Quyết tâm cao nhất bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hải đảo - tập 10- Biển Đông - Ngôi nhà chung của chúng

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi hoatimbanglang, 19/10/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
3841 người đang online, trong đó có 242 thành viên. 07:24 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 43272 lượt đọc và 1115 bài trả lời
  1. gialongVT

    gialongVT Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/03/2008
    Đã được thích:
    1
    Ngư dân phải được đối xử trên biển với tinh thần nhân đạo
    (PL)- Đó là một trong những quan điểm của Trung tướng Phạm Đức Lĩnh, Cục trưởng Cục Cảnh sát biển VN, đưa ra tại Hội nghị những người đứng đầu cảnh sát biển các nước châu Á lần thứ 7 (HACGAM 7) diễn ra ngày 27-10 ở Hà Nội. Hội nghị có sự tham dự của 18 quốc gia và vùng lãnh thổ ở châu Á.
    Trung tướng Phạm Đức Lĩnh cho rằng về nguyên tắc, không những ngư dân mà công dân VN hoạt động trên biển có thể vô ý hoặc cố ý vi phạm thì sẽ xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, dựa trên tinh thần thương lượng hòa bình và trên luật pháp quốc tế về biển, các nước thống nhất không nên dùng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực đối với ngư dân và công dân vi phạm pháp luật trên biển. Đồng thời, các nước phải đối xử với ngư dân trên tinh thần nhân đạo.
    TRÀ PHƯƠNG
  2. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Nhật tìm thấy tàu đắm của quân Nguyên


    Cập nhật: 14:56 GMT - thứ ba, 25 tháng 10, 2011


    [​IMG]

    Giới nghiên cứu ở Nhật Bản tìm thấy một chiếc thuyền trong hạm đội quân Nguyên xâm lăng Nhật Bản hồi thế kỷ 13.
    Huyền thoại về cơn sóng thần nhấn chìm đoàn thuyền của quân Nguyên, cứu nước Nhật hồi đó, được nói đến nhiều.

    Nhưng đây là lần đầu tiên người ta tìm thấy vật chứng ngoài các tài liệu, thư tịch cổ nói về thời điểm bước ngoặt trong lịch sử Nhật Bản.

    Trong thời kỳ bành trướng của đế quốc Nguyên Mông, các tướng lĩnh quân bộ và kỵ binh của họ đã tung hoành từ Triều Tiên ở phía Đông sang Hungary ở phía Tây.
    Đế quốc Âu Á
    Đế quốc Nguyên Mông làm chủ một vùng Âu - Á rộng lớn trong vài chục năm và tổ chức đánh Nhật hai lần vào lúc lên tới đỉnh cao về thế lực vào các năm 1274 và năm 1281, dưới thời Hốt Tất Liệt (Kublai).
    Nay, phát hiện tại vùng biển gần bờ phía Nam đảo Kyushu rọi thêm ánh sáng vào cuộc viễn chinh bất thành đó.
    Nhờ công nghệ siêu âm, các nhà khoa học Nhật Bản đã tìm thấy một đoạn dài 12 mét của khoang chiến thuyền chìm trong cát.
    Người Nhật Bản cho rằng chiến thắng của họ sau hai lần quân Nguyên tấn công không thành phần nhiều nhờ vào sóng gió trên biển.
    Ngọn gió đó được gọi là 'kamikaze' hay 'thần phong', và huyền thoại này được dùng để khuyến khích phi công Nhật tấn công cảm tử vào tàu chiến Mỹ hồi Thế Chiến Hai.
    Khoang thuyền tìm được mang dáng vẻ chiến thuyền cùng thời của Trung Quốc.
    Vốn gốc du mục, quân Nguyên ít có kinh nghiệm thuỷ chiến và đã cưỡng bức thợ Trung Quốc và Triều Tiên đóng hạm đội.
    Trên thực tế, khi đem quân sang Nhật, quân Nguyên không phải hoàn toàn bị đắm tàu.
    Một số đơn vị cũng đã đổ bộ được lên đảo Nhật Bản và thậm chí có thắng trận nhỏ.
    Nhưng các nhóm này bị hết lương thảo vì thuyền tiếp vận bị gió bão tàn phá.
    Đế quốc Nguyên Mông hình thành từ liên minh bộ lạc do thủ lĩnh Temujin lập ra vào thế kỷ 12.
    Là một chiến binh tài giỏi nhưng tàn ác, ông lên ngôi lấy hiệu là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan).
    Lãnh thổ do ông và con cháu chiếm đoạt qua các cuộc chinh chiến đã trải dài từ Đông sang Tây và từ phía Bắc là Siberia xuống cả phía Nam là vùng nay thuộc Afghanistan.
    Sau khi chiếm được Trung Quốc, con cháu Thành Cát Tư Hãn định cư tại nước này và lập ra nhà Nguyên.
    Sau khi diệt nhà Nam Tống và nước Đại Lý, Nguyên triều cho quân đánh Đại Việt ba lần đều thất bại.
  3. gialongVT

    gialongVT Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/03/2008
    Đã được thích:
    1
    Đồng thuận bảo vệ an ninh biển

    Thứ Sáu, 28/10/2011 00:16
    (NLĐ) - Hoạt động hợp tác cảnh sát biển trước hết phải tuân thủ luật pháp quốc tế, vì lợi ích của mỗi quốc gia nhưng đồng thời phải tôn trọng và bảo vệ lợi ích của các quốc gia khác cũng như lợi ích, hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực…

    Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đã phát biểu như trên tại Hội nghị những người đứng đầu Cảnh sát biển châu Á lần thứ 7 (HACGAM-7) diễn ra tại Hà Nội ngày 27-10.
    [​IMG]
    Các nhà lãnh đạo đại diện cho lực lượng cảnh sát biển của các nước và vùng lãnh thổ châu Á tại hội nghị. Ảnh: Bích Diệp
    17 nhà lãnh đạo đại diện cho lực lượng cảnh sát biển của 17 nước và vùng lãnh thổ châu Á đã tham gia hội nghị, bàn thảo và tìm kiếm giải pháp cho vấn đề tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin, an ninh và an toàn trên biển: Về tranh chấp lãnh thổ, cướp biển, khủng bố, buôn người, động đất, sóng thần, bảo vệ môi trường biển…
    Đô đốc Ramon C.Liwag, Tư lệnh Lực lượng Phòng vệ biển Philippines, đánh giá hội nghị lần này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động hợp tác giữa cảnh sát biển các nước, tạo điều kiện cho các nước xây dựng cơ chế hợp tác, trao đổi thông tin để bảo đảm an ninh hàng hải, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và an toàn môi trường biển. Còn theo ông Vajapey Julasri Ramachandra Murthy, người đứng đầu đoàn đại biểu Cục Phòng vệ bờ biển Ấn Độ, các vấn đề an ninh trên biển không thể giải quyết được chỉ bằng sự nỗ lực riêng rẽ của từng quốc gia mà cần sự chung tay của tất cả các quốc gia biển.
    Kết thúc hội nghị, đại diện 17 nước và vùng lãnh thổ đã thông qua Tuyên bố chung HACGAM-7, nhất trí thừa nhận nạn cướp biển, cướp có vũ trang là một thách thức an ninh trên thế giới; đồng thời tái khẳng định sự cần thiết phải hành động kiên quyết phù hợp với khả năng của lực lượng bảo vệ bờ biển và pháp luật quốc gia cũng như tầm quan trọng của biện pháp đối phó với cướp biển.
    Hội nghị đã nhất trí đề nghị xây dựng một chương trình hành động 5 năm cũng như xem xét kế hoạch chương trình thảo luận tại HACGAM-8 hướng tới an toàn hàng hải, an ninh và bảo vệ môi trường qua những nỗ lực chung của các nước trong việc xây dựng năng lực, biện pháp đối phó chống lại hành vi trái pháp luật, phản ứng chống lại thảm họa thiên nhiên lớn cũng như các hoạt động bảo vệ bờ biển.

    B.Diệp – BTQ
  4. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Tin này có lẽ tốt cho thị trường CK , BDS

    28/10/2011 | 06:33

    Lương tối thiểu cần tăng thêm 50%

    (Dân Việt) - Đó là quan điểm của Viện Công nhân - Công đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) sau khi nghiên cứu về lương cho công nhân. Mức lương hiện tại chỉ đáp ứng 60% mức sống tối thiểu của người lao động.


