quốc “ngồi” rất vững trên khối hơi đốt khổng lồ của Turkmenistan (đường ống từ Turkmenistan mới lắp đặt gần đây, hàng năm đã vận chuyển được tới 30 tỉ mét khối), và khu Tân Cương đang là một trong số những “bể dầu lửa” chính yếu của Trung Quốc. Cụ thể, nguồn dự trữ dầu mỏ ở khu vực tự trị này là 21 tỉ tấn (chiếm 30% nguồn dự trữ của Trung Quốc), khí đốt 1,1 nghìn tỉ mét khối (34% nguồn dự trữ của cả nước). Hàng năm có thể khai thác ở Tân Cương 10 triệu tấn dầu mỏ và 22 tỉ mét khối khí đốt. Hãy hình dung xem, chuyện gì sẽ xẩy ra với Trung Quốc nếu vì một cuộc “cách mạng cam” hay một cuộc chiến tranh khủng bố kéo dài mà nguồn năng lượng khai thác được ấy bị mất đi.

    Hai tử huyệt của Trung Quốc

    Có thể nói, năng lượng và thực phẩm là hai tử huyệt của Trung Quốc. Hiện nay, hàng năm Trung Quốc khai thác được trên toàn lãnh thổ của mình 185 - 200 triệu tấn dầu lửa, cộng với gần 170 - 180 triệu tấn nhập khẩu. Theo khối lượng nhập khẩu thực phẩm, Trung Quốc là nước đứng hàng thứ 4 trên thế giới, mà mức độ nhập khẩu đồ ăn thì không ngừng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Chẳng hạn, theo dự toán, đến năm 2015, Trung Quốc hàng năm sẽ phải mua của Mỹ 25 triệu tấn ngô, hiện nay nhập khẩu đậu tương chỉ 4 đến 5 triệu tấn, nhưng 5 năm nữa, họ phải nhập vào khoảng 12 đến 15 triệu tấn. Trong tình hình phức tạp chung, hiện nay, Trung Quốc phải nhập từ nước ngoài 20% thực phẩm, đến năm 2015, con số ấy sẽ tăng lên 30%.
    Mọi thứ nhiên liệu còn lại, như quặng sắt, kim loại màu, gỗ, phân bón v.v…, Trung Quốc cũng phụ thuộc vào nhập khẩu như vậy. Nếu việc nhập khẩu nhiên liệu bị đình đốn, thời gian mà Trung Quốc có thể trụ vững chỉ tính được bằng tháng, sau đó sẽ là các cuộc nổi loạn của những kẻ đói khát, công nghiệp ngừng hoạt động và vì khủng hoảng năng lượng , cả nước chỉ còn lại là đêm tối theo nghĩa đen của nó.
    Tình thế trở nên trầm trọng, vì giao thông của Trung Quốc rất yếu, nó phải vận hành trong một giải tương đối chật hẹp qua vùng biển Đông Nam Á: dầu lửa từ vùng Cận Đông qua eo biển Malacca rất hẹp, thực phẩm và quặng sắt thì qua quần đảoIndonesia. Hạm đội của Mỹ, hiện đang mạnh hơn hàng chục lần (nếu không nói là hàng trăm lần) so với hạm đội của Trung Quốc, có thể chặn đứng những huyết mạch giao thông ấy, và như thế, khiến cho tình huống ở Trung Quốc trở nên đặc biệt trầm trọng. Nga chính là vùng lãnh thổ duy nhất mà hiện thời Mỹ chưa thể tạo ra “khu vực bất ổn” bên cạnh Trung Quốc và là nơi mà Mỹ không thể kiểm soát dòng nhiên liệu đổ vào đất nước này.

    Nga - kho nhiên liệu “bình ổn” cuối cùng của Trung Quốc

    Phân bón, gỗ, kim loại từ nước Nga đang đổ vào Trung Quốc. Nhưng “trái nho” ngọt nhất trong số hàng hoá giao thương giữa Nga với Trung Quốc là dầu lửa. Vào năm 2010, theo tuyến VSTO (tiếng Nga: “ВСТО” chữ viết tắt, chỉ hệ thống đường ống dẫn dầu từ Đông Xibiri qua Thái Bình Dương của Nga.- ND), Nga đã đưa lô dầu đầu tiên qua Trung Quốc, hiện thời mới chỉ hơn 1 triệu tấn. Nhưng theo kế hoạch của VSTO thì, 10 năm tiếp theo, lượng dầu chuyển tới Trung Quốc sẽ tăng lên 15 – 20 triệu tấn. Và nếu tính sau này, đường vận chuyển có thể đi qua Kazastan, thì đến năm 2030, tổng sản lượng xăng dầu Nga xuất khẩu qua Trung Quốc hàng năm sẽ là: 90 triệu tấn dầu và 11 đến 12 triệu tấn sản phẩm chế từ dầu mỏ, tức là, theo hạn ngạch hiện nay, nó sẽ chiếm 50% số dầu Trung Quốc phải nhập khẩu (về cơ bản , hiện nay dầu nhập vào Trung Quốc phải đi qua Vịnh Ba Tư). Nếu mọi sự diễn ra đúng như vậy, thì Trung Quốc sẽ đa dạng hoá việc nhập khẩu nhiên liệu và giảm bớt đáng kể việc vận chuyển theo đường biển.
    Mở đầu bài viết chúng tôi đã nhắc tới việc nhà chính trị học Mỹ kêu gọi giới lãnh đạo Nga hãy nhanh chóng trở thành đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến chống Trung Quốc. Và một số chuyên gia đã hoài nghi về những tuyên bố chính thức, cho rằng nguyên nhân xung đột hiện nay giữa Nga và Nhật là tranh chấp lãnh thổ ở phía Bắc. Rõ ràng, từ phía đông - bắc, mối căng thẳng tiềm ẩn này - có thể phát triển thành những hành động quân sự mang tính cục bộ - đang kéo cả phía nam vào một giải dưới dạng một cuộc chiến tranh còn tiềm ẩn - giữa Nam Hàn và Bắc Hàn. Tình trạng căng thẳng trong quan hệ Nga - Nhật tăng lên cùng với cuộc đàm phán của Bộ Quốc phòng Nga về việc chuyển giao cho Hạm đội Thái Bình Dương hai tàu “Mistral” của Pháp (chứa đầy SAM - 400 đến quần đảo Kuriles). Hiệp ước trên nguyên tắc về việc này, cuối cùng, đã được Igo Sechin ký ở Pháp, nhưng sau đó thì bắt đầu xẩy ra chuyện lộn xộn.
    Nhưng không sao, mặc kệ những vụ đụng độ của tàu chiến trên Biển Nhật Bản và chiến tranh giữa hai miền Nam - Bắc Triều Tiên. Có điều, dầu dẫn vào Trung Quốc hiện nay vẫn cứ được lắp đặt ở trên cạn - vượt qua Đông Sibiri và miền Viễn Đông hoang vắng. Và đó chính là cái phần khác mà Lyuttvak muốn kết nối vào “Chiến lược Ba Tư” - chiến lược “hoà bình và ngoại giao”.
    Ai cũng biết, vào đầu những năm 2000, nhân vật lobbyist chính cho việc vận chuyển dầu vào Trung Quốc bằng toa xi-tec theo đường sắt là Mikhail Khodorovski. Anh ta bây giờ ở đâu? Trong tù! Và ai cũng biết, bây giờ ngài Phó Thủ tướng Igo Sechin đã giật lấy vai trò vận động hành lang từ tay Khodorovsi - khác nhau chỉ là ở quy mô: chuyển dầu bằng Đường Ống. Lần này, làm thế nào để ngăn chặn những ý tưởng ấy của nước Nga. Con đường đúng nhất là phế bỏ Igo Ivanovich Sechin ra khỏi chiếc ghế quyền lực (nhân thể nói thêm, diện mạo cực kỳ tồi tệ của ông ấy, giọng điệu cay độc mà người ta dùng để nói về tính trạng bệnh tình trầm trong của Sechin, liệu có phải gắn với điều này không?). Bằng cách này hay cách khác, chắc chắn là Mỹ có ý đồ ngăn chặn Nga thực hiện các kế hoạch vận tải dầu hoả với khối lượng khổng lồ cho Trung Quốc. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, nếu họ kêu gọi tách vùng Viễn Đông và Đông Sibiri ra khỏi Nga - để những khu vực đó chuyển vào tay người giám hộ mới là Nhật, đồng minh trung thành của Mỹ.

    Giải bất ổn bao trùm toàn bộ khu vực Đông - Nam Á

    Chúng tôi đã nhắc tới cái ổ bất ổn ở phía Tây Trung Quốc. Ổ bất ổn Đông - Bắc và vòng vây có thể có từ phía bắc, cũng đã nói rồi. Vậy thì ở phía nam, tây - nam và đông - nam Trung Quốc, tình hình diễn ra như thế nào?
    Trong cuốn “Dầu lửa. Hơi đốt. Hiện đại hoá xã hội” của Trường Đại học Kinh tế mới xuất bản năm 2010, người ta đã vạch ra “những điểm mang bệnh” chạy từ Trung Quốc xuống phía nam. Nhưng trước hết, muốn hiểu tình huống ở phía này, lại phải dẫn ra đây lời nói của JohnMearsheimer, giáo sư ngành quan hệ quốc tế trường “Đại học Chicago”: “Nỗ lực của Trung Quốc đang dẫn tới các xung đột trong khu vực. Mỹ không có ý định giữ thái độ ngoài cuộc, chẳng phản ứng gì. Trung Quốc được tiếp nhận như một cường quốc, một đối thủ cạnh tranh chiến lược, trong quan hệ với Trung Quốc, cần phải áp dụng chính sách kìm hãm”.
    Về vai trò của Ấn Độ như một đồng minh của Mỹ, nhà chính trị học Lyuttvak cũng đã nói ở trên. Nhưng, với vai trò là đồng minh của Ấn Độ trong việc ghìm chân Trung Quốc, - mà điều đó cũng có nghĩa là đồng minh của Mỹ - ngày nay cần phải kể thêm Việt Nam. Đầu năm 2000 Ấn Độ và Việt Nam đã tiến hành những bài huấn luyện hải quân chung tại biển Đông, sang năm 2001 hai nước đã ký hiệp ước về hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu hạt nhân (đến 2015, Việt Nam có thể sẽ sở hữu quả bom hạt nhân đầu tiên của mình ).

    Ấn Độ, Việt Nam, Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản - đó là những kẻ thù truyền kiếp và bất cộng đái thiên của Trung Quốc. Nhưng liệu các nước này có cả gan gây xung đột công khai, trực tiếp với một nước láng giềng hùng mạnh hay không? Các tác giả cuốn “Dầu lửa. Khí đốt. Hiện đại hoá xã hội” đã dẫn ra vô khối những cuộc xung đột tiềm ẩn hoặc âm ỷ mà không tạo ra bất ổn trong khu vực và không dẫn tới chiến tranh trực tiếp giữa các quốc gia ấy.
    Miến điện: Nước láng giềng ở phía nam Trung Quốc, một quốc gia suốt từ những năm 1940 đến nay chưa có lúc nào đượcc ổn định. Ba phần tư dân cư của nước này thuộc các dân tộc thiểu số, trong đó, người Karen được xem là bộ phận thiện chiến nhất. Người Karen đã lập nên một nhà nước không được thừa nhận ở phía nam Miến Điện. Phía bắc Miến Điện, sát đường biên giới với Trung Quốc, còn hai quốc gia không được thừa nhận của hai bộ tộc Shan và Kachin. Hiện nay, giữa chính phủ trung ương của Miến Điện và ba quốc gia không được thừa nhận trên lãnh thổ của nó vẫn duy trì được quan điểm trung lập. Nhưng chẳng ai nghi ngờ rằng, chỉ cần một sự “lạc nhịp” mạnh bạo nào đó trong việc tranh giành biên giới, chiến tranh ở Miến Điện sẽ bùng nổ vào bất cứ thời điểm nào. Tình hình còn phức tạp hơn, bởi ở nước láng giềng Trung Quốc, có tới mấy triệu dân cư trú, đại diện cho các bộ tộc đã xây dựng ba nhà nước nói trên. Và không thể loại trừ khả năng, xung đột vũ trang sẽ lan sang các vùng rừng núi của Trung Quốc.
    Thái Lano biểnMalacca, nơi mà 70% hàng nhập khẩu của trung Quốc phải đi qua.: Nước này có một trung tâm căng thẳng cực lớn, chiếm hẳn một phần phía nam, ấy là tỉnh Pattani. Cư dân ở đây chủ yếu là tín đồ Hồi giáo. Phải đến những năm 1970, chiến tranh du kích ở khu vực này mới chấm dứt. Những chiến dịch trấn áp của chính quyền diễn ra ở Pattani vào giữa những năm 1980. Nhưng đến 2004, tại tỉnh này lại nổi lên một nhóm du kích quân cực mạnh – “Phong trào Hồi giáo Mujahideen tỉnh Pattani”. Cần lưu ý, tỉnh này nằm ngay ở cửa ngõ của e

