Quyết tâm cao nhất bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hải đảo - tập 10- Biển Đông - Ngôi nhà chung của chúng

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi hoatimbanglang, 19/10/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
2916 người đang online, trong đó có 27 thành viên. 03:18 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 43632 lượt đọc và 1115 bài trả lời
  1. namson67

    namson67 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    19/10/2011
    Đã được thích:
    93
    Chúc Bạn ngon miệng. còn thiếu cai này nữa chứ [r2)] [r2)] [r2)] [r2)] [r2)]
  2. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Một bài viết tuy hơi dài nhưng rất hay, mời các bạn khi rỗi tham khảo.


    Chủ nghĩa dân tộc của người Trung Hoa và những mặt trái của nó

    Robert S. Ross

    Ngày 25-10-2011

    Kể từ chiến tranh lạnh đến nay, chưa bao giờ quan hệ Mỹ-Trung tồi tệ hơn lúc này. Vâng, trong quá khứ đã từng có những xung đột lẻ tẻ về vấn đề Đài Loan, căng thẳng quanh vụ Mỹ ném bom trúng Đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade (Nam Tư), hay vụ máy bay phản lực chiến đấu Trung Quốc va chạm với máy bay trinh sát của Mỹ trên vùng trời Biển Đông (nguyên văn: biển Hoa Nam). Nhưng sự xuống cấp gần đây trong quan hệ hai nước phản ánh một khuynh hướng dài hạn tiềm tàng, với nguy cơ xung đột mở rộng và kéo dài là rất cao. Cũng phức tạp không kém là việc căng thẳng gia tăng như thế không chỉ không cần thiết mà sẽ còn rất tốn kém cho Mỹ.

    Từ đầu năm 2009, Trung Quốc đã phạm một loạt sai lầm về ngoại giao, gây ra một sự chỉ trích gần như toàn cầu nhằm vào chính sách ngoại giao của họ. Danh sách các sai lầm rất dài:

    - Tháng 3-2009, hải quân Trung Quốc va chạm với tàu trinh sát Impeccable của Mỹ đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc trên Biển Đông;

    - Tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu ở Copenhagen, tháng 12-2009, Bắc Kinh phản đối quyết liệt việc đàm phán, gây ra những xích mích về ngoại giao giữa họ với châu Âu và với Mỹ;

    - Tháng 1-2010, với thái độ cứng rắn, Bắc Kinh phản đối quyết định bán vũ khí cho Đài Loan của Mỹ. Họ đe dọa sẽ thiết lập lệnh trừng phạt lên các công ty Mỹ có hợp tác về quốc phòng với Đài Bắc;

    - Tháng 3-2010, Bắc Kinh xử lý không tốt vụ Bắc Triều Tiên đánh chìm tàu hải quân Hàn Quốc Cheonan, gây ra một làn sóng phẫn nộ ở Hàn Quốc đối với Trung Quốc;

    - Những lời lẽ phản đối đinh tai nhức óc của Trung Quốc đối với các cuộc tập trận chung của hải quân Mỹ và Hàn Quốc trong vùng biển quốc tế ở Hoàng Hải;

    - Sự thù địch thái quá của Trung Quốc đối với việc Nhật Bản, vào tháng 9-2010, bắt giữ thuyền trưởng một tàu cá Trung Quốc hoạt động trong vùng biển mà Nhật Bản đã tuyên bố chủ quyền rồi lại bẻ lái cho tàu đâm vào một tài tuần duyên của Nhật;

    - Chiến dịch vụng về của chính phủ Trung Quốc nhằm buộc Google phải ngừng cung cấp dịch vụ tìm kiếm tại Trung Hoa lục địa;

    - Tháng 12-2010, phản đối gay gắt và dai dẳng việc Lưu Hiểu Ba được trao giải Nobel Hòa bình;

    - Ngày càng khẳng định một cách dữ dội những yêu sách về chủ quyền và kinh tế gây tranh cãi trên Biển Đông, gây khiếp sợ trên toàn Đông Nam Á.