    Lương tối thiểu phải 3 triệu đồng
    Theo ông Đặng Quang Điều - Viện trưởng Viện Công nhân - Công đoàn: “Việc tính toán theo cách tính chung chung như hiện nay không phản ánh hết đời sống thực tế của người lao động”. Để xác định được mức lương tối thiểu và mức sống tối thiểu, Viện Công nhân - Công đoàn đã đưa ra phương pháp tính theo kilo calo, điều tra giá lương thực, thực phẩm, chi phí sinh hoạt cá nhân có tính đến yếu tố nuôi con.
    [​IMG]Dù đã tăng lương nhưng công nhân KCN Bắc Thăng Long (Hà Nội) vẫn chưa đủ sống.

    Theo khảo sát thực đơn bữa ăn của một công nhân tự nấu tại Hà Nội (vùng I) với khẩu phần ăn đủ 2.300 kilo calo/ngày tối thiểu cũng hơn 31.000 đồng. Tương đương với mức 942.000 đồng/tháng. Đối với các nhu cầu phi lương thực, thực phẩm với tính toán bằng 90% chi phí nhu cầu lương thực, thực phẩm, tức vào khoảng 730.000 đồng/tháng. Nhu cầu nuôi con bằng 70% chi phí lương thực và phi lương thực, tương đương 1.252.860 đồng/tháng.
    Để người lao động có thể tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng sức lao động (tại thời điểm 4.2011) thì mức lương ở vùng I phải là 3.042.660 đồng/tháng; vùng II là 2.861.780 đồng/tháng; vùng III là 2.664.750 đồng/tháng và vùng IV là 2.470.950 đồng/tháng. Như vậy, với tiền lương tối thiểu hiện nay vẫn còn một khoảng cách quá xa đối với mức sống tối thiểu.
    Ông Mai Đức Chính – Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động VN cho biết: “Việc trả lương thấp, không tương xứng với công sức người lao động đã dẫn đến quan hệ lao động căng thẳng và đình công gia tăng, đặc biệt là ở khu vực doanh nghiệp FDI. Từ đầu năm 2011 đến nay, 90% các cuộc đình công liên quan tới tiền lương”.
    Gần 40% không hài lòng với công việc
    Là lao động có tay nghề về lĩnh vực in ấn, gắn bó với công ty hơn 4 năm, hiện anh Nguyễn Văn Nam (quê Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) mới chỉ đạt được mức lương 2,8 triệu đồng /tháng. “Tôi phải làm thêm ca đêm cho một công ty khác cùng lĩnh vực in ấn mới có thu nhập hơn 4 triệu đồng/tháng. Với số tiền ấy tiết kiệm cũng chỉ đủ sống nên chưa dám nghĩ tới việc xây dựng gia đình” - anh Nam cho biết.
    Bà Trường Thị Phương - Phó Tổng Giám đốc - Công ty Dệt 19.5 Hà Nội cho biết: “Quyết định tăng lương trước thời hạn vào tháng 10 vừa qua làm cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn nên đến nay tôi biết có doanh nghiệp không thực hiện được. Với nhiều doanh nghiệp, việc tăng lương cơ bản chỉ là tăng thêm khoản đóng bảo hiểm chứ thực tế doanh nghiệp không thể trả được theo quy định của Nhà nước, nhất là doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn khó khăn này”.
    Theo ông Đặng Quang Điều, từ năm 2008 đến 2011 đã có 4 lần điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu vùng với mức tăng từ 84 - 200%. Tuy nhiên, tiền lương tối thiểu dành cho khối doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, trong đó rõ nét nhất là đóng “khung cứng” ở mức tối thiểu (chứ không nhân hệ số theo lãi, theo năng suất) khiến người lao động chưa yên tâm gắn bó với doanh nghiệp.
    Khảo sát của Viện Công nhân – Công đoàn trong năm 2011 ở 60 doanh nghiệp và 2.000 công nhân cho thấy, có 8,2% NLĐ có thu nhập dưới 1,5 triệu đồng và chỉ có 14,7% NLĐ có thu nhập trên 3,5 triệu đồng. Trong đó, 35,6% số NLĐ cho biết thu nhập không đủ chi tiêu và 44,7% NLĐ phải chắt chiu, dành dụm mới đủ trang trải cuộc sống.
    Do đa số không đủ tích luỹ nên có tới 39,6% số NLĐ không hài lòng với công việc hiện tại. Họ mong muốn có mức thu nhập lên 3 lần mới có điều kiện để tái sản xuất sức lao động mở rộng và có tích luỹ để thực sự yên tâm công tác và gắn bó với doanh nghiệp.
    Phương Vy


    [​IMG]






  5. gialongVT

    gialongVT Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/03/2008
    Đã được thích:
    1
    Bộ sưu tập lớn về Hoàng Sa - Trường Sa
    28/10/2011 0:17
    Ngày 27.10, nhà sưu tập Trần Thanh Phương và vợ là bà Phan Thu Hương giới thiệu bộ sưu tập công phu tại tư gia ở Q.3, TP.HCM gồm 1.200 bài báo viết về Hoàng Sa và Trường Sa.
    Các bài báo được cắt dán và tạo hình, đóng thành cuốn sách dày 1.000 trang, với kích thước lớn 60 cm x 40 cm, nặng 18 kg. Sách đóng trang trọng bằng bìa cứng simili, mạ chữ vàng, do hiệu sách Văn Thơ thực hiện với kỹ thuật đóng bằng chỉ. Thao tác kỹ thuật trên phải chêm gáy cao lên, để sau khi dán các bài báo vào, sách không bị “hả miệng”, khâu này cần công sức nhiều nhất vì phải chêm từng tờ mới đóng được. Các bài báo nói trên được sưu tầm và cắt dán từ đầu năm 1979 đến cuối tháng 10.2011, tính ra đã hơn 32 năm, mỗi bài đều có ghi ngày tháng năm và xuất xứ.
    [​IMG]
    Ông bà Trần Thanh Phương - Phan Thu Hương với bộ sưu tập Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam - Ảnh: Giao Hưởng
    Bộ sưu tập lưu giữ các bài đăng trên báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Văn nghệ quân đội, Sài Gòn giải phóng, Văn nghệ TP.HCM, Thanh Niên, Tuổi Trẻ… của hơn 500 tác giả, có bài đăng trên giấy vàng và mỏng thời ấy, song nét chữ in bằng chì vẫn còn rất rõ. Qua đó, công chúng có thể thấy rõ sự thật lịch sử và vấn đề pháp lý liên quan đến Hoàng Sa - Trường Sa, đặc biệt từ trước đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Chẳng hạn văn bản liên quan đến chủ quyền Việt Nam ở hai quần đảo trên trong thông báo của Bộ Ngoại giao Pháp năm 1933, Nghị định số 4702/CCP của Thống đốc Nam kỳ, Nghị định số 3282 của Toàn quyền Đông Dương năm 1939, Sắc lệnh số 143-NV của Tổng thống Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam năm 1956, Nghị định số 709-BNV/HĐP của Việt Nam cộng hòa (Sài Gòn) năm 1969 và 1970… Bộ sưu tập cũng cho thấy các sự kiện ngoại giao liên quan đến chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Trong đó, mốc quan trọng là vào tháng 12.1981, Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam công bố sách trắng “Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam”. Tiếp đó vào năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng nước ta ra Quyết định số 193-HĐBT thành lập huyện Trường Sa và Quyết định số 194-HĐBT thành lập huyện Hoàng Sa. Tất cả các sự kiện và văn bản liên quan đều được phản ánh qua cả nghìn trang báo của bộ sưu tập và đã được gửi đến Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam - Vietkings để thẩm định. Tổng giám đốc trung tâm là ông Lê Trần Trường An cùng hội đồng tư vấn, đã tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu chuyên ngành như tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, nhà biên khảo văn học Phạm Đan Quế, qua công trình sưu tập trên kết hợp với thông tin dữ liệu quốc gia, rút ra hai kỷ lục về Trường Sa và Hoàng Sa như sau:
    [​IMG]
    Một trang báo của bộ sưu tập
    1. Trường Sa là quần đảo xa bờ có nhiều tiểu đảo nhất và là quần đảo đang làm "rung động trái tim Việt Nam” mạnh nhất: nằm về phía cực nam của quần đảo Hoàng Sa, trên đường hàng hải Sài Gòn - Hồng Kông - Trung Hoa - Nhật Bản, cách vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa) khoảng 250 hải lý, cách bờ biển thành phố Vũng Tàu 340 hải lý, với khoảng trên 100 đảo đá, bãi cạn, nằm rải rác trong một khu vực khoảng từ 6,50o đến 12o Bắc vĩ tuyến và từ 111,30o đến 117,20o kinh Đông. Đây là một quần đảo bao đời nay luôn có những người lính Việt Nam hiên ngang cầm gươm, súng trấn giữ, bảo vệ lãnh thổ biển đảo nước nhà. Đến nay, mọi người dân Việt Nam từ Bắc chí Nam, ai ai cũng luôn hướng về đó với tất cả tình cảm yêu thương và trân trọng.
    2. Hoàng Sa là quần đảo duy nhất mang tên một lễ hội dân gian tôn vinh những người lính bảo vệ biển đảo Tổ quốc: Cho đến nay người dân Quảng Ngãi vẫn còn lưu truyền câu ca dao: Hoàng Sa trời nước mênh mông/Người đi thì có mà không thấy về/Hoàng Sa mây nước bốn bề/Tháng hai khao lề tế lính Hoàng Sa.
    Cần nói thêm, trước đây ông bà Trần Thanh Phương - Phan Thu Hương đã ra mắt cuốn sách dày nhất mang chủ đề Đất nước tôi với 1.000 trang khổ 80 cm x 120 cm và được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận là “Cuốn sách sưu tập các bài báo có kích thước lớn nhất Việt Nam” vào năm 2006. Còn bộ sưu tập Hoàng Sa - Trường Sa này sẽ chính thức được trưng bày tại Trung tâm tổ chức sự kiện và hội nghị White Palace (TP.HCM) trong dịp Hội ngộ kỷ lục gia toàn quốc năm 2011 vào chủ nhật 30.10 tới.
    Giao Hưởng
  6. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Báo Trung Quốc: Cảnh giác với 3 vũ khí chủ lực của Hải quân Việt Nam