    Indonesia: Các nhà chính trị học thường gọi nước này là một “kết cấu nhân tạo”. Người ta tính được ở nước này có tới 17 nghìn hòn đảo, hàng chục bộ tộc cư trú, nhưng chính quyền thì bao giờ cũng do “tộc người Java” nắm giữ. Tỉnh Aceh được xem là vùng xung đột dữ dội nhất. Từ cuối những năm 1970, nhóm du kích cấp tiến “Phong trào giải phóng Aceh” hoạt động rất tích cực. Khẩu hiệu cơ bản của họ giống như khẩu hiệu của những phần tử ly khai ở các nước sản xuất nhiên liệu: “Chính quyền Trung ương chỉ để lại cho chúng ta 5% lợi nhuận dầu hoả và khí đốt. Chúng ta yêu cầu tỉ lệ ngược lại: 95% cho tỉnh, 5% cho Trung ương”. Trong vòng hai chục năm gần đây, đã có tới 15 nghìn người thiệt mạng trong các cuộc chiến tranh cục bộ. Cuối cùng, năm 2006, chính quyền Trung ương phải nhượng bộ, hiện nay, họ buộc phải giành cho Aceh 70% lợi nhuận dầu hoả và khí đốt, và hợp pháp hoá “Phong trào” (và ngay lập tức lại, chính quyền trung ương lại giành chiến thắng trong các bầu cử ở địa phương). Nhưng bộ phận du kích cấp tiến vẫn tiếp tục yêu cầu phải dành cho họ 95% lợi tức hoặc phải được độc lập hoàn toàn.
    Vùng thứ hai thường xuyên có vấn đề của Indonesia là TâyPapua (con đường huyết mạch chuyển quặng và thực phẩm từ Australia về Trung Quốc phải đi qua vùng biển của hòn đảo này). Ở đây, cuộc đấu tranh du kích đang diễn ra dưới hình thức của một cuộc đấu tranh đòi lợi nhuận nhiên liệu - tại tỉnh này có những khu mỏ khai thác vàng khổng lồ, và “trung tâm liên bang” cũng giành về phần mình 95% lợi nhuận từ việc khai thác vàng. Năm 2006, chính phủ cũng tăng quyền tự trị tương đối rộng rãi cho Tây Papua, nhưng du kích quân địa phương không muốn dừng lại ở đấy và yêu cầu độc lập hoàn toàn.
    Đông Timor là tỉnh rất lớn của Indonesia đã giành được quyền độc lập sớm nhất. Không loại trừ khả năng, thông qua hoạt động táo bạo từ phía bên ngoài, cuộc “cách mạng cam” ở Indonesia sẽ thu được thắng lợi ở hàng loạt khu vực chủ quyền - có thể sẽ có 15 đến 20 quốc gia mới được thành lập, đồng thời, cuộc đấu vũ trang của các phần tử ly khai sẽ làm tê liệt hoàn toàn hoạt động vận tải đường biển ở vùng này.
    Malaysia. Từ những năm 1950, ở đây đã tồn tại xung đột âm ỷ giữa chính quyền trung ương và những người mác xít - du kích quân . Từ những năm 1980, phe đối lập mới của chế độ lại là cánh Hồi giáo. Ở nước này còn thường xuyên xẩy ra xung đột sắc tộc gay gắt giữa người Malaysia và Hoa kiều - Hoa kiều chỉ chiếm 23% dân số, nhưng họ lại chiếm giữ tới 75% doanh lợi tư nhân trên toàn quốc.
    PhilippinRập Saudi đã trợ cấp tài chính cho du kích quân (số lượng chiến đấu quân thường xuyên có tới 12 – 15 nghìn người).. Cuộc đấu tranh du kích giữa các tín đồ Hồi giáo và chính quyền trung ương đã diễn ra hàng chục năm nay tại tỉnh Mindanao ở miền Nam nước này. Trong cuộc đấu tranh ấy, đã có hàng chục nghìn người thiệt mạng. Chính quyền Philippin tin rằng,
    Trên lãnh địa bán đảo này còn có những tổ chức cánh tả đang hoạt động. Đó là là đảng cộng sản Mao-ít Philippin và đảng công nhân Cách mạng Troskit Mindanao. Cả hai tổ chức này đều có lực lượng vũ trang, chẳng những thế, cả cánh Mao - ít, lẫn cánh Troskit trong những năm gần đây đều chuyển hoạt động du kích lên vùng lãnh thổ phía bắc, vùng đất cư trú của các tín đồ Kitô giáo.
    Theo lời đồn đoán của giới thạo tin, các gia tộc cầm quyển ở Vịnh Ba Tư (trước hết là của Vịnh Ba Tư) đang mong muốn biến “Indonesia, Malaysia, Brunei, Singapua, nam Philippin, Thái Lan và Miến Điện” thành một “Tân Vương quốc Hồi giáo Á châu”. “Cựu Vương quốc ” sẽ thâu tóm về phía mình lãnh thổ của Bắc Phi, vịnh Ba Tư và Trung Á. Kết cục là, Trung Quốc sẽ mắc kẹt trong gọng kìm của hai “Vương quốc” - từ phía tây và phía đông - nam.
    Cuộc “cách mạng” bất thường ở các nước vùng Bắc Phi đã chỉ ra, chính quyền ở những nước ấy rất dễ bị lật đổ, bị lật đỏ rất nhanh và có thể đưa những lực lượng “ngoài hệ thống” lên ngai vàng. Như ở đầu bài viết, Lyuttvak, nhà chính trị học cánh tả người Mỹ, đã nhắc nhở, rằng giấc ngủ mê mệt đã chấm dứt, thời đại của Chính sách Lớn đang bắt đầu. Dĩ nhiên, chúng ta rất quan tâm, muốn biết, liệu nước Nga có trở thành con tốt thí trong ván bài Lớn - Mỹ chống Trung Quốc này hay không? Mà có vẻ như đã có người lựa chọn hộ chúng ta rồi: chắc là sẽ đứng về phía làm cái “bia thịt”.
  4. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Con rồng Trung quốc hụt hơi