    (Phunutoday) - 27/10, Đài Truyền hình Trung Quốc (CCTV) đã nêu ra ba loại vũ khí chủ lực của Hải Quân Việt Nam bao gồm: Tàu hộ vệ tên lửa lớp Gepard 3.9, Tàu ngầm Kilo 636 và tàu tên lửa lớp 1241.8

    Phóng sự này được phát vào ngày hôm qua trên kênh CCTV13 của Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc, phóng sự này nói rằng: "Trong mấy năm trở lại đây Hải quân Việt Nam đang vươn lên trở thành một lực lượng mạnh trong khu vực Đông Nam Á, bằng các hợp đồng vũ khí lên đến nhiều tỉ USD Hải quân Việt Nam đang có một cuộc "thay máu" kì diệu nhằm hiện đại hóa vũ khí, khí tài quân sự".


    Hải quân Việt Nam đang phát triển với tốc độ nhanh chóng

    Đài Truyền hình Trung Quốc (CCTV) đã nêu ra ba loại vũ khí chủ lực của Hải Quân Việt Nam bao gồm: Tàu hộ vệ tên lửa lớp Gepard 3.9, Tàu ngầm Kilo 636 và tàu tên lửa lớp 1241.8
    "Trước hết phải nói đến hợp đồng mua 6 tàu ngầm Kilo 636 trị giá 1,8 tỉ USD được Việt Nam kí với Nga năm 2009, không chỉ mua tàu ngầm từ Nga Việt Nam còn mua cả thủy lôi và hỏa tiễn trang bị cho loại tàu ngầm này.Các tàu ngầm lớp Kilo 636 được mệnh danh là "lỗ đen" do có khả năng ít bị phát hiện và là loại tàu ngầm diesel-điện êm nhất thế giới.

    Nó được thiết kế với sứ mệnh chống ngầm và chống tàu nổi, đồng thời có thể thực hiện các nhiệm vụ trinh sát và tuần tra. Tàu lớp Kilo có tải trọng 2.300 tấn, độ sâu tối đa 350 mét, tầm hoạt động 6.000 hải lý và thủy thủ đoàn 57 người. Phiên bản chuẩn được trang bị 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533 mm" CCTV13 cho biết.


    Tàu ngầm Kilo của Việt Nam trong tương lai
    Chưa hết, không chỉ nói về việc mua tàu ngầm của Việt Nam kênh truyền hình này cũng đã nói đến hợp đồng mua hai tàu hộ vệ tên lửa lớp Gepard 3.9: " Trong năm nay Việt Nam đã được Nga chuyển giao cho hai tàu hộ vệ tên lửa lớp Gepard 3.9 mà khi về Việt Nam được đặt tên là chiến hạm Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ. Hai tàu hộ vệ của Việt Nam được đóng ở nhà máy đóng tàu Zelenodolsk mang tên Gorki của Nga, theo một hợp đồng đã ký tháng 12/2006". CCTV 13 nói thêm.


    Tàu hộ vệ tên lửa Gepard 3.9
    Tàu hộ vệ tên lửa Gepard 3.9 có lượng choán nước toàn phần của tàu gần 2100 tấn, cự ly hoạt động gần 5000 hải lý. Qua quá trình cải tiến các đặc tính của động cơ, tàu đã đạt được vận tốc thực vượt chỉ số vận tốc khi thiết kế (từ 18 hải lý/h lên tới 21 hải lý/h), 2 tàu hộ vệ này có thể lắp đặt tổ hợp tấn công Uran với cự ly bắn đến 130km, gồm 2 ống phóng tên lửa có cánh chống hạm loại Kh-35E.

    Để đáp trả các đòn tấn công từ các mục tiêu trên không tầm thấp của đối phương, vũ khí pháo của tàu gồm tổ hợp pháo AK-176M cỡ nòng 76,2mm (152 quả) và bệ pháo kép tự động AK-630M cỡ nòng 30mm (2000 quả) bảo đảm tiêu diệt các mục tiêu trên không bay thấp, các mục tiêu mặt đất và dưới biển. Vũ khí chống ngầm bao gồm 2 ngư lôi 533mm trang bị 2 ống phóng, còn để chống ngư lôi tàu trang bị 1 thiết bị thả bom phản lực RBU-6000, trạm thủy âm loại MGK-335. Để tạo nhiễu chủ động có thể sử dụng 4 ống phóng loại PK-16.


    tàu tên lửa Project 1241.8
    Không chỉ nói về các sản phẩm vũ khí mua từ nước ngoài, CCTV 13 cũng nói đến Việt Nam đang được Nga trợ giúp rất nhiều về công nghệ và vật liệu để có thể đóng tàu tên lửa trong nước. CCTV 13 nói rằng: "Theo hãng tin ARMS - TASS của Nga, Nhà máy đóng tàu Vympel của Nga đang tiếp tục cung cấp các thiết bị hỗ trợ cho Việt Nam đóng các tàu tên lửa Project 1241.8 theo giấy phép của Nga. Theo lời Phó giám đốc nhà máy đóng tàu Vympel, ông Dmitri Belyakov cho biết, công ty đóng tàu Rybinsk đang chuyển đến Việt Nam các bộ phận để đóng 6 tàu tên lửa đầu tiên thuộc lớp 1241.8

    Các tàu tên lửa Project 1241.8 được đóng ở nhà máy đóng tàu Việt Nam và sẽ chịu sự giám sát về chuyên môn, kỹ thuật của các kỹ sư từ Viện thiết kế hải quân Trung ương (TsMKB) Almaz ở St Petersburg cùng với các kỹ sư của nhà máy đóng tàu Vympel. Việt Nam đang đóng 4 tàu tên lửa đầu tiên của Project 1241.8 . Trong đó, 2 tàu đã được đóng xong phần thân và đang được hoàn thiện lắp đặt các thiết bị như radar, vũ khí và 2 tàu còn lại đang được đóng phần thân"


    Việt Nam đang đóng 4 tàu tên lửa đầu tiên của Project 1241.8 . Trong đó, 2 tàu đã được đóng xong phần thân và đang được hoàn thiện lắp đặt các thiết bị như radar, vũ khí và 2 tàu còn lại đang được đóng phần thân
    "Tuy rằng hiện nay Việt Nam đang mua thêm nhiều loại khí mới như 4 tàu hộ tống lớp Sigma của Hà Lan, hay 4 tàu pháo của Nga nhưng 3 loại vũ khí kể trên mới thật sự là xương sống của Hải quân Việt Nam trong tương lai, với những loại vũ khí này Việt Nam đang dần dần nâng tầm mình lên cao hơn hẳn so với các nước trong khu vực Đông Nam Á" CCTV 13 kết luận.



    Phú nguyễn (Theo CCTV, Huanjiu, ARMS - TASS)
  7. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Một trong sáu nguyên nhân có thể dẫn đến xung đột quân sự Mỹ-Trung

    Thứ sáu, 28 Tháng 10 2011 00:00 Nguyen Tien Thinh
    Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu và Phát triển (RAND) của Mỹ (Six issues could lead to US-China military conflict) cho rằng có sáu nguyên nhân có thể dẫn đến xung đột quân sự Mỹ-Trung liên quan đến các vấn đề Bắc Triều Tiên, Đài Loan, Nhật Bản, Ấn Độ, chiến tranh mạng và tranh chấp trên Biển Đông.





    Nghiên cứu của RAND cho rằng Bắc Triều Tiên có khả năng sụp đổ do kinh tế yếu kém, mâu thuẫn nội bộ gay gắt hoặc xung đột quân sự với Hàn Quốc. Nếu một trong những tình huống đó xảy ra, chắc chắn Trung Quốc sẽ đưa quân đội đến Bắc Triều Tiên để ngăn dòng người tị nạn khổng lồ đổ vào Trung Quốc, còn Mỹ có thể tham gia cuộc xung đột để giúp đỡ Chính phủ Hàn Quốc thiết lập một chính quyền trên toàn lãnh thổ bán đảo Triều Tiên.

    Đối với vấn đề Đài Loan, nghiên cứu của RAND cho biết hiện chưa có câu trả lời rõ ràng về tương lai của hòn đảo này. Điều đó có nghĩa là Đài Loan cũng có thể trở thành "thùng thuốc súng" trong quan hệ Mỹ-Trung. Mặc dù các mối quan hệ - nhất là quan hệ kinh tế và thương mại - giữa Đài Bắc và Bắc Kinh đã được cải thiện trong những năm gần đây, nhưng một cuộc xung đột giữa Đài Loan và Trung Quốc có thể xảy ra bằng nhiều cách khác nhau, và Mỹ có thể trực tiếp đối đầu với Trung Quốc nếu Bắc Kinh dùng vũ lực đánh chiếm Đài Loan.

    Nguyên nhân dẫn đến xung đột Mỹ-Trung không dừng ở đó. Nghiên cứu của RAND cho biết bất đồng giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng có thể trở thành một tình huống nguy hiểm cho mối quan hệ Mỹ-Trung. Bên cạnh mối quan hệ căng thẳng mang tính lịch sử và nhiều người Trung Quốc cảm thấy một số quyết định của Chính phủ Nhật Bản đã phá hoại hoặc sỉ nhục mối quan hệ giữa hai nước, Trung Quốc và Nhật Bản hiện còn bất đồng về chủ quyền đối với quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư).

    Mỹ cũng có thể bị lôi kéo vào các cuộc xung đột do bất đồng biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Mặc dù đến nay Chính quyền Mỹ vẫn giữ lập trường trung lập về vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng nghiên cứu của RAND dự đoán Oasinhtơn có thể ngấm ngầm ủng hộ Niu Đêli nếu xung đột xảy ra giữa hai nước này.

    Theo nghiên cứu của RAND, những năm gần đây, quân đội Trung Quốc đã và đang "xâm lược" Mỹ bằng cách sử dụng các cuộc tấn công mạng. Đến nay, Oasinhtơn chưa có hành động đáp trả các vụ đột nhập hệ thống máy tính của Mỹ, mặc dù các chuyên gia an ninh mạng của Mỹ nhận định hầu hết những hành động phá hoại đó chủ yếu xuất phát từ Trung Quốc. Tuy nhiên, không ai có thể bảo đảm rằng Oasinhtơn sẽ không trả đũa một khi họ có đầy đủ những bằng chứng rõ ràng rằng Chính phủ Trung Quốc trực tiếp chịu trách nhiệm về việc phát động cuộc chiến tranh mạng. Tuy nhiên, nghiên cứu của RAND dự đoán nếu xảy ra một cuộc xung đột mạng, không nước nào giành thắng lợi tuyệt đối.

    Về vấn đề Biển Đông, nơi một số nước đồng minh châu Á của Mỹ đã và đang can dự vào các cuộc tranh chấp lãnh thổ phức tạp với Trung Quốc, nghiên cứu của RAND khẳng định khi cuộc tranh cãi trở thành xung đột, khả năng một số nước đồng minh sẽ kêu gọi sự giúp đỡ của Mỹ. Lúc đó Oasinhtơn không thể khoanh tay đứng nhìn các nước đồng minh bị Trung Quốc "vùi dập"
  8. gialongVT

    gialongVT Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/03/2008
    Đã được thích:
    1
    Cứu một ngư dân Thái Lan bị nạn

    Thứ Sáu, 28/10/2011 00:30
    (NLĐ) - UBND thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận cho biết cơ quan chức năng của tỉnh ngày 27-10 đã hoàn tất thủ tục để đưa một người Thái Lan được cứu nạn trên biển về nước.

    Ngư dân gặp nạn là Ta Wan, 20 tuổi, bị trôi dạt trên vùng biển tỉnh Cà Mau đã may mắn gặp được thuyền của ông Trần Thanh Việt, ngụ phường Phước Lộc, thị xã La Gi, đang đánh cá ở khu vực này cứu sống, chăm sóc. Sau chuyến đi biển trở về, ông Việt đã bàn giao ngư dân này cho lực lượng biên phòng thị xã La Gi, vào chiều 25-10.

    L.Trường
  9. gialongVT

    gialongVT Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/03/2008
    Đã được thích:
    1
    Yêu sách mâu thuẫn ở Biển Đông: những hiểm họa khôn lường

    Thứ năm, 27 Tháng 10 2011 16:26
    [​IMG] [​IMG] [​IMG]

    Deep Danger: Competing Claims in the South China Sea
    Người dịch: Phan Văn Song
    Hiệu đính: Hoàng Anh Tuấn Kiệt
    Marvin C. Ott (Current History September 2011)
    "Biển Đông đang nổi lên như là một tiêu điểm đáng quan ngại cho Washington, trụ sở Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ tại Honolulu, và ở một số thủ đô các nước Đông Nam Á".

    Các vùng nước của Biển Đông được điểm bởi hàng trăm đảo san hô, rạn san hô và đảo nhỏ - chỉ có duy nhất một trong số đó có đủ nước ngọt để đáp ứng nhu cầu sinh sống của con người theo quy định của luật pháp quốc tế truyền thống. Tuy nhiên, các thực thể địa lí này và 1,35 triệu dặm vuông vùng nước xung quanh chúng là đề tài tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc (TQ) và Đài Loan (có tuyên bố chủ quyền bao trùm hầu hết toàn bộ Biển Đông cùng tất cả các thực thể địa lý trên Biển Đông) và 5 nước Đông Nam Á (Malaysia, Brunei, Việt Nam, Philippines, và Indonesia; mặc dù tuyên bố của Indonesia chỉ giới hạn trong vùng nước ở đầu cực nam của biển này). Các nhóm đảo chính trong vòng tranh chấp bao gồm quần đảo Hoàng Sa do TQ chiếm đóng và quần đảo Trường Sa, nơi có nhiều nước tuyên bố chủ quyền đặt tiền đồn.


    Cho đến giữa thập niên 1990, vùng biển này không chỉ có tiềm ẩn nguy cơ dễ tạo ra xung đột, mà nó còn có mảng tối trong chính trị quốc tế phải tính toán kỹ. Ngay cả việc TQ chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, qua trận hải chiến với quân đội Nam Việt Nam, hầu như không có được sự chú ý nào của báo chí quốc tế. Các nước có tuyên bố chủ quyền đối với phần còn lại của biển này đã không ở trong tư thế thực thi tuyên bố hay thẩm quyền một cách có hiệu quả trên một khu vực khó khăn về hậu cần như thế. Hơn nữa, trong chiến tranh Lạnh, những xung đột trong vùng Đông Nam Á đều diễn ra trên đất liền, và Hoa Kỳ, cường quốc hải quân thống trị trong khu vực, đã không tuyên bố chủ quyền cho mình và cũng không quan tâm bênh vực cho những tuyên bố của nước khác.