    Thế giới đang chao đảo và cuộc khủng hoảng tài chính càng làm cho thế giới chao đảo thêm. Sức nặng kinh tế của các nước công nghiệp truyền thống đang suy giảm, còn sức mạnh của các nước mới trỗi dậy, đứng đầu là Trung Quốc, đang tăng lên và có khả năng còn tiếp tục tăng trong những năm tới. Quỹ tiền tệ quốc tế một mặt giảm đáng kể dự báo đối với tất cả các nước, kể cả Trung Quốc, mặt khác cho rằng Trung Quốc chỉ đạt mức tăng trưởng 9,5% năm nay và 9% vào năm 2012.
    Nhưng tất cả các nhà kinh tế đều không chắc nền kinh tế thế giới sẽ tiếp tục cưỡng lại được sức ép mà từ đó phải chấp nhận suy giảm. Chuyên gia Robin Rivaton nhận định tuy Trung Quốc hiện nay dường như đang ở trên thế thắng đối với thế giới, song đứng trên quan điểm kinh tế, nhiều chỉ số cho thấy có những vết ran nứt trong đế chế Trung Hoa. Đảng Cộng sản Trung Quốc trong một thời gian dài được ca ngợi vì đã quản lý kinh tế khéo léo với việc thay thế nền kinh tế chỉ huy trong những năm 1980 bằng một trạng thái cân bằng thị trường tinh tế, ngừng sản xuất hàng cấp thấp để phát triển công nghiệp chế biến ngày càng hiện đại hơn. Nhưng công trình đó không vững chắc.
    Tạp chí “Statafirk” dẫn lời nhà kinh tế học Nouriel Roubini, chuyên gia dự báo thảm hoạ thế giới, từ đầu năm 2011 nhắc đi nhắc lại rằng Trung Quốc sẽ lâm vào một cuộc khủng hoảng về tăng trưởng. Ông Nouriel Roubini không loại trừ khả năng đó sẽ là cuộc khủng hoảng trầm trọng về tăng trưởng mà nước này có thể phải gánh chịu và lên tiếng báo động hình mẫu Trung Quốc sẽ không trụ được lâu và sụp đổ, có thể là vào năm 2013.
    Nhưng tại sao lại là năm 2013? Theo chuyên gia Nouriel Roubini, không một nước nào trên thế giới có thể sản xuất đủ để dành tới 50% Tổng sản phẩm quốc nội của mình cho đầu tư mà không gây ra tình trạng thừa năng lực quá mức và các vấn đề tín dụng “không lành mạnh”. Hơn nữa, năm 2013 là thời kỳ nửa đầu của Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 bắt đầu từ năm 2010.
    Một chuyên gia khác, ông Robin Rivaton, nhà phân tích của tạp chí “Đại Tây Dương”, cho biết Kế hoạch 5 năm đó là triệu chứng của một nền kinh tế quá nóng. Kế hoạch này được thiết kế nhằm hỗ trợ nền kinh tế vốn bị tác động bởi mức cầu chững lại trên thế giới trong thời kỳ 2008-2009, khi phần xuất khẩu trong Tổng sản phẩm quốc nội giảm mạnh từ 11% xuống còn 5%. Cũng như các kế hoạch 5 năm trước đó, Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 nhằm mục đích đẩy mức tiêu thụ trong nước tăng lên để giảm phụ thuộc vào xuất khẩu, nhưng lại kéo theo các khoản đầu tư khổng lồ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng đang thúc đẩy mô hình tăng trưởng đặc thù của mình ít phụ thuộc vào mức cầu của thế giới hơn đồng thời hướng về tiêu thụ trong nước cũng như đáp ứng nhu cầu tiêu thụ hơn.
    Mức đầu tư cố định vào hạ tầng, bất động sản và các lĩnh vực công nghiệp xuất khẩu, như vậy đã tăng từ 42% lên 49% trong Tổng sản phẩm quốc nội trong thời kỳ 2008-2011. Nhưng Trung Quốc khó có thể chịu đựng nổi tình trạng đó, kể cả trong một thời gian ngắn, vì năng lực của nước này đã bị căng ra quá giới hạn. Hạ tầng giao thông được xây dựng quá quy mô cần thiết. Chỉ trong vòng 2 năm có tới 10.300 km xa lộ được đưa vào sử dụng. Cứ một tuần lại có một nhà máy điện được xây dựng. Sân bay, đường cao tốc và các nhà máy chế biến cũng vậy. Chẳng hạn, vào tháng 9/2011, Bộ Công nghiệp đã phải áp đặt điều kiện khắt khe hơn đối với đầu tư vào ngành chế tạo ôtô do sợ thừa năng lực, từ đó có thể dẫn đến áp lực lạm phát mạnh bắt đầu từ năm 2013.
    Các nhà kinh tế đều thống nhất cho rằng bong bóng kinh tế hình thành khi tỷ giá thực là âm trong dài hạn. Điều này đang diễn ra ở Trung Quốc trong thời kỳ gần đây. Vay tiền dễ dàng cộng với chi phí thấp kích thích các doanh nghiệp không có khả năng vay vốn theo tỷ giá thị trường thông thường, lao vào cuộc chạy đua đầu tư quyết liệt. Nhà kinh tế học Nouriel Roubini nhắc lại rằng tất cả các thời kỳ đầu tư quá mức, cụ thể là ở Đông Nam Á trong những năm 1990, đã kết thúc bằng một “cuộc khủng hoảng tài chính” và một “thời kỳ tăng trưởng thấp”. Tổng số vốn được các ngân hàng Trung Quốc cho vay đã tăng gần gấp đôi lên tới 1.100 tỷ euro, từ năm 2008 đến năm 2009. Ông cho rằng gần 1/3 số tiền mà các ngân hàng Trung Quốc cho vay có thể sẽ không trả được.
    Ngoài doanh nghiệp, chính quyền địa phương cũng nợ đầm đìa vì vay tiền để rót vào bất động sản và hạ tầng. Cuối tháng 6/2011, Cơ quan kiểm toán quốc gia (NAO) của Trung Quốc cho biết món nợ của chính quyền địa phương các cấp đã lên tới 10.700 tỷ nhân dân tệ, tức 1.140 tỷ euro, tương đương với 27% Tổng sản phẩm quốc nội năm 2010 của nước này. Theo con số thống kê chính thức, mức tăng món nợ của chính quyền địa phương đã giảm từ 61,9% (năm 2009) xuống 8,9% (năm 2010). Hãng xếp hạng tín dụng Moody’s nghi ngờ tính xác thực của con số thống kê chính thức của Trung Quốc và đánh giá con số đó phải là 1.513 tỷ euro, chiếm 36% Tổng sản phẩm quốc nội. Hãng này thậm chí còn doạ sẽ hạ điểm của các ngân hàng Trung Quốc vì một khoản nợ khó đòi như vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến khả năng cho vay. Ông Victor Shih, một chuyên gia Mỹ về vấn đề này, thậm chí còn đánh giá mức nợ của Trung Quốc chiếm khoảng 40-50% Tổng sản phẩm quốc nội năm 2010. Kể cả lượng dự trữ ngoại hối khổng lồ của nước này cũng chưa chắc đã giúp giải toả được các món nợ trên.
    Gần ½ số nợ trên sinh ra từ việc thực hiện kế hoạch hỗ trợ trị giá 4.000 tỷ nhân dân tệ được triển khai từ năm 2008. Tuyệt đại đa số các khoản cho vay đó được dùng để tài trợ cho xây dựng hạ tầng, nhưng lại nảy sinh tham nhũng và lãng phí trong sử dụng vốn. Nghiêm trọng hơn nữa là phần lớn số nợ nói trên sẽ đến hạn phải trả vào năm 2013. Điều đó càng làm tăng thêm tính chất bản lề của năm đó.
    Trong bản phân tích vào đầu tháng 9/2011, ông Robert Zoellick, Chủ tịch Ngân hàng thế giới, đã nhấn mạnh đến các thách thức xã hội và sinh thái của Trung Quốc. Dân chúng bày tỏ mối quan ngại sâu sắc trước tình hình môi trường ngày càng tồi tệ, thậm chí còn sâu sắc hơn cả đối với phát triển kinh tế. Nhà máy sản xuất tấm pin mặt trời Jinko Solar, một công ty có mặt trên sàn chứng khoán Niu Yóoc, bị tạm thời đóng cửa sau cuộc biểu tình của 500 người dân thành phố Hải Ninh. Sự kiện này diễn ra một tháng sau cuộc biểu tình của 1.200 người ở thành phố cảng Đại Liên dẫn đến việc đóng cửa một nhà máy hoá dầu.
    Về phương diện dân số, dân số già đi cũng là một mối đe doạ nghiêm trọng trong một hoặc hai thập kỷ nữa. Điều tra dân số tháng 3/2011 cho thấy số người ở độ tuổi 60 và hơn nữa chiếm 13% tổng dân số, tức hơn 3% so với mức của năm 2000. Số người ở độ tuổi dưới 14 tuổi cũng giảm từ 23% xuống còn 17%. Chính sách kiểm soát chặt chẽ sinh sản đã dẫn đến tình trạng tỷ lệ tăng trưởng dân số chỉ còn chưa đến một phần trăm.
    Những đảo lộn hiện đang đe doạ người khổng lồ Trung Quốc dĩ nhiên sẽ có tác động mạnh ở quy mô toàn cầu do mức độ cao trong quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và các vùng khác trên thế giới, phát triển cũng như mới trỗi dậy.
    Không chỉ riêng nhà kinh tế học Nouriel Roubini mà nhiều chuyên gia khác cũng tỏ ý lo ngại trước tình hình kinh tế không vững chắc của Trung Quốc. Tháng 3/2011, hãng xếp hạng tín dụng Fitch đánh giá nguy cơ khủng hoảng ngân hàng ở Trung Quốc vào giữa năm 2013 lên tới 60%. Một số chuyên gia của hãng này còn cho biết thêm chỉ số khiến họ đưa ra đánh giá đó là đáng tin cậy vì chỉ số đó trước đây đã từng báo trước các cuộc khủng hoảng được ghi nhận lại Ailen và Aixơlen.
    Nhiều nhà kinh tế học và nhà đầu tư khác, tuy chưa đến mức nói đến thảm hoạ, song cũng tỏ ra rất thận trọng và theo dõi sát sao diễn biến tình hình ở Trung Quốc. Ít nhất một điều đã được khẳng định khi Thị trường chứng khoán Trung Quốc mất điểm, giảm hơn 13% ở Thượng Hải và 25% ở Hồng Công kể từ đầu năm đến nay. Bà Lan Wang Simond, phụ trách quản lý vốn thuộc ngân hàng Pictet có trụ sở tại Giơnevơ (Thuỵ Sĩ), giải thích rằng các chuyên gia phải căn cứ vào khả năng dễ xảy ra nhất mặc dù bà không biết thái độ bi quan của họ có được minh chứng hay không. Hiện chưa xảy ra tình trạng đầu tư tuột dốc, thiểu phát, nhưng bà đánh giá khả năng nền kinh tế Trung Quốc tuột dốc không phanh đến lúc này là 20-25%.
    Lạm phát không thể kiểm soát
    Lạm phát được cho là một yếu tố không nhỏ dẫn đến tình hình xáo trộn ở Trung Quốc và được chính quyền nước này chính thức coi là một cuộc đấu tranh cần được ưu tiên. Dù đã giảm chút ít vào tháng 8/2011 (chỉ số giá tiêu dùng tăng 6,2% so với 6,5% vào tháng 7/2011), nạn lạm phát vẫn tiếp tục gây lo ngại trong giới lãnh đạo chính trị và ngân hàng Trung Quốc. Đối với họ, các yếu tố gây ra nạn tăng giá ở Trung Quốc đã phần nào được kiềm chế, song vẫn chưa bị loại trừ hẳn.
    Tỷ lệ lạm phát ở Trung Quốc là 5% vào tháng 5/2011. Con số này là cao nhất kể từ gần 3 năm nay và được chuyên gia phân tích Ronan Daniel của tạp chí “Đại Tây Dương” đánh giá là “nguy hại” đối với quyết tâm của chính phủ giữ mức tăng chỉ số giá cả tiêu dùng (CPI) dưới ngưỡng 4% cho năm 2011. Việc chính phủ không giữ được cam kết trên (nhất là khi những con số được đề cập đến lại do chính quyền công bố) khiến giới phân tích phải ngạc nhiên vì mục tiêu 3% của năm 2010 cũng đã bị vượt quá rất nhiều. Trung Quốc đã nhiều lần tăng tỷ giá phải trả thấp hơn. Nhưng mục tiêu của Trung Quốc giữ lạm phát ở mức 4% cho năm 2011 sẽ khó có thể đạt được.
    Theo ông Jean-Francois Di Meglio, Chủ tịch Trung tâm châu Á, nhiều yếu tố khiến Trung Quốc gặp khó khăn trong việc tìm kiếm giải pháp cho các khó khăn kinh tế. Một khi vòng xoáy lạm phát bắt đầu thì khó có thể đảo ngược được tình thế. Hơn nữa là vì Trung Quốc gặp khó khăn trong việc tái tạo dòng tiền chảy vào ồ ạt gắn liền với thặng dư thương mại.
    Ngân hàng trung ương Trung Quốc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại lên mức 21%. Để phong toả một phần lượng tiền, giới lãnh đạo tiền tệ Trung Quốc ưu tiên đòn bẩy này hơn là đòn bẩy tỷ giá. Điều chỉnh phí vay trong thời gian tới cũng không bị loại trừ và nếu có thì đó sẽ là lần điều chỉnh thứ 5 kể từ tháng 10/2010.
    Bối cảnh tài chính quốc tế đẩy Trung Quốc vào tình thế tế nhị chưa từng thấy và phải giải quyết các tình huống đôi khi mâu thuẫn nhau. Trong khi giới chức tiền tệ định đa dạng hoá đầu tư bằng ngoại tệ để bảo vệ dự trữ ngoại hối chống lại khả năng Mỹ mất khả năng thanh toán, một số thách thức mới lại xuất hiện. Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc đưa ra những tuyên bố có tính trấn an, song mối đe doạ là có thực đối với nền kinh tế nước này với tư cách là nước xuất khẩu hàng đầu tiên thế giới, nhưng lại có nguy cơ bị ảnh hưởng xấu bởi các thị trường xuất khẩu kém năng động hơn.
    Theo chuyên gia Ronan Daniel, lạm phát quả thực là mối quan tâm của cả thế giới, nhưng sau cuộc khủng hoảng kinh tế lớn, người ta có thể nghĩ rằng tăng giá, vồn là hiệu quả của cầu vượt quá cung, là triệu chứng của hồi phục thì đúng hơn. Từ hai năm nay, Trung Quốc cam kết thay đổi cơ cấu tăng trưởng kinh tế và tìm cách thoát khỏi sự phụ thuộc vào xuất khẩu và nhằm vào nhu cầu ở trong nước. Theo cách nghĩ đó, lạm phát có thể là hệ quả của tăng sức mua ở trong nước. Song, điều chỉnh mô hình tăng trưởng đang phải chịu áp lực lạm phát mà giới chức tiền tệ Trung Quốc vẫn chưa kiểm soát được.
    Lạm phát tăng trong khi tăng trưởng lại không tăng. Tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc, khoảng 10,3% vào năm 2010, sẽ có thể ở dưới ngưỡng 10% vào năm 2011. Tuy vững chắc, song tăng trưởng dường như giảm theo thặng dư thương mại của nước này. Xuất khẩu chững lạ và tăng trưởng cũng vậy. Trung Quốc không thể đưa được tăng trưởng dựa vào nền tảng vững chắc do người tiêu dùng tạo nên, cũng không thành công trong việc thoát khỏi sự phụ thuộc vào các đối tác thương mại nước ngoài mặc dù có dân số khổng lồ với nhu cầu khổng lồ cần đáp ứng ở trong nước.
    Ở Trung Quốc, lạm phát có xu hướng gây lo ngại cho chính phủ muốn tăng trưởng đạt tới mức có thể đảm bảo ổn định trong nước. Lạm phát đó thực ra bắt nguồn từ việc tăng giá lương thực thực phẩm. Kể cả khi lượng hàng không phải lương thực thực phẩm chiếm tỷ lệ cao hơn trong mức tăng giá của người nội trợ Trung Quốc (+2,9%), hàng thực phẩm lên tới mức 11,7%/năm. Như vậy, lạm phát tạo sức ép đối với toàn bộ dân chúng, kể cả các hộ gia đình bình thường nhất, thông qua các hiện tượng gắn với nguồn cung.
    Theo giới chuyên gia kinh tế, lạm phát tăng một phần là do hạn hán ở một số vùng của Trung Quốc. Ngoài khó khăn trong tưới tiêu, thiếu điện do mực nước sông hạ cũng xảy ra ở nhiều vùng. Các nhà máy thuỷ điện đã phải điều chỉnh mức cung và giá điện theo đó được nâng lên. Giá tiêu dùng cũng tăng theo giá nguyên liệu vốn phụ thuộc nhiều vào thị trường quốc tế. Cuối cùng, kế hoạch hỗ trợ ồ ạt của Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng tài chính dường như vẫn không ngăn chặn được tăng giá.
    Lạm phát tăng vào thời điểm các cuộc biểu tình phản đối nổ ra ở tỉnh Quảng Đông (miền Nam), nơi có một phần lớn trong số 145 triệu người lao động di cư của cả nước. Chính những lao động di cư đó, phần lớn xuất thân ở tỉnh Tứ Xuyên, đã phản ứng dữ dội khi xảy ra sự cố giữa cảnh sát và một phụ nữ bán hàng rong đang mang thai ở thành phố Tăng Thành. Một số cuộc biểu tình khác nổ ra ở Triều Châu, nơi hàng trăm người lao động đòi trả tiền lương còn nợ họ. Mười chín người đã bị bắt sau các vụ bạo động đó.
    Chính phủ Trung Quốc hoàn toàn có lý do để lo ngại trước hiện tượng này nếu họ muốn đưa tăng trưởng của mình dựa hẳn vào tiêu dùng ở trong nước: liệu pháp Keynes mà Trung Quốc cố tình lựa chọn đòi hỏi các hộ gia đình có mức thu nhập trung bình phải có sức mua lớn. Nhưng ổn định xã hội sẽ bị đe doạ nếu tăng trưởng không mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Nếu hàng lương thực thực phẩm tăng 11,7%/năm, người lao động di cư ở Quảng Đông sẽ không chờ xem tăng trưởng kinh tế hàng năm có đạt mức 9% hay 10% rồi mới nổi giận.