    Sự việc bắt đầu thay đổi vào năm 1995 khi Philippines phát hiện ra TQ xây dựng một tiền đồn quân sự kiên cố trên rặng đá ngầm Mischief xa xôi nhưng quan trọng trong quần đảo Trường Sa. Dư luận quan tâm nhiều do vị trí của nó – cách Philippines (Palawan) 120 hải lý nhưng cách TQ (Hải Nam) hơn 600 hải lý. Philippines đã phản đối TQ [về việc xây dựng cơ sở này]. Manila cũng đã cố gắng tranh thủ sự ủng hộ quân sự của Hoa Kỳ nhưng không thành công, tuy nhiên họ đã thành công trong việc thuyết phục Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bày tỏ mối quan tâm tập thể mạnh mẽ đối với TQ.
    Bắc Kinh đáp trả bằng việc liên tục ve vãn Đông Nam Á, tìm cách tăng cường quan hệ trong khu vực và đánh bóng hình ảnh mình như là một "láng giềng tốt." Tâm điểm của những việc làm này là Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông, được ASEAN và TQ ký kết vào năm 2002, trong đó tất cả các bên cam kết ứng xử tốt trong khi chờ giải quyết các yêu sách mâu thuẫn nhau. TQ cũng bắt đầu chào mời sẵn sàng tham gia vào “phát triển chung” dầu khí và tài nguyên khoáng sản có thể có trong Biển Đông trong khi gác các tranh chấp sang một bên. Tuy nhiên, ngoài mặt thì trấn an, nhưng bên trong TQ vẫn không từ bỏ tuyên bố của họ đối với Biển Đông và vẫn xây dựng và nâng cấp cơ sở quân sự của họ ở Mischief Reef. Đến đầu năm 2010, địa chính trị của vùng Biển Đông đã định hình thành nên ba chủ đề. Thứ nhất, sự xung đột mới chớm giữa các tuyên bố chủ quyền của TQ và những tuyên bố của Indonesia, Malaysia, Philippines, và Brunei đã được giảm nhẹ tầm quan trọng sau khi các chính phủ có liên quan tiến hành những công việc khác. Thứ hai, Việt Nam đã nổi lên như là ngoại lệ cho quy tắc này, khi tàu tuần tra hải quân và hàng hải TQ bắt giữ tàu đánh cá Việt Nam và gây sức ép lên các công ty dầu khí phương Tây đang thăm dò theo giấy phép của Việt Nam buộc họ phải dừng hoạt động. Mặc dù việc phân định ranh giới đất liền giữa TQ và Việt Nam nói chung là thành công, nhưng, biên giới biển ở Vịnh Bắc Bộ vẫn còn hiện hữu những tranh chấp nghiêm trọng. Thứ ba, một vài sự cố đáng lo ngại xảy ra, trong đó tàu tuần tra TQ thách thức và quấy nhiễu các tàu khảo sát hải quân Hoa Kỳ hoạt động trong vùng biển quốc tế thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của TQ. Sự kiện nổi bật nhất liên quan đến tàu Impeccable bị tàu và máy bay TQ cố ép ra khỏi khu vực mà nó đang hoạt động, cách đảo Hải Nam khoảng 75 dặm hồi tháng 3 năm 2009. Nhìn chung, bề mặt Biển Đông vẫn đang tương đối êm đềm, nhưng sóng ngầm cuồn cuộn ở đáy biển có thể nguy hiểm khôn lường.
    Kêu gọi và đáp ứng
    Tháng 7 năm 2010, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton phát biểu tại một cuộc họp của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) tại Hà Nội. (ARF triệu tập 27 nước tại một hội nghị cấp Bộ trưởng để thảo luận các vấn đề an ninh ở châu Á. Bởi nó được tổ chức quanh 10 nước ASEAN, nên trọng tâm khu vực của ARF có xu hướng [bàn thảo về vấn đề] Đông Nam Á..) Theo thúc giục rõ ràng của nước chủ nhà Việt Nam, Clinton hướng nhận xét của mình vào các vấn đề liên quan đến Biển Đông. Sau khi lưu ý rằng một số quốc gia Đông Nam Á đưa yêu sách ít nhất về một phần nào đó của Biển Đông hoặc các thực thể địa lí của nó, bà kêu gọi những người tham dự ủng hộ hai nguyên tắc truyền thống của ngoại giao quốc tế: đàm phán đa phương đối với các tranh chấp đa phương và với tình trạng quốc tế đã xác lập của các tuyến đường giao thương trên biển.
    Về các tuyến đường biển đi qua Biển Đông - mà một số người đánh giá là nhộn nhịp nhất thế giới, bà Clinton nói: "Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải, tiếp cận mở tới vùng biển chung của châu Á, và tôn trọng luật pháp quốc tế." Tuyên bố này tái khẳng định chính sách lâu dài của Hoa Kỳ là các tuyến đường biển ở Biển Đông không chịu sự kiểm soát, quyền sở hữu (chủ quyền) bởi bất cứ nước nào và tình trạng của các tuyến đường này là lợi ích sống còn của Hoa Kỳ ở đó các tàu thương mại và hải quân của họ thường xuyên qua lại. Có 12 trong số 27 đại diện tại ARF, gồm phần lớn từ các nước ASEAN, đã phát biểu ủng hộ vị thế của Hoa Kỳ.
    Nếu Ngoại trưởng TQ Dương Khiết Trì chọn cách không phản ứng, tuyên bố của bà Clinton và chính cuộc họp tự nó sẽ chỉ nhận được sự quan tâm chiếu lệ bên ngoài một nhóm nhỏ các chuyên gia và các quan chức trong khu vực. Tuy nhiên, Bộ trưởng Ngoại giao TQ đã có phản ứng giận dữ. Ông cáo buộc Hoa Kỳ can thiệp vào các vấn đề không dính dáng gì đến mình và dường như đặc biệt tức giận các nước khác đã hùa vào chống đối TQ có dự tính qua việc ủng hộ Hoa Kỳ. E rằng còn có điều mù mờ, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao ở Bắc Kinh sau đó đã nói, "Chúng tôi kiên quyết phản đối bất kì quốc gia nào không có dính dáng tới Biển Đông can dự vào tranh chấp, và chúng tôi phản đối việc quốc tế hóa, đa phương hóa, hay mở rộng vấn đề này." Trong khi đó (sau cuộc họp tại Hà Nội), một phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng TQ tuyên bố theo ghi nhận rằng "TQ có chủ quyền không thể tranh cãi" đối với Biển Đông.
    Tác động của những diễn tiến này làm nổi bật tầm quan trọng của Biển Đông không những là một đấu trường quốc tế căng thẳng và xung đột tiềm năng, mà còn là một phép thử và chỉ báo về ý định chiến lược của TQ đối với Đông Nam Á. Như vậy, Biển Đông đang nổi lên như là một tiêu điểm đáng quan ngại cho Washington, trụ sở Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ tại Honolulu, và ở một số nước Đông Nam Á.
    Trong hầu hết hai thập niên qua, rất nhiều điều mù mờ bao quanh ý đồ chiến lược của TQ đối với vùng phía nam của họ. Các học giả và các quan chức chính phủ TQ, đặc biệt là ở Đông Nam Á đã - và vẫn không chắc chắn và chia rẽ nhau về quan điểm của họ. TQ đã đưa ra các tín hiệu trái ngược nhau, cho dù vô tình hay hữu ý, đã góp phần đáng kể gây nên sự rối rắm. Nhưng kể từ cuộc họp ARF đó, các nhà quan sát am tường đã phát hiện một sự liên hệ chặt chẽ về quan điểm cũng như quan ngại.
    Hòa bình và quyến rũ
    Đối với các chính phủ Đông Nam Á, vị trí địa lí và dân số của TQ sẽ là vấn đề lớn, áp đảo trong quan hệ đối ngoại của họ. TQ có chung đường biên giới trên bộ rất dài với khu vực này. Qua lịch sử trải dài hơn hai thiên niên kỷ, dưới nhãn quan Khổng giáo, triều đình TQ luôn xem Nam Dương (Nanyang - biển Nam) như là chư hầu phải triều cống. Từ quan điểm này, việc thuộc địa hoá hầu hết các nước Đông Nam Á của châu Âu và Hoa Kỳ làm gián đoạn một mối quan hệ lâu đời và tự nhiên. Nhưng thuộc địa hoá cũng đã thu hút số lượng lớn người TQ tới định cư ở khu vực. Điều này đã để lại cho Đông Nam Á hiện nay một di sản đầy rẫy vấn đề - sắc tộc Hoa vừa lớn vừa vượt trội về kinh tế.
    Chính phủ các nước Đông Nam Á trong những thập niên kể từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập đã thấy TQ chuyển hướng qua nhiều tầng năng lực và hành vi khác biệt. Trong những năm 1950 và thậm chí cả sau đó, TQ thúc đẩy ý tưởng quyền lực cách mạng vô sản, cổ vũ các cuộc nổi dậy Mác xít và các phong trào đô thị nhằm mục đích trước nhất lật đổ thuộc địa và sau đó lật đổ các chế độ hậu thuộc địa trong khu vực. Cuối cùng phong trào cộng sản chỉ nắm quyền ở các nước Đông Dương thuộc địa cũ của Pháp nhưng không vươn ra được bên ngoài.
    Từ giữa những năm 1960 đến giữa những năm 1970, TQ đã bị tàn phá bởi chiến dịch cực đoan hoá cùng cực trong nước của Mao Trạch Đông – chính là Đại ***************** Vô sản. Trong giai đoạn này, TQ hầu như không còn là một thành tố quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, và thậm chí ở bất cứ đâu trên chính trường quốc tế. Nhưng với cái chết của Mao Trạch Đông, và Đặng Tiểu Bình nắm vị trí lãnh đạo tối cao tiến hành cải cách kinh tế kiểu phương Tây, quỹ đạo chung của TQ và sự hiện diện của nó trong khu vực Đông Nam Á đã có bước ngoặt đáng kể và hứa hẹn. Bắc Kinh đã trở thành nhà vô địch trong các quan hệ kinh tế đang lên cũng như sự tăng trưởng và ổn định trong khu vực.
    Lời nhắn nhủ tới Đông Nam Á, lồng trong cụm từ "trỗi dậy hoà bình của TQ," là lời nhắn các mối quan hệ cùng có lợi với tổng dương (postive-sum). Sự tương phản với thời gian trước đó - với kinh nghiệm lão luyện của các quan chức cấp cao Đông Nam Á - có thể hầu như không có gì ấn tượng hơn. Về triển vọng chiến lược, các nhà lãnh đạo TQ hiện nay hiện thân như nhà hiện thực chủ nghĩa cổ điển của châu Âu thế kỉ mười chín - quan tâm thiết thân tới các đặc quyền về chủ quyền và sự thiêng liêng của biên giới, nổi bật với các mưu toan quyền lực và ảnh hưởng. Từ quan điểm của chế độ TQ, Đông Nam Á được hiểu như là một vùng trong vòng ảnh hưởng TQ một cách tự nhiên và chính đáng, một khu vực mà các lợi ích của TQ là tối quan trọng. Khi những điều này được thừa nhận thích hợp, Bắc Kinh sẵn sàng thông qua các chính sách có lợi cho khu vực Đông Nam Á cũng như TQ – sự thống trị của nhân và hòa Nho giáo.
    TQ hiện thân trước khu vực Đông Nam Á như một người hàng xóm lành tính, đôi khi được mô tả như là một "sự ve vãn dễ chịu" đã bắt đầu tạo nên mối quan hệ tốt đẹp vào giữa những năm 1990. Các nỗ lực ngoại giao tạo ra một loạt các thành tựu được thấy qua Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN-TQ, các thoả thuận khung cho hợp tác an ninh giữa TQ và mỗi thành viên ASEAN, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông nói trên và một quá trình "đối thoại" công phu cho sự tương tác có thứ lớp và thường xuyên về các vấn đề ngoại giao, kinh tế, và quốc phòng.
    Tất cả điều này đã được củng cố bởi các quan hệ thương mại và đầu tư, vốn đã phát triển lên đến chỗ TQ đã thay thế Nhật Bản và Hoa Kỳ thành đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN. Có lẽ thậm chí còn quan trọng hơn, TQ đã đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng (đường sắt, đường bộ, vận tải sông, đường ống, và lưới điện), một công việc có ý đồ liên kết khu vực Đông Nam Á và miền nam TQ như một đơn vị kinh tế duy nhất. Đồng thời, TQ đang xây dựng một "dòng thác" các đập thủy điện lớn trên thượng lưu sông Mekong ở miền nam TQ. Những con đập này sẽ không chỉ sản xuất điện mà còn cho TQ khả năng kiểm soát lưu lượng hệ thống sông Mekong, với những hậu quả không được tiết lộ cho các nước ở vùng hạ lưu.
    TQ mô tả tất cả những tiến triển này như là hệ quả tự nhiên và lành tính của "sự trỗi dậy hòa bình", và như là các lợi ích trọng yếu hiển nhiên cho Đông Nam Á. Tuy nhiên, ta không cần phải hoang tưởng để thấy những phát triển tương tự cũng phù hợp với – hay là tiền thân của - một chiến lược thống trị của TQ đối với Đông Nam Á. Ở các các nước trong khu vực, sau nhiều năm tin cậy trên sự tự miêu tả theo nghĩa quyền lực mềm của TQ, sự khó chịu và nghi ngờ về các khả năng quyền lực cứng đang tăng và ý định chiến lược rõ ràng của TQ. Những nghi ngờ này bị kích động - không chỉ bởi, mà là một phần đáng kể - thông qua các tuyên bố, hành động, tăng cường quân sự của TQ liên quan tới Biển Đông
    Lần theo các đường nhiều chấm
    Từ khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, TQ đã công bố bản đồ xác nhận biên giới biển ("đường chín chấm") do Trung Hoa Dân Quốc ban hành đầu tiên vào năm 1936 và bao trùm toàn bộ Biển Đông. Trong khi một số tuyên bố biên giới khác của Bắc Kinh đã làm dấy lên tranh cãi ngay lập tức (ví dụ, liên quan đến Ấn Độ, Tây Tạng, và Liên Xô), khái niệm bành trướng lãnh hải của TQ thường ít tạo ra sự chú ý.
    Tuy nhiên, điều này đã thay đổi chỉ sau một thời gian ngắn qua sự kiện Mischief Reef – tiếp sau những nỗ lực của TQ làm dịu mối quan ngại của Đông Nam Á và khéo léo loại bỏ Biển Đông ra khỏi mặt trận ngoại giao. Quan tâm của Bắc Kinh là đẩy vấn đề nhẹ nhàng: Một tuyên bố quyết đoán trên toàn bộ Biển Đông sẽ khiến TQ phải đối đầu với cả ASEAN, và TQ, trong mọi trường hợp, đều thiếu các khả năng quân sự để thực thi tuyên bố của mình. Đặng Tiểu Bình đã thường xuyên nhắc nhở đồng hương của mình một câu cách ngôn của TQ truyền thống "thao quang dưỡng hối (giấu mình chờ thời).” Đối với Bắc Kinh, sự minh bạch là một mối nguy hiểm và sự mập mờ là vốn quý khi nói đến Biển Đông.
    Trong những năm sau đó, sương mù dày đặc vẫn tiếp tục bao quanh những ý đồ của TQ. Một số là một sản phẩm phụ tự nhiên của thực tế về các quan điểm khác biệt ở TQ (giới học thuật, ngoại giao, quân sự, báo chí) nêu ra/giải quyết vấn đề mà không có hướng dẫn rõ ràng từ cấp lãnh đạo cao nhất. Nhưng phần lớn các động thái là có tính toán, và kết quả là sự mong manh và bất đồng trong cộng đồng nhỏ các nhà quan sát bên ngoài và các quan chức, những người có theo dõi vấn đề. Quan điểm phổ biến cho rằng TQ đã yêu sách một điều gì đó ít hơn yêu sách chủ quyền đầy đủ - phần lớn là vì Bắc Kinh tránh sử dụng từ đó. Theo quan điểm này, các đường nhiều chấm biểu thị một cái gì đó khác hơn là một biên giới pháp lý quốc tế, mà là biểu thị chính xác điều mập mờ của TQ.
    Lý do hàng loạt cho sự rối rắm vẫn cứ tồn tại. Vào các thời điểm khác nhau, các quan chức TQ đã dẫn ra cho các lí do cơ bản khác nhau và mâu thuẫn nhau làm nền cho tuyên bố của TQ, bao gồm cả sự hiện diện lịch sử, nguyên tắc quần đảo, nguyên tắc vùng đặc quyền kinh tế, và nguyên tắc thềm lục địa. TQ bác bỏ yêu sách của Nhật Bản đối với các mỏm đá trong Biển Hoa Đông qua việc nhấn mạnh rằng dân cư không thể sinh sống ở đó được như luật pháp quốc tế đòi hỏi - nhưng TQ đã dẫn ra cùng một dạng hình thể địa lí để biện minh cho tuyên bố của chính mình đối với Biển Đông." Tuyên bố về Lãnh hải của TQ vào năm 1958 nói tới "vùng biển công" (vùng biển quốc tế) ở Biển Đông – đã mâu thuẫn với khái niệm lãnh hải.