    Một cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới mới chắc chắn làm phức tạp thêm tình hình ở Trung Quốc. Năm 2008, chính quyền nước này đã phải bơm 460 tỷ euro vào kế hoạch hỗ trợ trong hai năm để tái khởi động nền kinh tế và duy trì nhịp độ tăng trưởng đều đặn khoảng 8%. Trung Quốc cũng phải thông qua một chính sách tiền tệ linh hoạt. Lượng vốn cho vay mới giảm mạnh trong khi giá thuê nhà tăng, còn Ngân hàng trung ương cũng tăng lượng tiền lưu thông. Đó là bấy nhiêu yếu tố dẫn đến lạm phát với tốc độ phi mã khoảng 5,5% vào tháng 5/2011, mức cao nhất là 3 năm nay.
    Nhưng tỷ lệ đó dẫn đến nguy cơ đối với tăng trưởng mà Chính phủ Trung Quốc muốn duy trì ở mức trên 8%. Vòng xoáy lạm phát buộc phải tăng lương, lương tăng lại kéo giá cả lên và cứ như thế khiến hàng hoá Trung Quốc mất lợi thế cạnh tranh về chi phí nhân công. Lượng tiền mặt quá lớn cũng làm nảy sinh bong bóng đầu cơ cổ phiếu chứng khoán và nhà đất.
    Lạm phát “xấu” đó, thứ lạm phát không minh chứng cho sự phát triển của nền kinh tế đã từng là dấu hiệu của cuộc khủng hoảng ở phương Tây trong những năm 1970, là điều xấu đối với nền kinh tế, đặc biệt là đối với sự ổn định xã hội mỏng manh của Trung Quốc.
    Bong bóng bất động sản chờ vỡ
    Khi con số về hoạt động sản xuất công nghiệp được công bố ở Trung Quốc, giới chuyên gia kinh tế nhận xét ngành này đang trong cơn “co giật” do mức cầu giảm trên thế giới. Chi phí trung bình cho các yếu tố sản xuất trái lại lên tới mức cao nhất trong 4 tháng trở lại đây.
    Ngay từ đầu tháng 10/2011, ông Robert Zoellick, Chủ tịch Ngân hàng thế giới, đã dự báo động lực giúp Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ đang rệu rã. Trong lúc đó, con rồng Trung Quốc dường như tỏ ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết khi đứng đầu nhóm BRICS điều phối cứu trợ nhân đạo-tài chính cho châu Âu. Nhưng như chuyên gia Robin Rivaton nhận xét trên tạp chí “Đại Tây Dương”, Trung Quốc không phải không bị giằng xé bởi chính những điểm yếu của mình.
    Giá nhà ở Trung Quốc vẫn đang tiếp tục tăng (+0,7% trong tháng 8/2011), trong khi nhịp độ tăng trưởng lại chậm lại (+6,9% trong tháng 8/2010 và +6,8% vào tháng 7/2010). Điều đó cho thấy hiệu quả của các biện pháp mà Chính phủ Trung Quốc áp udngj để tránh hiện tượng quá nóng trên thị trường bất động sản. Bong bóng đã biến thị trường bất động sản ở Trung Quốc thành một trong những thị trường đắt đỏ nhất thế giới so với thu nhập ở nước này. Để có thể thấy được độ lớn của bong bóng này, ta biết rằng năm 2006, giá trung bình một căn hộ ở Bắc Kinh vào khoảng 100.000 USD, tức gấp 32 lần thu nhập trung bình của một công dân trong vùng. Năm 2011, mức giá này đã lên tới 250.000 USD, tức cao gấp 57 lần thu nhập trung bình ở địa phương.
    Ngân hàng Standard Chartered Bank cho rằng các khu đô thị thuộc vùng hai, như Đại Liên hay Thiên Tân, tạo ra áp lực tiêu cực mạnh tới giá nhà đất. Phần lớn các chuyên gia nhận định rất có thể giá nhà đất sẽ giảm khoảng 10-20% trong năm 2011 trên toàn thị trường. Đó dường như là hậu quả của việc chính quyền can thiệp vào giá. Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo từ đầu năm 2010 đã thông báo ý muốn giảm mức độ đầu cơ đang hoành hành ở cả các thành phố lớn lẫn các thành phố có quy mô nhỏ hơn. Để thực hiện mục tiêu đó, Chính phủ Trung Quốc đặt ra các quy định như cấm mua căn nhà thứ hai ở một số thành phố hay tăng gấp 11 lần dự trữ tài chính của ngân hàng để giảm khả năng cho vay.
    Nhưng Chính phủ Trung Quốc cũng phải hành động thận trọng vì lĩnh vực xây dựng là một trong những yếu tố chính tác động đến tăng trưởng và qua đó là các ngành thép và xi măng. Ông Jonathan Anderson, nhà kinh tế học thuộc Ngân hàng UBS, cho rằng chỉ riêng thị trường xây dựng đã đóng góp tới 13% Tổng sản phẩm quốc nội trong năm 2010, tức gấp hơn hai lần tỷ lệ trung bình của những năm 1990.
    Vả lại, giá nhà đất tuột dốc mạnh quá có thể sẽ làm cho một số công ty phát triển nhà phá sản, đặc biệt là các công ty nhỏ. Món nợ của các công ty này, tính đến tháng 4/2011, đã tăng 41% so với tháng 4/2010, với khoảng 162 tỷ USD. Tình trạng đó có thể lây lan sang ngành ngân hàng qua việc không trả được đúng hạn một số món nợ.
    Lĩnh vực bất động sản được người Trung Quốc thích đầu tư nhất vì mang lại lợi nhuận cao hơn gửi tiền vào ngân hàng. Các khoản môi giới cũng đóng vai trò chủ chốt trong việc cân đối tài chính địa phương. Các khoản này được các công ty xây dựng nhà ở trả và là một nguồn thu nhập thiết yếu đối với chính quyền địa phương các cấp đang ngập lụt trong đống nợ, nhưng lại buộc phải triển khai xây dựng các công trình hạ tầng tốn kém.
    Do năng suất lao động giảm sút trong công nghiệp, nhiều doanh nghiệp sử dụng chính cơ sở sản xuất hay kinh doanh của mình làm bảo đảm để vay vốn trên thị trường chợ đen và có những trường hợp mang tiền vay được cho vay lại với lãi suất cao hơn hay dùng tiền vay đó để lao vào đầu cơ bất động sản. Việc các doanh nghiệp vừa và nhỏ này sẵn sàng vay với lãi suất cao như vậy cho thấy họ hoặc không còn một đồng tiền mặt nào, hoặc bị mắc kẹt vào đầu cơ vì không một hoạt động kinh tế thực thụ nào có thể sinh lời từ số tiền đầu tư với mức đủ cao để cho phép hoàn vốn. Khi giá bất động sản lao dốc và đơn đặt hàng xuất khẩu vừa và nhỏ đối với khoản vay sẽ giảm giá trị, từ đó dẫn đến phá sản và mất việc làm.
    Các công ty xây dựng chủ chốt, vốn là chỗ dựa cho thị trường bất động sản, vẫn hoạt động tốt vì tỷ lệ đô thị hoá hiện nay là 47%, nhưng có thể sẽ tăng tới 57% vào năm 2020 và gần 70% vào năm 2030. Song nếu bong bóng vẫn tiếp tục tồn tại sẽ dẫn đến nguy cơ nhiều thế hệ người nông thôn di cư, do không có khả năng mua nhà, sẽ phải sống tập trung tại vùng ven các thành phố lớn. Chuyên gia Robin Rivaton đánh giá đó chính là “bằng chứng tồi” của tăng trưởng mất cân đối.
    Thức tỉnh trong thế kẹt
    Trước tốc độ lạm phát phi mã, Trung Quốc chọn cách thực hiện chính sách tiền tệ cứng rắn. Tuy nhiên, giới phân tích không loại trừ khả năng sắp tới, nước này sẽ phải để đồng nhân dân tệ tự định giá nhằm tăng cường sức cạnh tranh trên cơ sở lành mạnh để có tiền tài trợ đầu tư và tăng lương.
    Theo ông Jean-Marc Daniel, giáo sư trường Đại học ESCP-châu Âu, khi phải đối mặt với tỷ lệ lạm phát 5%, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã hiểu ra và siết chặt chính sách tiền tệ, hạn chế các khoản đầu tư mới của chính quyền địa phương và dường như đã thành công trong việc hãm mức tăng giá hàng tiêu dùng (từ 6,5% vào tháng 6/2011 xuống 6,2% vào tháng 8/20111 và có xu hướng sẽ chỉ còn 4-5%). Nhưng làm như vậy, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã mắc phải ba sai lầm về phân tích.
    Như giáo sư Jean-Marc Daniel lý giải trên tạp chí “Đại Tây Dương”, sai lầm thứ nhất của Trung Quốc là không hiểu được rằng một nền kinh tế khi đã đuổi kịp được các nền kinh tế chi phối như của châu Âu và Mỹ, chắc chắn sẽ phải xác định lại giá. Khi trình độ phát triển kinh tế của mình đạt mức ngang bằng với các nước Nhom G7, Trung Quốc cũng sẽ phải áp dụng mức giá tương tự. Nhưng vì nước này không làm như vậy nên khoảng cách giữa Tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu người được lấp đầy vào năm nào thì khoảng cách giữa mức giá cũng được lấp đầy vào chính năm đó. Trong lý thuyết kinh tế, đó là cái mà người ta vẫn gọi là “hiệu ứng Balassa Samuelson”.
    Tình hình đó không phải chỉ có mặt tiêu cực bởi lẽ trong số các giá tăng lên có cả tiền lương. Tiền công chi trả tăng lên cũng là lẽ tự nhiên vì một nền kinh tế không thể tồn tại lâu dài trong bối cảnh cố tình duy trì mãi mức lương thấp bằng cách tước đoạt sức lao động.
    Sai lầm thứ hai của các nhà lãnh đạo Trung Quốc là để chi phí lao động không ngừng tăng lên. Do luôn bị ám ảnh bởi hám lợi nên nước này sử dụng xuất khẩu làm cơ sở cho tăng trưởng, nghĩa là để tăng trưởng dựa trên nền tảng sức cạnh tranh mạnh. Nhưng Trung Quốc lại nhâm về phương tiện để đạt mức tăng trưởng đó. Nước này cũng có 3 khả năng để tăng sức cạnh tranh: thứ nhất là phá giá và định giá thấp đồng nội tệ của mình, thứ hai là thiểu phát về lương, thứ ba là tăng sản lượng bằng tiến bộ kỹ thuật.
    Trong khi về lâu dài cần phải chọn yếu tố thứ ba thì theo giáo sư Jean-Marc Daniel, đồng thời là phụ trách giảng dạy kinh tế tại trường Đại học Mỏ, Trung Quốc cố bám lấy hai yếu tố đầu tiên. Quả thực là bằng cách kiểm soát hối đoái, một cách làm có từ thời xa xưa đã từng làm rối loạn nền kinh tế thế giới và làm thui chột các khoản tiền khổng lồ nằm chết dí trong két của Ngân hàng trung ương, Trung Quốc đã thành công trong việc hạn chế mức tăng giá của đồng nhân dân tệ. Nhưng áp lực đối với tiền lương ngày càng mạnh và có nguy cơ dẫn đến lạm phát “Balassa Samuelson”, từ đó chắc chắn làm xói mòn sức cạnh tranh của Trung Quốc.
    Hơn nữa, bong bóng còn lớn hơn giá hàng là dự trữ trái phiếu Mỹ mà Trung Quốc nắm giữ. Dù không muốn, song Trung Quốc trở thành nạn nhân của chính sách của mình là duy trì tỷ giá thật thấp so với đồng USD Mỹ để giữ sức cạnh tranh trong xuất khẩu. Hiện nay, Trung Quốc không thể bán lại số hơn 1.000 tỷ USD trái phiếu của Ngân hàng trung ương Mỹ vì một khi đã mua, nước này bị kẹt vào đó và nếu bán lại sẽ làm sụp đổ hệ thống tài chính thế giới.
    Số 3.000 tỷ USD ngoại tệ mà Trung Quốc nắm giữ không có nghĩa là nước này không nợ nần. Tuy mức nợ chính thức chỉ là 27% Tổng sản phẩm quốc nội, song các nhà kinh tế nghi ngờ tỷ lệ đó thực tế có thể lên tới 90% vì một phần lớn nằm trong tay chính quyền địa phương dùng đất đai như sự bảo đảm để vay vốn và không đưa vào con số thống kê chính thức.
    Giải pháp tốt nhất cho vấn đề nạn lạm phát của Trung Quốc không phải là siết chặt điều kiện vay vốn vì như vậy sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế vẫn đang cần nhiều khoản đầu tư để tài trợ, cũng không phải là tìm cách duy trì đồng lương chết đói. Giáo sư Jean-Marc Daniel, cũng là Giám đốc tạp chí Societal của Viện doanh nghiệp, cho rằng vấn đề ở đây là phải xóa bỏ chế độ kiểm soát hối đoái và để cho đồng nhân dân tệ tự định giá.
    Một mặt, điều đó buộc các doanh nghiệp đang đối mặt với thực tế sản xuất của các đối thủ cạnh tranh, phải chấp nhận cuộc chiến cạnh tranh trên cơ sở lành mạnh và lâu dài. Mặt khác, điều đó sẽ kéo giá nhập khẩu xuống, từ đó hãm đà lạm phát. Hơn nữa, vì một phần đáng kể trong nhập khẩu là hàng lương thực thực phẩm chế biến, nên giảm giá nhập khẩu bằng tỷ giá sẽ cho phép tránh một cơn bão giá ngũ cốc.
    Người dân ở các nước Arập nổi dậy để phản đối giá cả hàng thiết yếu tăng vọt. Tại Trung Quốc, các nhà lãnh đạo biết rằng người dân có thể nổi giận cũng vì lý do đó. Nhưng do không thoát được khỏi ý thức hám lợi đang bao trùm, nên mọi quyết định được họ đưa ra đều không thích hợp để giải quyết những vấn đề cần giải quyết.
    Nhiều nhà kinh tế học cho rằng hình mẫu hiện nay của Trung Quốc không thể đứng vững được, còn Trung Quốc không còn sự lựa chọn nào khác. Hai nhà kinh tế học Alexandra Estiot và Christine Peltier, thuộc ngân hàng BNP Paribass (Pháp), nhận xét khi điều chỉnh những ưu tiên trong mô hình phát triển, Chính phủ Trung Quốc sẽ trở nên “rộng rãi” hơn đối với tỷ lệ tăng trưởng có kém hơn một chút nhưng vẫn thuộc loại cao. Không thể chuyển từ một hình mẫu tăng trưởng này sang một hình mẫu tăng trưởng khác một cách hài hòa như các nhà lãnh đạo Trung Quốc đưa ra được vì điều đó đòi hỏi phải thay đổi sâu rộng hệ thống hiện nay, trong đó các công ty lớn của Nhà nước, các doanh nghiệp xuất khẩu và chính quyền các tỉnh sẽ phải dùng hết sức bình sinh để hãm tốc độ.
    Đối với ông Nouriel Roubini, Trung Quốc sẽ tiếp tục đầu tư ồ ạt cho đến khi sụp đổ hoàn toàn. Một số xu hướng cho thấy dự báo của nhà kinh tế học này là đúng. Tháng 6/2011, các chuyên gia của Quỹ tiền tệ quốc tế tỏ ý lo ngại trước nguy cơ bong bóng bất động sản trong ngành xây dựng ở Trung Quốc và nhấn mạnh đến sự cần thiết phải hãm phanh lại bằng cách tăng cao hơn nữa phí vay tín dụng. Giới chức Trung Quốc cho biết họ ý thức được mối nguy cơ đó, nhưng để giữ yên ổn xã hội, họ phải bảo đảm với người dân có mức sống trung bình rằng họ sẽ được mua nhà với giá phải chăng.
    Thế giới bị ảnh hưởng
    Sự phát triển của Trung Quốc đã đạt đến giới hạn và nếu nền kinh tế nước này sụp đổ sẽ là mối đe dọa thực sự mang tính toàn cầu. Đó là nhận xét chung của giới phân tích và chuyên gia kinh tế quốc tế. Theo dự báo, tăng trưởng kinh tế có khả năng sẽ giảm mạnh bắt đầu từ năm 2013 và rối loạn xã hội sẽ gia tăng ở Trung Quốc. Tình hình đó sẽ dẫn đến hậu quả gì đối với thế giới, đặc biệt là các nền kinh tế phát triển?
    Các chuyên gia khẳng định chắc chắn thế giới sẽ bị tác động vì sự lệ thuộc của các nền kinh tế trên thế giới vào Trung Quốc là điều không thể bàn cãi. Đó là hệ quả của quá trình toàn cầu hóa, khi Trung Quốc là nước ngốn nhiều nguyên liệu, đồng thời cũng là điểm tiếp sức cho tăng trưởng của các doanh nghiệp phương Tây và cuối cùng là khả năng xảy ra một cuộc chiến giá cả.
    Giải thích trên tạp chí “Đại Tây Dương”, chuyên gia Robin Rivaton nhấn mạnh đến việc Trugn Quốc trước hết là một nền kinh tế giao thương rất rộng rãi với thế giới, thể hiện ở mức độ tiếp cận với nền kinh tế thế giới được tính bằng hệ số giữa ngoại thương và tổng sản phẩm quốc nội, đã vượt quá mức 60%.
    Một chỉ số rõ ràng về mối lo ngại của thế giới trước việc nền kinh tế Trung Quốc sụp đổ là giá trị tuyệt đối của Hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi (CDS) sẽ tăng vọt. Tổng giá trị loại hình bảo hiểm vỡ nợ này của Trung Quốc hiện nay vào khoảng 8,3 tỷ USD, cao thứ 10 thế giới. Cách đây 2 năm, con số này chỉ vào khoảng 1,6 tỷ USD và Trung Quốc đứng thứ 227 thế giới.
    Là công xưởng của thế giới, Trung Quốc dựa chủ yếu vào nhân công giá rẻ, đồng tiền được định giá thấp, đầu tư lớn vào công nghiệp, tập trung vào xuất khẩu. Nước này sản xuất và xuất khẩu một khối lượng lớn đồ chơi, hàng điện tử, thậm chí cả xe hơi. Do xuất khẩu nhiều nên Trung Quốc rất khát nguyên liệu, từ đó trở thành nước tiêu thụ nhiều nhất thế giới về đồng (40% sản lượng thế giới), nicken (20%) hay thép (44%). Nhiều nước Đông Nam Á là nhà cung cấp nguyên liệu quan trọng của Trung Quốc như cao su của Thái Lan, than của Inđônêxia hay khí đốt tự nhiên của Mianma. Nền kinh tế Trung Quốc sụp đổ sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đối với các nền kinh tế dựa vào nguyên liệu như Ôxtrâylia. Mối lo đối với nước này không chỉ vì sản xuất ở Trung Quốc chững lại, mà còn vì nước này không thể tiếp tục dựa vào xuất khẩu và đầu tư vào nhà máy, trang thiết bị và hạ tầng để tăng trưởng. Các ngành này ngốn nhiều than, quặng sắt, khí đốt tự nhiên, sắt thép, từ đó phải nhập quặng sắt, nicken và than đá từ Ôxtrâylia. Trung Quốc cũng là thị trường tiêu thụ chính đối với đồng của Chilê, quặng công nghiệp khai thác ở Braxin hay Nam Phi.
    Trong nhiều trường hợp, sản xuất ở Trung Quốc sụp đổ có thể sẽ có nghĩa là xuất khẩu và thu ngân sách suy sụp, đặc biệt khi phần lớn hạ tầng sản xuất nằm trong tay các tác nhân Trung Quốc. Cũng vì thế mà các loại ngoại tệ, như đồng USD Ôxtrâylia, đồng real của Braxin hay đồng pêxô của Chilê, sau khi đạt mức kỷ lục trong những năm gần đây, có thể sẽ giảm và quay về mức được cho là hợp lý hơn.
    Mặt khác, guồng máy công nghiệp khổng lồ của Trung Quốc và quyết tâm rõ ràng vươn lên sản xuất hàng hóa cao cấp trong các kế hoạch 5 năm gần đây, khiến các nhà sản xuất của nước này cần phải nhập khẩu công nghệ của nước ngoài. Xây dựng hạ tầng giao thông và năng lượng cũng cần đến sản phẩm của nước ngoài. Trung Quốc là nước sử dụng trang thiết bị xây dựng hàng đầu thế giới và châu Á-Thái Bình Dương là khu vực đứng đầu về kim ngạch trang thiết bị xây dựng của tổ hợp khổng lồ Caterrpillar của Mỹ. Sức sống của các ngành công nghiệp nặng của các nước và vũng lãnh thổ xung quanh như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) đều dựa vào nguồn xuất khẩu này. Còn Đức thì sao? Nước này cung cấp cho Trung Quốc hàng côngtenơ đầy ắp máy công cụ cần thiết cho phát triển công nghiệp.
    Cuối cùng, các doanh nghiệp phương Tây hoạt động ở Trung Quốc, dù đó là các nhà phân phối hay các chuỗi cửa hàng ăn nhanh, đều trông chờ vào những người sẽ gia nhập tầng lớp trung lưu để bảo đảm có được khả năng tiếp tục hoạt động sản xuất đang chững lại ở các thị trường phát triển. Đó là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất hàng xa xỉ Pháp. Thậm chí, một hãng lớn như Hermes hồi tháng 9/2010 còn lập ra một nhãn mác mới chỉ dành riêng cho thị trường Trung Quốc. Đó là Shang Xia.
    Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chững lại còn có thể dẫn đến hậu quả rất trực tiếp: nếu mức cầu ở nước này, dù trong lĩnh vực bất động sản hay sản xuất hàng công nghiệp, suy sụp sẽ tác động tiêu cực tới sản xuất. Tình trạng thừa năng lực ở các nhà máy của Trung Quốc, cụ thể là trong lĩnh vực chế biến kim loại thép (chiếm tới 50% sản lượng của thế giới), nhôm và điện tử, lúc đó có thể sẽ dẫn đến việc ban hành một chính sách giá cả quyết liệt được hỗ trợ bằng các biện pháp kích thích về thuế và hạn chế tăng trưởng nhằm duy trì thị trường tiêu thụ ở nước ngoài.
    Theo chuyên gia Robin Rivaton, sự sụp đổ của nền kinh tế Trung Quốc sẽ gây ra hậu quả dài hạn cho Mỹ và châu Âu vì họ ngày càng phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Tình hình trên chắc chắn sẽ gây ra một làn sóng phản đối của các nhà sản xuất công nghiệp ở châu Âu và Mỹ, thậm chí có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành ý thức chính trị trong lúc một số giới hoạch định chính sách đang muốn trở lại với chính sách bảo hộ ở một mức độ nhất định.
    Chuyên gia Robin Rivaton trấn an các nhà hoạch định chính sách và các nhà sản xuất không nên quá bi quan trước viễn cảnh trên. Các chuyên gia của ngân hàng HSBC hàng tháng đều tổng kết về sản xuất của khu vực sản xuất hàng công nghiệp để đánh giá xem sản xuất công nghiệp mở rộng hay co lại. Các con số được công bố đến lúc này đều cho tháy rằng kể cả với một chỉ số xuống dưới 48, tăng trưởng hàng năm của ngành sản xuất công nghiệp vẫn có thể được duy trì ở mức trên dưới 12,5% và tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội ở mức 9%. Chỉ số trên vào cuối tháng 8/2011 vẫn đạt mức 49,9…
    Điều nên làm để tránh bị suy sụp
    Lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Trung Quốc có thể sẽ phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng về lãnh đạo. Những lựa chọn được các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản hiện nay quyết định có nguy cơ duy trì một cách giả tạo tăng trưởng về ngắn hạn sẽ làm trầm trọng thêm các vấn đề về cơ cấu hiện tại. Mặc dù cung cách quản lý kinh tế đất nước, vốn là sự pha trộn giữa kinh tế chỉ huy và kinh tế thị trường, được thông qua bằng biểu quyết theo đa số, nhưng điều đó liệu có phải là do các nhà lãnh đạo Trung Quốc thiếu nhãn quan không?
    Như chuyên gia Robin Rivaton nhận xét trên tạp chí “Đại Tây Dương”, mỗi khi hoạt động kinh tế chững lại, các doanh nghiệp không ngần ngại sa thải công nhân dư thừa trong bối cảnh không có luật bảo vệ quyền lao động. Tình trạng này liên quan trực tiếp đến toàn bộ số 240 triệu lao động di cư từ các vùng khác ở trong nước, trong đó có tới 130 triệu lao động làm việc tại các thành phố ven biển và là một phần lớn trong đội quân nhân lực giá rẻ của Trung Quốc. Đầu năm 2009, chính phủ nước này tỏ ra rất lo ngại trước nạn thất nghiệp tăng mạnh với 25 triệu lao động trong số nhân lực nói trên bị sa thải chỉ trong vòng vài tháng.
    Hiện nền kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt với tình hình căng thẳng về nhiều mặt. Chi phí sản xuất tăng do công nhân đòi hỏi phải có mức sống và lương cao hơn, từ đó tác động tới vai trò của nước này với tư cách là mặt bằng lao động giá rẻ của thế giới. Các biện pháp cứu trợ kinh tế được thực hiện từ năm 2008 đã làm nảy sinh hàng nghìn tỷ USD tín dụng do các ngân hàng Nhà nước cho vay với lãi suất cực kỳ thấp. Tình hình đó dẫn đến tình trạng đầu tư quá mức và đẩy giá bất động sản tăng tới mức khiến nhiều hộ gia đình không thể chịu nổi, từ đó thúc đẩy căng thẳng xã hội gia tăng.
    Nỗi lo sợ về một chảo lửa xã hội
    Tình trạng đó dãn đến bầu không khí xáo động khiến người ta nhớ lại vụ lộn xộn trong những năm 1996-2000 khi các doanh nghiệp Nhà nước sa thải ồ ạt nhân công và nạn thất nghiệp tăng mạnh tại một số trung tâm đô thị. Tình hình đó đã đẩy các nhà kỹ trị vội vã tung ra Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 dựa vào đầu tư ồ ạt vào cơ sở hạ tầng, bất động sản và các ngành công nghiệp xuất khẩu.
    Thời điểm phê duyệt Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 hồi tháng 10/2010, tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, chính là lúc ban lãnh đạo hiện nay, đứng dầu là Hồ Cẩm Đào, ký giấy cho người khác kế nhiệm mình. Tập Cận Bình được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương (CMC), một sự kiện được coi là sự thừa nhận vai trò thực thụ của vị ủy viên Thường vụ Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc này.
    Theo dự kiến, sau một năm nữa, tại Đại hội Đảng lần thứ 18, Tập Cận Bình sẽ phải được bổ nhiệm vào vị trí Tổng Bí thư và được chỉ định làm ************* tương lai cho hai nhiệm kỳ 5 năm. Như vậ, Hồ Cẩm Đào có thể sẽ có ý định tiếp tục đưa tăng trưởng lên cao hơn nữa trong hai năm 2011 và 2012 để rồi sau đó dặt củ khoai nóng bỏng vào tay người đồng chí vốn không phải là người mà ông ưa thích.
    Sự mập mờ chính trị của Hồ Cẩm Đào
    Vì ban lãnh đạo hiện nay dường như có vẻ đã buông xuôi nên mọi con mắt đều đổ dồn về các nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc. Tập Cận Bình, được coi là một nhà cải cách ôn hòa, liệu có đủ dũng cảm để thực sự hướng về tiêu thụ trong nước không?
    Hiện nay, các hộ gia đình ở Trung Quốc chỉ nhận được một phần nhưng không công bằng thành quả có được nhờ tăng trưởng vượt bậc ở nước mình. Quả thực là dân chủ đã được thực hiện trong mua bán nhà hay tài sản lâu hỏng, song người dân lại không nhận được những gì là thiết yếu nhất. Quyết định của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt là chính sách tiền tệ, đã dẫn đến hậu quả là thu nhập của các hộ gia đình – vốn là những người không được tham gia các vấn đề chính trị – được lái sang các tác nhân có quyền lực, chẳng hạn như các doanh nghiệp ở địa phương, dù là của Nhà nước hay của tư nhân. Đồng nhân dân tệ yếu đội giá hàng nhập khẩu lên, đồng thời làm giảm sức mua của các hộ gia đình, nhưng lại làm lợi một cách sai trái cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
    Như vậy, theo logic, phần thu nhập của các hộ gia đình trong tổng thu nhập quốc dân của Trung Quốc, trong giai đoạn 200-2011, giảm từ 70% xuống 50%. Cho đến năm 2005, chính các doanh nghiệp tư nhân lại có được thu nhập cao hơn nhờ sản xuất tăng trưởng mạnh. Nhưng từ năm 2005 đến nay, phần tăng (khoảng 30% thu nhập thực có) lại thuộc về Nhà nước (chính phủ, chính quyền địa phương và doanh nghiệp Nhà nước).
    Hộ gia đình: những người thua thiệt nhiều
    Theo chuyên gia Nouriel Roubini, nếu đạt khoảng 30% thu nhập ròng, lãi suất tiết kiệm không cao hơn so với ở Hồng Công, Xinhgapo hay Đài Loan, còn nếu tính bằng thu nhập quốc gia, lãi suất đó thấp hơn nhiều. Phần lớn là do các doanh nghiệp Nhà nước không làm sinh sôi nảy nở được các khoản tiền khổng lồ, chiếm khoảng 25% Tổng sản phẩm quốc nội năm 2010, vì đã được biến thành lợi nhuận không được phân phối.
    Tiêu thụ trong nước cần được tăng mạnh để hấp thụ năng lực công nghiệp dư thừa và từ đó bù đắp cho xuất khẩu. Trung Quốc ở trong thế phải giảm lãi suất tiết kiệm, đầu tư cố định cũng như quy mô hàng xuất khẩu ròng trong Tổng sản phẩm quốc nội để tăng phần của tiêu thụ lên. Muốn được như vậy, cần ưu tiên cho một chính sách tiền tệ mới và định giá cố định đồng nhân dân tệ cho những năm tới. Trái lại, tăng tỷ giá đột ngột có thể sẽ là một cú sốc quá mạnh đối với một nền kinh tế còn đang chứa nhiều bong bóng cùng một lúc.
    Nhưng thực tế là Trung Quốc không có nhiều khả năng xoay xở để tăng mức tiêu thụ trong nước. Trong hai năm qua, lương tăng có giới hạn cộng với đình công liên tục đã làm xói mòn nhanh chóng thị trường Trung Quốc vì các doanh nghiệp phải chuyển sản xuất sang các thị trường cạnh tranh khác rẻ hơn như Việt Nam và Ấn Độ. Phát triển tiêu thụ trong nước ở Trung Quốc cũng là một vấn đề tế nhị: người tiêu dùng cũng cần có một đồng tiền mạnh để hỗ trợ sức mua, do vậy, các nhà xuất khẩu sẽ mất một phần lợi thế khi phải đối mặt với cạnh tranh. Người gửi tiết kiệm lại cần có lãi suất tương đói cao đối với tiền gửi để bảo đảm cuộc sống khi về hưu, do đó ngân hàng và doanh sẽ phải chịu chi phí cao hơn cho tiền gửi tiết kiệm.
    Đại nhảy vọt… hướng tới tiêu thụ trong nước
    Hậu quả là các mảng lớn của nền công nghiệp Trung Quốc có thể sẽ không còn có lãi. Các khoản vay xấu có thể buộc chính phủ nước này phải can thiệp và tái tạo vốn cho ngân hàng. Đầu tư bằng vốn cố định, hiện tương đương với 46% nền kinh tế so với 12% ở Mỹ, có thể nhanh chóng giảm mạnh, từ đó có nguy cơ gây thiệt hại về tăng trưởng việc làm mà đất nước đang rất cần để hỗ trợ tiêu dùng. Tóm lại, hình mẫu hướng về xuất khẩu của Trung Quốc có thể sẽ sụp đổ trước khi người tiêu dùng có khả năng tiếp cứu. Trong loại hình khủng hoảng đó, sức nặng kinh tế của Trung Quốc trở thành vấn đề.
    Hướng thứ hai là phải ban hành một chính sách xã hội và thuế. Thiết lập quyền lao động sẽ cho phép tiến hành các cuộc thương lượng thực sự về tiền lương để đồng lương không còn tăng chậm hơn sản xuất. Có thể tạo ra nền móng cho bảo hộ xã hội do Nhà nước thực hiện bằng cách thực hiện thu phí đột xuất đối với các doanh nghiệp Nhà nước, thậm chí lập ra một quỹ sử dụng tiền lấy từ việc tư nhân hóa chính các doanh nghiệp này.
    Nguy cơ thì nhiều, đặc biệt là nguy cơ phá sản đối với các doanh nghiệp hướng về xuất khẩu và chính phủ các địa phương hiện đang sống chủ yếu nhờ vay nợ và đầu cơ đất đai. Tái cho thuê các nguồn tài nguyên này sẽ cho phép Trung Quốc tạo ra các tác nhân nhằm vào thị trường quốc gia. Cuối cùng, Trung Quốc được khuyến cáo nên xóa bỏ hệ thống hiện nay, đồng thời phải chấm dứt được nạn tham nhũng đang làm hỏng một bộ phận lớn nhân viên các cơ quan chính trị và hành chính của mình.
    Thách thức đối với Trung Quốc là rất lớn, nhưng nếu vẫn cứ để như hiện nay sẽ dẫn đến tình hình bùng nổ và điều đó chắc chắn sẽ lại càng kích thích những kẻ đầu cơ trên toàn thế giới lao vào tìm kiếm một trỏ cá cược kéo giá xuống như đã từng xảy ra năm 2008. Giới chuyên gia kinh tế và chính trị phương Tây cho rằng Trung Quốc nên áp dụng giải pháp thông thường là tái cân bằng nền kinh tế vì đầu tư bằng vốn cố định (phương tiện sản xuất và bất động sản) đã gần bằng ½ Tổng sản phẩm quốc nội, tức là mức quá lớn và không thể chịu nổi về dài hạn.
    Tái cân bằng hệ thống có lợi cho bộ phận người chiếm đại đa số nhưng không được nói lên tiếng nói chính trị, có thể là một sự lựa chọn tuy là mạnh bạo đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc song lại tốt cho nước Trung Hoa. Và đó cũng có thể là điều tốt cho thế giới./.
    Nguồn:TTXVN (Angiê 20/10)
  5. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Trung Quốc tung 'học giả' đi tuyên truyền cho chủ quyền tại Biển Đông