    Ngoài ra, bộ luật do TQ thông qua vào năm 1992, đưa đường nhiều chấm thành điều luật được nói đến như "vùng nước lịch sử TQ". Mục này không có chỗ đứng trong luật pháp quốc tế. Bắc Kinh đã vẽ các đường cơ sở quần đảo xung quanh quần đảo Hoàng Sa (mà họ tuyên bố chủ quyền), nhưng không vẽ xung quanh quần đảo Trường Sa (mà họ cũng có yêu sách). Và TQ đã phê chuẩn Luật Biển của Liên Hợp Quốc, nhưng với các bảo lưu khiến cho sự phê chuẩn trên gần như vô nghĩa.
    Hơn nữa, qua tuyên bố “vùng đặc quyền kinh tế ven biển”, TQ lại đưa ra một cách giải thích khái niệm về vùng đặc quyền kinh tế không được công nhận trong luật pháp quốc tế. Trong nỗ lực để nhằm bác bỏ một hồ sơ chung của Malaysia-Việt Nam nộp cho Liên Hiệp Quốc, năm 2009, TQ đã đệ trình một bản đồ bao gồm đường biên giới nhiều chấm của họ mà không có sự biện giải gì. (Indonesia phản ứng với một yêu cầu chính thức gửi Liên Hiệp Quốc rằng Bắc Kinh phải làm rõ tuyên bố của mình, TQ đã giữ im lặng.) Thật ra, đường nhiều chấm chưa bao giờ chính xác phân định biên giới, và nhiều phần của nó (ví dụ, gần quần đảo Natuna) vẫn hoàn toàn không rõ ràng.
    Sương mù mất đi khi chúng ta xem xét điều mà đường chấm chấm của TQ có ý định chính xác chính là những gì mà các quan chức TQ đã nhìn nhận nó là một phân giới của biên giới biển TQ. Bên trong đường này là lãnh thổ có chủ quyền của TQ. Trước hết, để ý rằng các đường chấm chấm xuất hiện trên tất cả các bản đồ TQ xuất bản được nới dài thêm quanh Đài Loan - và không có bất kì nghi ngờ nào tồn tại vì Bắc Kinh xem Đài Loan là lãnh thổ thuộc chủ quyền TQ. Năm 1974, TQ triển khai lực lượng hải quân cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa từ Việt Nam, một quần đảo không thuộc TQ vì tách rời và khác biệt trong vùng Biển Đông. Và Quân đội Giải phóng Nhân dân TQ (PLA) đã xây dựng một tiền đồn quân sự ấn tượng trên một rạn san hô nằm cách xa TQ hơn 600 hải lý.
    Cũng lưu ý rằng luật lãnh thổ TQ ban hành vào năm 1992 khẳng định đường nhiều chấm và uỷ thác lực lượng vũ trang TQ bảo vệ lãnh thổ biển này của đất nước. Sự phát triển nhanh chóng của TQ về khả năng quân sự tập trung vào việc tung lực lượng hải quân và không quân vượt ra ngoài bờ biển của TQ. Trong thời gian đó, Hải quân TQ đã ngăn cản ngư dân Việt Nam không cho hoạt động ngay bên trong EEZ của Việt Nam, cùng lúc, Bắc Kinh cũng đã cảnh báo các công ty dầu quốc tế phải từ bỏ hợp đồng thăm dò, khai thác ngoài khơi Việt Nam.
    Hơn thế nữa, một mặt TQ đồng ý kí Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông nhưng một mặt họ lại từ chối làm cho thỏa thuận này có ràng buộc pháp lý hoặc dừng việc xây dựng công sự mới. Hai đại tá PLA cao cấp đã trả lời "không" trong một hội nghị chuyên đề công cộng do Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương Hoa Kỳ chủ trì, khi được hỏi liệu Hạm đội 7 của Hoa Kỳ có quyền đi qua Biển Đông mà không cần sự cho phép của TQ hay không. Và trong một màn trình diễn gần đây về sức mạnh công nghệ, một tàu ngầm TQ lặn xuống chỗ sâu nhất của Biển Đông và cắm một lá cờ TQ ở đó. Trong các cuộc thảo luận khác nhau, các quan chức TQ đã quy cho Biển Đông như là một "lợi ích cốt lõi" - một thuật ngữ trước đây được dành riêng cho Đài Loan và Tây Tạng.
    Trong bối cảnh này, cuộc họp ARF tại Hà Nội đã cho thấy một khoảnh khắc rõ ràng - có lẽ không có gì rõ ràng hơn khi Ngoại trưởng TQ nhìn chằm chằm vào các đối tác ASEAN của mình bên kia bàn và nói gay gắt rằng một số quốc gia là "nước nhỏ" và TQ là "nước lớn."
    Các vướng mắc Đông Nam Á
    Hoa Kỳ sẵn sàng dành ra một phần vị thế cho việc ủng hộ một vùng biển chung, không là lãnh hải, và ủng hộ ngoại giao đa phương, trái ngược với sự quả quyết của TQ muốn thương thảo với từng nước Đông Nam Á một, lập trường đó của Hoa Kỳ được nhiều nước trong khu vực này hoan nghênh. Nó cho thấy một tín hiệu quan trọng và đã mỏi mòn chờ đợi rằng chính phủ các nước ASEAN không phải đối phó với TQ một mình mà có được sự ủng hộ của một người bạn hùng mạnh. Trong ý nghĩa này, sáng kiến của Clinton đã mang tới cho ASEAN một liều can đảm và sự tự tin trong mối quan hệ của họ với TQ.
    Điều đó nói lên, rằng các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ phải duy trì một nhận thức lành mạnh về những gì các chính phủ Đông Nam Á thực sự có thể và sẵn sàng để hành động. Dùng một phép ẩn dụ hơi thô thiển, nếu Washington thi đấu với Bắc Kinh thì ít nhất một số thành viên ASEAN có thể sẽ sẵn sàng giữ áo khoác của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, do một số lí do thuyết phục, có thể không trông đợi họ sẽ tự bước vào đấu trường theo bất kì cách nào ngoài việc cẩn thận đứng vây quanh.
    Thứ nhất, có một phương châm lâu đời rằng các chính phủ Đông Nam Á sợ bị buộc phải lựa chọn giữa TQ và Hoa Kỳ. Toàn khu vực đồng ý rằng mối quan hệ Hoa Kỳ-TQ là cực kì quan trọng đối với tất cả các bên liên quan. Khi các nhà lãnh đạo trong khu vực được hỏi loại quan hệ nào bảo vệ lợi ích cho Đông Nam châu Á tốt nhất, câu trả lời là một biến thể của nguyên tắc Goldilocks – “không quá nóng và không quá lạnh.” Một mối quan hệ hợp tác, nhưng không phải là hợp tác sâu sắc, mà chỉ vừa phải. Y như lo sợ xung đột Trung -Hoa Kỳ, các nước ASEAN cũng sợ điều ngược lại - các cường quốc định đoạt số phận của các nước nhỏ bất chấp ước muốn của nước nhỏ.
    Thứ hai, tầm ảnh hưởng và tầm với chiến lược của TQ với Đông Nam Á khá sâu đậm, mạnh mẽ, và ngày càng tăng. Điều này đặc biệt hiện rõ trong lĩnh vực kinh tế. Giữa năm 2009 và 2010, tổng giao dịch thương mại hằng năm tăng khoảng 50%. Không phải tình cờ, khu vực Mậu dịch tự do TQ-ASEAN có hiệu lực vào đầu năm 2010.
    Thứ ba, mặc dù có các khoản đầu tư đáng kể trong hiện đại hóa quân đội, không một quốc gia Đông Nam Á trang bị đủ để đối đầu với TQ về quân sự. Nước duy nhất đã làm như vậy trong những thập niên gần đây là Việt Nam, đáp trả lại cuộc xâm lăng vào năm 1979 của TQ vào biên giới phía bắc của họ. Quân đội Việt Nam tự thoát ra khỏi cuộc chạm trán đó, nhưng Hà Nội không có ảo tưởng rằng thành công như vậy có thể lặp lại ngày hôm nay. Lực lượng hải quân và không quân duy nhất có thể đối mặt với TQ ở Biển Biển Đông một cách đáng tin cậy chỉ có Hoa Kỳ - và nếu điều đó xảy ra, chỉ huy Hoa Kỳ khó có thể kì vọng nhiều vào sự hỗ trợ hoạt động từ các nước ASEAN, ngoại trừ sự hỗ trợ có thể có và rất hạn chế từ Việt Nam.