    Thụy My / Trọng Nghĩa

    Bắc Kinh tìm mọi cách để áp đặt các đòi hỏi chủ quyền của họ tại Biển Đông, không chỉ bằng các hành động quyết đoán cụ thể, mà còn thông qua các học giả. Họ đi mọi nơi để tuyên truyền cho lập trường của Trung Quốc, đồng thời phản bác quan điểm của các nước khác, trong đó có Việt Nam. Vấn đề đặt ra là nếu không có người phản biện, lập trường của Bắc Kinh, dù không có cơ sở, cũng có thể bị ngộ nhận là đúng đắn.


    Như thông lệ từ hai năm gần đây, mỗi lần có hội nghị khoa học trong đó có đề cập đến Biển Đông là mỗi lần các đại biểu Trung Quốc bị chất vấn về tấm bản đồ hình lưỡi bò của Bắc Kinh. Quan điểm chủ quyền lịch sử, mà Trung Quốc nhấn mạnh để bảo vệ các đòi hỏi của họ, thường xuyên bị các học giả quốc tế đánh giá là không có sức thuyết phục.
    Bất chấp điều đó, Bắc Kinh vẫn tiếp tục tìm mọi cách để áp đặt các đòi hỏi chủ quyền của họ, không chỉ bằng các hành động quyết đoán cụ thể trong vùng Biển Đông, mà còn tung các chuyên gia đi mọi nơi để tuyên truyền cho lập trường của Trung Quốc, đồng thời phản bác quan điểm của các nước khác, trong đó có Việt Nam.
    Vấn đề đặt ra là nếu không có người phản biện, lập trường của Bắc Kinh, dù không có cơ sở, cũng có thể được coi là đúng đắn, với những tác động khó lường cho các quốc gia tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc tại Biển Đông.
    Thủ đoạn này của Bắc Kinh mới đây đã bị giáo sư Ngô Vĩnh Long, một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông thuộc trường Đại Học Maine (Hoa Kỳ), công khai vạch trần nhân một cuộc hội thảo được tổ chức tại Washington, có sự tham gia của một phái đoàn Trung Quốc rất hùng hậu.
    Đó là cuộc hội thảo diễn ra trong hai ngày 21-22/10/2011, do hai hiệp hội hòa bình tại Mỹ là American Friends Service Committee và Historians Against The Wars tổ chức. Với chủ đề chung là Hòa bình ở Châu Á – Thái Bình Dương, hội nghị này đã quy tụ nhiều học giả đến từ các nước Châu Á để bàn luận về các phương cách tránh việc quân sự hóa trở lại khu vực này.
    Tình hình Biển Đông căng thẳng trong thời gian gần đây, lẽ dĩ nhiên, đã nổi bật trong chương trình nghị sự, được đề cập đến trong hai tiểu ban (panel), một đề cập chung đến Đông Nam Á và một dành riêng cho Biển Đông.
    Tại hai cuộc thảo luận này, các đại diện Trung Quốc có mặt đông đảo, với các « chuyên gia » học hàm học vị đầy mình. Họ đã tranh thủ diễn đàn để tuyên truyền cho lập trường của Bắc Kinh tại Biển Đông, đặc biệt là tính chất đúng đắn của tấm bản đồ hình lưỡi bò mà Trung Quốc đã dùng làm cơ sở cho đòi hỏi chủ quyền rộng khắp của mình.
    Là diễn giả người Việt duy nhất trong cả hai cuộc họp, giáo sư Ngô Vĩnh Long đã trình bày quan điểm của Việt Nam về Biển Đông, đồng thời phản bác từng điểm một các lập luận của đại diện Trung Quốc.
    Học giả Vương Hàn Lĩnh "cãi chày cãi cối"
    Trả lời phỏng vấn của Ban Việt ngữ RFI, giáo sư Long đã không tránh khỏi phẫn nộ trước các lý lẽ, bị ông coi là « cãi chày cãi cối » của diễn giả Trung Quốc, chủ chốt là ông Vương Hàn Lĩnh, Giám đốc Trung tâm phụ trách Đại dương và Luật Biển, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc.
    Theo giáo sư Ngô Vĩnh Long, nhân vật này đã ngang nhiên gọi là « nói láo » trước cử tọa, khi khẳng định ba điểm phi lý : 1/ Việt Nam không có, hay là chưa có vùng kinh tế đặc biệt từ thềm lục địa trở ra ; 2/ Đường chữ U ra đời từ năm 1947, trong lúc Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) chỉ mới có từ năm 1982, nên không thể áp dụng cho tranh chấp Biển Đông ; 3/ Việt Nam đã ký kết với Trung Quốc nguyên tắc chỉ giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách song phương mà thôi.
    Đối với Giáo sư Ngô Vĩnh Long, các lập luận trên đây hoàn toàn vô lý, nhưng điểm đáng ngại là diễn giả Trung Quốc này « đã dùng chức tước, địa vị, rồi nói là đã có hàng trăm bài nghiên cứu được công bố, cho nên nhiều học giả (Mỹ) đến nghe đã bị khớp, và nếu không có những người khác phản biện lại, chứng minh khác đi, thì người ta tin là thật ».
    Sau đây là bài phỏng vấn giáo sư Ngô Vĩnh Long sau cuộc hội thảo tại Washington :