    Thứ tư, ASEAN không phải là hang gió không hiệu quả như một số người phương Tây mô tả - nhưng nó cũng không phải là chủ thể có mục đích thống nhất về Biển Đông. Điển hình như một số chính phủ ASEAN, gồm Lào, Campuchia và Myanmar, đáp ứng cao lợi ích của TQ và không có phần trong cuộc đấu trên Biển Đông. Điều tốt nhất mà Washington có thể mong đợi - và chỉ khi nó chăm chút – là được hỗ trợ ngoại giao thận trọng theo cách như những gì diễn ra tại cuộc họp ARF tại Hà Nội.
    Nghiêm trọng vượt mức
    Sự phân nhánh của một tuyên bố chủ quyền nghiêm ngặt của TQ đối với toàn bộ Biển Đông là sâu sắc. Bằng cách khẳng định chủ quyền đối với các tuyến đường biển, TQ đã xác lập một vị thế mà không một nước chính yếu nào trên thế giới có thể ủng hộ - các nước châu Âu không, Nhật không, Ấn không, Australia không, Hoa Kỳ không, và các nước ASEAN cũng không nốt. Rõ ràng, khi một cường quốc toàn cầu trỗi dậy nhanh chóng thực hiện một bước đi như vậy thì tác động nghiêm trọng quá mức.
    Ngoài ra, Biển Đông, giống như Đài Loan, có tiềm năng gây ra xung đột vũ trang rõ ràng giữa Hoa Kỳ và TQ. Đây là một bóng ma làm các nhà hoạch định quân sự ở Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương thức giấc giữa đêm. Nguy hiểm càng tăng lên bởi cách giả định rõ ràng của TQ rằng Hoa Kỳ đang thời kỳ thoái trào (cùng với các chi phí quốc phòng) trong khi TQ đang trỗi dậy (bao gồm cả chi phí quốc phòng).
    Trong khi đó, mặc dù thường bị đánh giá thấp, một cấu trúc an ninh vượt trội và độc đáo đã nổi lên ở Đông Nam Á. Đó là, theo cụm từ thích hợp của Victor Cha, một "miếng vá chằng chịt " các cơ chế đối thoại đa phương và các cam kết an ninh song phương liên quan đến Hoa Kỳ. Cấu trúc đó gìn giữ hòa bình trong khu vực có hiệu quả trong vòng 35 năm qua và hứa hẹn tiếp tục làm như vậy ít nhất trong trung hạn. Một đối đầu lớn trong Biển Đông có tiềm năng gây tổn hại không thể sửa chữa được cho cấu trúc này.
    Các sự kiện và các tuyên bố gần đây rõ ràng đã đóng khung cảnh quan chiến lược trong vùng Biển Đông. Một mặt, chúng ta đã thấy một vài cử chỉ của TQ có thể được miêu tả rộng rãi như là hòa giải. Tướng Trần Bỉnh Đức (Chen Bingde), tham mưu trưởng PLA, thực hiện một chuyến viếng thăm kéo dài một tuần tới Washington tháng 5 năm 2011. Trong một phát biểu quan trọng với các giới chức quân sự Hoa Kỳ, ông tuyên bố rằng "TQ không bao giờ có ý định thách thức [Hoa Kỳ về quân sự]," trong khi ghi nhận sự ưu thế liên tục của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ. Trong khi đó, các nhà ngoại giao TQ đã liên tục cố gắng gợi ý rằng các quy chiếu trước về một "lợi ích cốt lõi" của TQ ở Biển Đông có thể đã bị hiểu lầm. Đối thoại Shangri-la diễn ra tại Singapore vào tháng Sáu hằng năm, Bộ trưởng Quốc phòng TQ tuyên bố rằng TQ không "tìm kiếm quyền bá chủ" trong khu vực.
    Tuy nhiên,hầu như vào cùng thời điểm đó, cả Việt Nam lẫn Philippines đã đăng kí khiếu nại công khai những gì họ xem là hành vi bá quyền của TQ. Tháng 5 năm 2011 Việt Nam phàn nàn rằng tàu tuần tra của TQ đối đầu với tàu thăm dò dầu Việt Nam đang hoạt động ngoài khơi bờ biển miền Nam Việt Nam và cố tình cắt cáp thăm dò - sự cố thứ hai tương tự như thế xảy ra hai tuần sau đó. Điều này tạo ra một cuộc biểu tình phản đối chống TQ tại Hà Nội. Vào tháng 6, Manila cáo buộc hải quân TQ bắn vào ngư dân Philippines, đe dọa một tàu thăm dò dầu Philippines, và đặt các cột mốc (nhiều trụ và một phao) ở khu vực quần đảo Trường Sa do Philippines tuyên bố chủ quyền.
    Điều gì là thú vị và quan trọng nhất là phản ứng của TQ về các sự cố này và các sự cố tương tự. Một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao đòi hỏi cả hai nước này ngưng vi phạm trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của TQ. Tờ TQ Nhật báo của chính quyền TQ đăng ý kiến của một học nổi tiếng TQ (Công Kiến Hoa) tố cáo rằng Việt Nam và Philippines đã lợi dụng sự kềm chế của TQ bằng cách cố chuyển tranh chấp song phương thành tranh chấp đa phương.
    Bài báo này cho biết "Ban đầu, tranh chấp Biển Đông đã không dính tới bất kì tổ chức quốc tế hoặc khu vực nào. Nhưng sau khi ASEAN hình thành, Việt Nam, Philippines, và một số nước khác sử dụng nó như là một diễn đàn khu vực để phối hợp các vị thế của họ để ‘nói một tiếng nói chung’ và đạt được lợi thế chiến lược chống lại TQ. . . . [Và bây giờ Hoa Kỳ đã nhảy vào cuộc." Tác giả đã khẳng định rằng TQ ở vào thế bất lợi "chỉ với một số lượng nhỏ các đảo tranh chấp dưới sự kiểm soát của họ." Ngoài ra "không có một lực lượng hải quân ghê gớm. . . TQ đang ở một vị trí không thuận lợi. Để trở thành một thế lực có ảnh hưởng, TQ phải chuyển từ một ‘cường quốc lục địa’ thành một ‘cường quốc hải dương’. Và tranh chấp Biển Đông là một thử nghiệm thực tế cho TQ để đạt được mục tiêu đó." Không ảo tưởng, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ lúc đó Robert Gates, trong bài diễn văn cuối trước đối thoại Shangri-la, đưa ra một cách nhìn khác về Biển Đông. Ông nói "Vị thế của Hoa Kỳ về an ninh hàng hải luôn rõ ràng. Chúng tôi có một lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải, trong phát triển kinh tế và thương mại không bị cản trở, và trong tôn trọng luật pháp quốc tế. . . [bao gồm]. . . . tiếp cận mở và bình đẳng các tuyến đường thủy quốc tế." Gates mô tả sự hiện diện an ninh của nước Hoa Kỳ tiếp tục và phát triển ở Đông Á và Đông Nam Á: "Hợp lại với nhau, tất cả những diễn tiến này cho thấy cam kết của Hoa Kỳ duy trì mạnh mẽ sự hiện diện quân sự ở châu Á, một sự hiện diện bảo đảm sự ổn định bằng cách hỗ trợ và trấn an các đồng minh trong khi ngăn chặn, và nếu cần đánh bại kẻ thù tiềm năng." Tóm lạiNhìn chung, Biển Đông là một đấu trường chiến lược có tầm quan trọng ngày càng tăng và mức nguy hiểm không phải là không đáng kể. Nhìn toàn cầu, một kỉ nguyên trong chiến lược của Hoa Kỳ đang kết thúc khi các lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu rút khỏi Iraq và Afghanistan. Kỉ nguyên chiến lược tiếp theo chắc chắn sẽ có châu Á tại tâm điểm của nó - tăng trưởng về khả năng kinh tế và quân sự nhanh chóng trong khu vực đó làm cho điều này không thể tránh khỏi.
    TQ tạo thành cốt lõi địa lý và kinh tế của châu Á, sức mạnh và tham vọng đang tăng của TQ sẽ thúc đẩy các sự kiện và buộc các nước khác phải phản ứng. Hoa Kỳ từ lâu đã có được sự vượt trội trong lĩnh vực hàng hải. Tuy nhiên, Bắc Kinh đang phát triển khả năng hải quân và không quân hiển nhiên dường như có ý thách thức sự vượt trội đó ở Biển Đông và ở các tuyến đường biển trên vành đai châu Á - và do đó thách thức lợi ích sống còn của Hoa Kỳ về tự do của các vùng biển. Các lãnh đạo cấp cao của Bộ chỉ huy Thái Bình Dương Hoa Kỳ không có ảo tưởng về tầm vóc của thách thức đang trỗi dậy này.
  10. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226

    Hôm nay ttck tăng trần đồng loạt , khiếp
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này