    Ngô Vĩnh Long : Hội thảo chia ra làm 2 phần : một phần về miền Bắc Châu Á, và một phần kia về Đông Nam Á : có một panel thảo luận chung về Đông Nam Á, rồi sau đó có một cuộc họp riêng về Biển Đông. Cái vấn đề quan trọng là nội dung tham luận của những người Trung Quốc được đưa sang.
    Trung Quốc đưa sang một nhóm người rất hùng hậu – mười mấy người - trong đó có những người như bà Yan Junqi (Nghiêm Tuyển Kỳ), Phó chủ tịch Quốc hội Trung Quốc, Chủ tịch Tổ chức Phát triển Dân chủ của Trung Quốc, Phó chủ tịch Tổ chức Hòa bình và Giải trừ Quân bị của Trung Quốc. Tôi đưa ví dụ để cho thấy họ đưa người hùng hậu như thế nào.
    Người thứ hai là Ding Yifan (Đinh Nhất Phàm), Phó giám đốc Viện Nghiên cứu Phát triển Toàn cầu. Người thứ ba là Xu Zhensui (Từ Trấn Tuy), Tổng thư ký Quỹ Hòa bình và Phát triển của Trung Quốc, do chính chính phủ Trung Quốc lập ra vào tháng 2 năm nay, để trao đổi gọi là (giữa) nhân dân Trung Quốc với nhân dân của tất cả các nước khác.
    Còn người được đưa ra đóng tuồng hai lần tên là Wang Hanling - tiếng Việt là Vương Hàn Lĩnh. Anh này là giám đốc Trung tâm phụ trách toàn bộ các vấn đề đại dương và Luật Biển, đã được chính phủ Trung Quốc đưa vào Liên Hiệp Quốc, làm ở bộ phận ứng xử đặc biệt điều khoản 2 của Luật Biển Liên Hiệp Quốc. Anh ta là người giỏi nhất về Luật Biển của Trung Quốc, đến nói chuyện ở hội thảo này, và hai lần được đưa ra để đấu với tôi trong hai panel (tiểu ban).
    RFI : Thưa giáo sư, như vậy thì quan điểm của ông Vương Hàn Lĩnh là như thế nào ?
    Ngô Vĩnh Long : Quan điểm của hắn như thế này, mà hắn nói mấy lần. Đó là Việt Nam không có, hay là chưa có vùng kinh tế đặc biệt từ thềm lục địa trở ra, tức là EEZ. Bởi vì nếu muốn có vùng kinh tế đặc biệt, thì phải xin các nước chấp nhận. Nhưng mà Việt Nam chưa xin, tức là Việt Nam không có EEZ.
    Đường chữ U được Trung Quốc thiết lập từ năm 1947, vì thế cho nên Luật Biển của Liên Hiệp Quốc, tức là UNCLOS, chỉ mới được đưa ra năm 1982, tức nhiên là không áp dụng được trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.
    Vấn đề thứ ba là việc ký kết giữa Việt Nam với Trung Quốc vừa qua là giải quyết mọi vấn đề (chỉ bằng đường) song phương thôi, không có nước thứ ba nào can dự vào hết. Rồi hắn lại nói thêm, giải quyết song phương với Trung Quốc là rất có lợi cho tất cả mọi người, vì Trung Quốc là nước lớn, cũng giống như anh cả cho nên đối đãi với người khác rất là tốt.
    Ví dụ như là vừa qua trong vấn đề phân chia ở Vịnh Bắc bộ, thì Việt Nam được 52%, còn Trung Quốc chỉ có 47% thôi - Tôi không biết tại sao 47 chứ không phải là 48% - như thế tỏ ra Trung Quốc rất tốt, thương thuyết song phương với Trung Quốc là có lợi nhất. Vừa qua việc Việt Nam sang ký kết với Trung Quốc cho thấy Việt Nam biết vấn đề này là có lợi nhất.
    Hắn cũng nói thêm, khi có tranh chấp chồng lấn, thì giữa hai nước thương thảo với nhau thôi, hay giữa các nước thương thảo với nhau. Rồi sau đó khi đồng ý rồi mới nộp lên Liên Hiệp Quốc, chứ không có chuyện tự nhiên có EEZ riêng cho mình đâu !
    Vì không hiểu vấn đề Biển Đông nên dễ tin vào lập luận của "chuyên gia" Trung Quốc
    Tôi thì tôi bác bỏ hết tất cả những lập luận này ở đó. Vấn đề là như thế này : Nhiều người Mỹ không biết các vấn đề về Đông Nam Á như thế nào, họ không biết vấn đề Biển Đông như thế nào. Mà nhiều người Mỹ lại không muốn chính phủ Mỹ bành trướng sang bên Đông Nam Á hay là Á châu. Cho nên khi Trung Quốc đưa những cái người gọi là chuyên gia này kia đi mà nói như vậy đó, là nhiều người họ tin lắm !
    Thành ra nếu không có những người khác đến nghe, đến nói, thì người Mỹ, mặc dầu họ là những chuyên gia, nhưng họ cũng không hiểu, nên họ tin. Nhưng mà sau khi tôi trình bày, tôi bác bỏ hết những chuyện ‘’cãi chày cãi cối’’ – xin lỗi là phải dùng từ ngữ này – của các học giả Trung Quốc này, thì những người Mỹ sau đó họ mới đến họ nói với tôi : Ồ, nếu mà không có anh, thì chúng tôi không hiểu vấn đề gì hết. Những điều anh vừa nêu lên, về những việc mà Trung Quốc đã và đang làm trong khu vực, làm chúng tôi rất là bối rối !
    Vấn đề bây giờ là, Việt Nam không có đủ người để đi nói thẳng nói thật với người Mỹ là Trung Quốc đang làm gì. Trong khi đó, Trung Quốc đưa không biết bao nhiêu cao thủ, đi từ chỗ này đến chỗ kia.
    Sau cái hội thảo của chúng tôi, thì cái nhóm này lại đi đến một trường đại học khác, trong đó có trường đại học ở Hoa Thịnh Đốn, trong hai ngày, và cũng nói những vấn đề này. Bởi vì, ở đại học không phải là một hội thảo về hòa bình, cho nên họ lại còn trịch thượng và ngang ngược kinh khủng ở đó nữa. Nhưng mà, lẽ dĩ nhiên là tôi không có trên panel nên cũng không phản đối được.
    RFI : Thưa giáo sư, chẳng hạn như lập luận của ông Vương Hàn Lĩnh, là đường chữ U có từ năm 1947, Luật Biển của Liên Hiệp Quốc có từ năm 1982 thành thử ra không có giá trị đối với cái đường chữ U đó. Như vậy đánh giá của giáo sư về lập luận đó như thế nào ?
    Ngô Vĩnh Long : Trước hết, vấn đề đường chữ U đưa ra là do một học giả của chính phủ Tưởng Giới Thạch ngày xưa. Họ chỉ đưa ra thôi, mà hồi đó là cái đường chữ U đó không phải có 9 đoạn, nó đến 11 đoạn lận. Nhưng họ chỉ nói như vậy thôi, chứ không phải là một quốc gia đưa ra. Mà có đưa ra đi nữa, thì vấn đề là như thế này. Theo luật quốc tế, thì cái gì được đồng ý sau mới là cái quan trọng nhất, chứ không phải cái gì mà tự nhiên anh nói trước. Bởi vì anh đồng ý sau, ví dụ như về UNCLOS, thì đây là cái chuyện mà anh phải thi hành. Chứ còn cái chuyện một người học giả nói chơi chơi năm 1947, rồi anh đem ra sử dụng là không đúng.
    Thứ hai nữa là đường chữ U nó chiếm các thềm lục địa của các nước khác, trong đó đặc biệt là của Việt Nam, mà nó cũng không có ranh giới phân chia gì rõ ràng hết. Thì theo luật, vấn đề này không được !
    Biến các vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp, rồi đòi thương thuyết tay đôi !
    Nhưng mà cái cách của Trung Quốc là như thế này. Bây giờ chả cần biết, cái vùng nào mà chưa tranh chấp hay là không có tranh chấp, thì Trung Quốc làm cho ra thành tranh chấp ! Khi làm ra tranh chấp thì hai nước phải giải quyết. Là họ nghĩ như vậy. Bởi vì hai nước giải quyết rồi mới đưa ra Liên Hiệp Quốc, chứ còn trước đó không được đưa ra Liên Hiệp Quốc. Thì cái cách cãi chày cãi cối, hay là chẻ (sợi) tóc (làm tư) là như vậy.
    Tôi nói thẳng ở hội nghị, là các anh đến đây để tìm các giải pháp hòa bình, nhưng mà (thật ra) các anh đến đây để tuyên truyền và chẻ tóc. Các anh làm như vậy là không đúng !
    Từ đó tôi mới phân tích vấn đề Trung Quốc bây giờ bành trướng và đế quốc như thế nào. Mọi người nghe, có vẻ họ cũng thấy là Trung Quốc đã quá lố.
    RFI : Có một vấn đề mà ông Vương Hàn Lĩnh này đã đưa ra vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Quan điểm của ông ta không đúng ở điểm nào, thưa giáo sư ?
    Ngô Vĩnh Long :Nó không đúng ! Thật ra là tự động cái vùng đặc quyền này nước nào cũng có thể có được, ít nhất là 200 dặm. Nhưng mà trong những hoàn cảnh, ví dụ như ở Việt Nam chẳng hạn, có một vùng biển khơi rất là rộng, mà không có tranh chấp. Thì Việt Nam có quyền xin cái vùng đặc quyền kinh tế này lên cho đến 350 dặm.
    Vấn đề bây giờ là Việt Nam đã xin nhiều vùng được đến 350 dặm, thì ở đây là Liên Hiệp Quốc họ chưa xét về vấn đề này, chứ không phải là Việt Nam chưa có vùng kinh tế đặc biệt. Nhưng vì Liên Hiệp Quốc chưa xét việc này, thì Trung Quốc nói là Việt Nam chưa có vùng kinh tế đặc quyền, vì vậy cho nên Trung Quốc tha hồ mà vẽ cái đường lưỡi bò chiếm cái vùng kinh tế đặc quyền của Việt Nam.
    Thì Trung Quốc chơi ngang như vậy, để nếu mà Việt Nam sợ mà thương thuyết song phương, thì họ nói, thấy chưa, hai nước đang thương thuyết song phương như thế, để khi thương thuyết xong rồi mới đưa ra Liên Hiệp Quốc. Tức nhiên là Trung Quốc mua thời gian và dọa nạt Việt Nam.
    Phản bác chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông là một vấn đề đấu tranh chính trị
    Thành ra cái vấn đề này là phải đem ra cho thế giới biết. Không những đem ra Liên Hiệp Quốc, mà phải đem ra tất cả các tổ chức, càng nhiều tổ chức quốc tế càng tốt, để nói cho người ta biết những chuyện này. Chính phủ Việt Nam không nên song phương đàm phán với Trung Quốc, hay là không cho những cá nhân hay những tổ chức của người Việt Nam đem những chuyện này ra trình bày với dư luận thế giới. Bởi vì vấn đề này không phải là vấn đề luật pháp nữa, mà vấn đề tranh đấu chính trị. Cho nên, nếu mà nghĩ đến việc thương thuyết về luật này kia, thì Trung Quốc tha hồ mà nó chẻ tóc cái vấn đề này.
    RFI : Quan điểm của ông Vương Hàn Lĩnh này, về thỏa thuận nguyên tắc vừa được ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc, là Việt Nam đã chấp nhận vấn đề giải quyết song phương. Cái đó cũng không đúng phải không, thưa giáo sư ?
    Ngô Vĩnh Long : Cái đó không đúng, và tôi đã nói thẳng ở ngay đó. Tôi đem ra bản dịch tiếng Anh, bản dịch chính thức của Trung Quốc. Tôi nói, đây nè, chuyện nào mà giữa Trung Quốc với Việt Nam, thì vấn đề đó sẽ đàm phán song phương. Nhưng chỗ nào có dính đến quyền lợi của các nước thứ ba, thì phải hỏi ý kiến của các nước đó. Tức nhiên là vấn đề này không phải là đàm phán song phương. Cái gì song phương thì đàm phán song phương, cái gì dính líu đến người khác thì đa phương.
    Tôi nói, một lần nữa anh không đi thẳng vào vấn đề, anh cứ tiếp tục anh chẻ tóc. Đi đến một cái hội thảo như thế này mà anh làm cái chuyện như thế, thì tôi nghĩ là sẽ không tìm được giải pháp hòa bình trong khu vực.Thì hắn đỏ mặt lên, hắn không biết nói cái gì. Bởi vì đúng là hắn nói láo trước mặt không biết bao nhiêu người !
    Tôi nghĩ rằng, vấn đề này không phải là vấn đề riêng của ông Vương Hàn Lĩnh, mặc dầu ông này coi hết những vấn đề về biển đảo của Trung tâm về các vấn đề biển đảo và Luật Biển của Trung Quốc. Nhưng tôi nghĩ đây là vấn đề chính sách chính thức của Trung Quốc. Mới vừa ký một cái thỏa thuận với Việt Nam, mực chưa khô đã đi nói láo với các hội thảo, hội nghị trên thế giới !
    Tôi nghĩ, vì thế cho nên Việt Nam cần phải làm sao vận động được thế giới trên vấn đề này. Vì như tôi đã nói, đây là vấn đề vận động chính trị. Chứ nếu mà im, thì thế giới tưởng là thật như vậy, mà trong khi Trung Quốc thì đưa đi không biết bao nhiêu người - ở Mỹ, như tôi đã biết, vừa qua có cả chục cái hội thảo như vậy, ở chỗ này chỗ kia - thì Việt Nam sẽ không vận động được sự ủng hộ của thế giới trong vấn đề này …Nếu Việt Nam mà không tranh thủ được, thì tôi nghĩ sẽ rất là mệt đấy.

    Nguồn: rfi
  6. mautimhoasim24

    mautimhoasim24 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/02/2011
    Đã được thích:
    1
    Tổng thống Obama chủ trì Apec






    Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã đến Hawaii, chuẩn bị đón tiếp các lãnh đạo châu Á Thái Bình Dương ở hội nghị thường niên Apec cuối tuần này.
    Dự kiến họ sẽ bàn về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay.

    Các bài liên quan


    Cụ thể, các bên sẽ thảo luận làm sao bảo vệ khu vực trước khó khăn kinh tế của châu Âu.



    Tổng thống Obama đang hy vọng thành lập khu thương mại tự do với nhiều nước trong vùng
    21 thành viên Apec chiếm khoảng 40% dân số thế giới và 44% giao thương toàn cầu.
    Phóng viên BBC Kim Ghattas ở Washington cho biết Mỹ nay xem châu Á đóng vai trò then chốt cho tương lai của Mỹ, cả về kinh tế và chiến lược.
    Vùng thương mại tự do, Xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiện bao gồm Chile, New Zealand, Brunei và Singapore - nói chung đều là các nước nhỏ.
    Nay Mỹ, Úc, Malaysia, Việt Nam và Peru đang thương thảo về việc gia nhập.
    Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, cũng vừa nói họ muốn đàm phán, và chuyện này có thể diễn ra bên lề hội nghị Apec.
    Thông báo chỉ vừa mới được Thủ tướng Yoshihiko Noda tiết lộ trước khi lên máy bay đi dự Apec ở Hawaii.
  7. Rutluivaolichsu

    Rutluivaolichsu Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    06/08/2010
    Đã được thích:
    1.506
    Đằng sau việc Mỹ chuẩn bị triển khai quân tới Australia

    (Dân trí) - Báo chí Australia và Mỹ cùng đưa tin rằng Tổng thống Barack Obama sẽ nhân chuyến thăm tới Australia vào tuần tới để thông báo rằng Washington sẽ cho đồn trú binh sĩ tại một căn cứ ở Darwin - một bước thay đổi lớn về mặt địa lý chiến lược.

    [​IMG]
    Lãnh đạo Mỹ và Australia sẽ đưa ra quyết định trong cuộc gặp vào tuần tới.
    Không phủ nhận
    Theo báo chí hai nước, Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ nhân chuyến công du Australia ngay sau khi kết thúc Hội nghị cấp cao APEC do ông chủ trì ở Hawaii, và tại Australia, người đứng đầu Nhà Trắng sẽ thông báo gửi Thủy quân Lục chiến sang đóng tại Darwin.
    “Sự kiện Mỹ đưa các đơn vị tác chiến sang Australia là một bước thay đổi lớn về mặt địa lý chiến lược”, tờ Sydney Morning Herald của Australia viết.
    Theo tờ báo, ngày 16/11, Tổng thống Mỹ sẽ đến thủ đô Canberra và sau đó lên thành phố Darwin ở vùng cực bắc nơi mà ông sẽ thông báo thành lập một căn cứ quân sự cho Thủy quân Lục chiến Mỹ.
    Bài báo nói Mỹ sẽ không xây dựng một căn cứ mới tại thành phố, mà sẽ sử dụng căn cứ Robertson Barracks đã có sẵn ở gần đó.


    Trong khi đó, giới lãnh đạo chính trị Australia tuy từ chối bình luận về thông tin này nhưng cũng không phủ nhận.
    Ngoại trưởng Australia Kevin Rudd giải thích là hãy để cho lãnh đạo cao cấp nhất của hai nước chính thức loan báo kế hoạch “hợp tác quốc phòng giữa hai đồng minh”.
    “An ninh quốc gia của Australia gắn liền với liên minh quốc phòng vững chắc với Mỹ”, ông nhấn mạnh.
    Trong khi đó, phát ngôn viên bộ Quốc phòng Mỹ George Little tuyên bố một cách khéo léo với báo giới: “Australia là bạn và đồng minh của Mỹ, do vậy hai bên sẽ tiếp tục hợp tác và tăng cường quan hệ quân sự.
    Một nhật báo khác của Australia, tờ The Autralian, cho biết thêm là ngoài Darwin, nhiều địa điểm khác đang được Mỹ và Australia nghiên cứu, trong đó có Perth ở phía tây.
    Nếu Darwin được chọn thì lực lượng Mỹ sẽ đồn trú trong căn cứ Robertson Barracks. Nơi đây cũng là hậu cứ của khoảng 4.500 quân Australia.
    Kế hoạch này sẽ thắt chặt quan hệ đồng minh quân sự từ 60 năm qua và củng cố sự hiện diện của Mỹ tại châu Á.
    Trong diễn văn đọc tại cuộc hội thảo quốc phòng vào ngày hôm qua 11/11, Bộ trưởng Quốc phòng Australia Stephen Smith nhận định là trong tương lai sẽ có thêm nhiều cuộc thăm viếng của chiến hạm, của máy bay quân sự cũng như sẽ có nhiều cuộc tập trận chung tại bắc Australia và tích trữ trang bị quân sự.
    Tại sao quân đội Mỹ lại cần thêm căn cứ tại Australia?
    Hiện nay, trong vùng Thái Bình Dương, Mỹ đã có hai căn cứ lớn tại Okinawa và Guam.
    Lý do ông Obama đưa ra quyết định triển khai quân đến Australia là gì, vì từ trước đến nay, Mỹ chỉ có một số hoạt động giới hạn tại Australia, kể cả tại trung tâm vệ tinh tình báo gần Alice Spring?
    “Đây là dấu hiệu cho thấy có mối quan ngại càng ngày càng lớn trước sức mạnh quân sự của Trung Quốc”, tờ Sydney Morning Herald của Australia viết.
    “Bắc Kinh mỗi năm mỗi tăng ngân sách quốc phòng và gấp rút tăng cường vũ khí. Vụ thử tàu sân bay đầu tiên hồi tháng 8/2011là một hình thức để Trung Quốc bày tỏ tham vọng trên biển đã gây phản ứng lo ngại từ các nước trong vùng cho đến tận Mỹ”.
    Các nhà phân tích Australia cũng cho rằng “đối tượng” của dự án này là mối đe dọa của Trung Quốc.
    Chuyên gia Georffrey Garrett, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Mỹ tại đại học Sydney, phân tích: “Trung Quốc là một đối tượng quan trọng của Mỹ và Australia”.
    “Chiến lược đối phó của Washington dựa trên hai cột trụ: thứ nhất là củng cố quan hệ với đồng minh và với các nước bạn trong vùng để đề phòng sức mạnh quân sự của Trung Quốc biến chất”.
    “Cột trụ thứ hai là xây dựng một cấu trúc kinh tế khu vực dựa trên cơ sở kinh tế thị trường của Mỹ và Australia để về lâu về dài Trung Quốc có thể gia nhập. Tuy rằng Bắc Kinh vẫn còn do dự vì không muốn phải cải cách nội bộ”.

    Dẫn lời các giới chức Mỹ và Australia, tờ The Wall Street Journal ngày 11/10 đưa tin rằng việc tăng cường sự hiện diện quân sự Mỹ tại Australia nhằm chứng minh cam kết của Mỹ đối với khu vực.

    Tờ báo cho rằng động thái này nằm trong nỗ lực của Mỹ nhằm tái tập trung vào châu Á, khi nước này này rút quân khỏi Iraq và Afghanistan.
  8. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118

    Vũ khí hiện đại của Mỹ với linh kiện điện tử của Trung Quốc ? Chuyện khôi hài mà có thật !
    Thế các chuyên gia quân sự Mỹ không nghĩ ra một điều sơ đẳng nhất , điều mà một nông dân quèn như tôi cũng nghĩ được : đó là khi chiến sự xảy ra , tên lửa của Mỹ phóng ra không lao vào mục tiêu mà quay về nơi đã phóng thì sao ? Hoặc phát nổ ngay khi điểm hỏa , gây thương vong cho xạ thủ và phá hủy khí tài xe máy , thậm chí san bằng cả trận địa tên lửa của Mỹ ? Về kỹ thuật , điều này không khó nếu TQ lén cài chip dấu trong các linh kiện điện tử kia !
    Một chuyện có thật , trước đây tôi đã kể 1 lần trên topic này , đó là vào năm 1979 , tôi có xem được một tài liệu của cơ quan quân khí F315 ( không phải F319 đâu nha :)) ) thông báo phải đem tất cả súng B41 ra kiểm tra lại , nhất là những khẩu còn nguyên niêm chưa qua sử dụng do TQ viện trợ sau 1972 đến trước 1975 . Lý do : một số súng khi đem bắn lần đầu đã nổ tại chổ phá tung súng và giết chết xạ thủ . Sau khi nghiên cứu , cơ quan quân khí tìm ra nguyên nhân quá đơn giản : bên trong khẩu B41 có một chiếc vòng bị lắp ngược , thuốc phóng khi được điểm hỏa đã không kịp thoát ra ngoài và tạo áp lực quá lớn bên trong nòng súng gây vỡ toác súng trên vai xạ thủ , không chết mới là chuyện lạ !
    Mà những khẩu súng này là do TQ viện trợ cho VN từ thời đánh Mỹ , khi đó ta chưa dùng ngay súng mới , chỉ dùng những lô nhận trước thôi .
    Thế mới thấy thằng Tàu bẩn này nó thâm như thế nào !
    Nó bắt tay với Mỹ bán đứng chúng ta , bảo ta trường kỳ kháng chiến , đừng thống nhất đất nước , đến khi thấy Mỹ thua chạy khỏi niền nam ( tháng 1-1973 Hiệp định Paris buộc Mỹ phải rút hoàn toàn khỏi VN ) thì nó ra tay chiếm quần đảo Hoàng Sa .
    Chúng nó đã chuẩn bị hàng mấy năm trời , vì chúng dự đoán ngày chiến tranh Trung Việt xảy ra là tất yếu , thế nên mới có màn cố tình lắp sai quy cách súng chống tăng B41 thế kia .
    Tất nhiên để xảy ra chiến tranh Trung Mỹ không phải là chuyện dễ , nhưng nếu xảy ra thì sao ? Lúc đó chú Sam mới chiêm nghiệm được thế nào là Tàu thâm !

    Mà cần gì chiến tranh nóng ? Ngay hiện tại , hàng ngày cuộc chiến chống tin tặc Trung Quốc làm Mỹ tiêu hao biết bao tinh lực tiền của , mất biết bao bí quyết công nghệ ?

    Chơi với Tàu chỉ có từ u đầu đến bầm mình mà thôi !

    :-":-":-":-":-":-"
  9. mautimhoasim24

    mautimhoasim24 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/02/2011
    Đã được thích:
    1
    Chủ tịch VN cảm ơn Mỹ quan tâm Biển Đông


    Cập nhật: 12:43 GMT - thứ bảy, 12 tháng 11, 2011


    [​IMG] Chủ tịch Việt Nam đang tham dự hội nghị Apec ở Hawaii


    ************* Việt Nam ngỏ lời cảm ơn Hoa Kỳ vì quan tâm đến tranh chấp trên Biển Đông.
    Ông Trương Tấn Sang có bài phát biểu tại Trung tâm Đông - Tây ở Honolulu nhân dịp ông đến Hawaii dự hội nghị thường niên Apec.

    Các bài liên quan




    Tường thuật chính thức của trung tâm này cho biết ông cũng nói thêm rằng Trung Quốc và Asean đã từng giải quyết được những tranh chấp lãnh thổ trong quá khứ.



    Theo ông, Việt Nam tin rằng cần duy trì tự do đi lại trên Biển Đông để tàu bè của bất kỳ nước nào cũng có thể đi qua.
    'Đối tác quan trọng'
    Phát biểu qua phiên dịch, ************* Việt Nam cho biết các viên chức Mỹ và Việt Nam nhân dịp này sẽ gặp nhau để bàn cách thức đưa quan hệ song phương "lên tầm mức mới".
    "Chúng tôi hợp tác rất tốt về quốc phòng và an ninh. Việt Nam xem Hoa Kỳ là đối tác rất quan trọng."
    "Nếu chúng ta hợp tác, nó đáp ứng được quyền lợi của cả hai nước và đem lại hòa bình [cho khu vực]."
    Từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1995, Hoa Kỳ và Việt Nam ngày càng cải thiện quan hệ ngoại giao, tuy vẫn bất đồng quanh vấn đề nhân quyền.
    Hiện Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 30 của Mỹ, với giao thương hai chiều đạt 18.6 tỉ đôla trong năm 2010.
    Ông Sang dự đoán: "Thương mại sẽ tăng mạnh trong những năm sắp tới."
    Ông nói thêm rằng hiện có 60.000 sinh viên Việt Nam đang học tại Mỹ và mỗi năm có khoảng 400.000 người Mỹ đến thăm Việt Nam.
  10. Goldsnake

    Goldsnake Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/12/2008
    Đã được thích:
    0
    Lang thang trên Web, thấy có cái hình này, không biết hư thực ra sao, các bác giải thích xem thực hư thế nào.
    Chép nguyên văn, không thêm bớt, bản thân tôi cũng không hiểu ra sao???? Vì cờ Trung Quốc chỉ có 4 ngôi sao nhỏ thôi chứ?????
    http://thichduthu.viet-numis.com/viewtopic.php?t=1885&sid=e5e1506ee7d25e94d8488696d2f0bba6

    "vnexpress là báo thuộc hàng sư tổ về nói Phét.....Sao mấy bác thích trích tin báo này thế....!!!Hết biết...
    Nhưng nói về sự cẩu thả (dùng từ nhẹ một chút) thì VTV1 cũng không kém....Đây là báo hình mới lạ....???
    trong phần tin tức thời sự, nói về tình 16 chữ vàng , họ đã trưng cờ TQ với 5 ngôi sao nhỏ.....??? Không biết họ định nói gì nhỉ,....???.
    "

    [​IMG]
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này