    Trái ngược với ba thập kỷ thực hiện thành công chiến lược “trỗi dậy hòa bình” – từng giúp cho Bắc Kinh phát triển quan hệ hợp tác với gần như tất cả các quốc gia trên thế giới – chỉ trong vòng hai năm qua, Trung Quốc đã làm hỏng mối bang giao với gần như tất cả các nước châu Á và các quốc gia công nghiệp phát triển.

    Khởi nguồn của chính sách ngoại giao to mồm này của Trung Quốc không phải là việc họ nổi lên như một siêu cường khu vực với sự tự tin chừng mực vào những năng lực mới của mình. Thực chất, chính sách ngoại giao mới của Trung Quốc phản ánh sự tự tin đi theo hình xoắn ốc ở trong nước họ và tính phụ thuộc ngày càng nhiều vào chủ nghĩa dân tộc, nhằm có được ổn định bên trong. Washington đã hiểu sai tình hình chung (nguyên văn: state of affairs), phóng đại khả năng của Trung Quốc và về căn bản đã hiểu sai nguồn gốc của tất cả những chính sách ngoại giao hung hăng của Bắc Kinh.

    SỰ THẬT là Trung Quốc không đặc biệt mạnh về quân sự mà cũng chẳng đặc biệt ổn định về quốc nội. Chính sách ngoại giao hiếu chiến của Trung Quốc ra đời không phải do Mỹ gặp khó khăn về kinh tế trong hình hình suy thoái, cũng chẳng phải là một chỉ dấu cho sự tự tin ngày càng dâng cao của Bắc Kinh. Ngược lại, trong những năm gần đây, Bắc Kinh đã không triển khai quân và không sử dụng năng lực hải quân tân tiến của mình, còn môi trường kinh tế trong nước họ thì hiện giờ đang tồi tệ hơn bất cứ lúc nào kể từ khi năm 1978 khi công cuộc cải cách kinh tế thời hậu Mao bắt đầu.

    Nếu ra khỏi các vùng biển gần thì năng lực hải quân của Trung Quốc vẫn tiếp tục phải phụ thuộc vào tàu ngầm diesel tiên tiến, được vận hành lần đầu vào giữa thập niên 1990. Tính đến năm 2000, lực lượng tàu ngầm Trung Quốc đã bắt đầu là một thách thức đáng sợ đối với các hoạt động của hải quân Mỹ trên vùng biển Tây Thái Bình Dương. Nhưng kể từ năm 2000 đến nay, họ không triển khai thêm được sức mạnh hải quân nào có thể tạo một thách thức đáng kể đối với hải quân Mỹ hay là hệ thống bảo vệ về mặt quân sự mà Mỹ dành cho các nước đối tác về an ninh với họ. Trung Quốc vẫn chưa thể tự sản xuất máy bay quân sự tiên tiến, và cho đến nay cũng chưa cho ra được chiếc máy bay tiên tiến nào do họ tự thiết kế. Hai phi cơ chiến đấu J-15 và J-20 vẫn còn đang trong quá trình sản xuất. Cuối cùng họ đã cho cất cánh chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên, nhưng lại không có máy bay nào để hàng không mẫu hạm này chuyên chở. Hoạt động chống cướp biển của hải quân ở ngoài khơi Somalia chỉ ở mức căn bản. Việc bảo vệ những khu vực mà họ tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông thì phụ thuộc vào tàu tuần duyên. Trung Quốc đang phát triển năng lực ngăn chặn thâm nhập (access-denial) trong hàng hải công nghệ cao, bao gồm cả khả năng sử dụng tên lửa cao cấp; thế nhưng chưa có cái gì được thử nghiệm một cách phù hợp, lại càng ít cái được sử dụng thực tế. Chương trình tên lửa đạn đạo chống tàu không chạy được. Chương trình không gian của Trung Quốc đạt tiến bộ lớn, nhưng lực lượng Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) chưa phát triển được năng lực đủ để có thể gây thách thức đáng kể với khả năng viễn thông trong không gian của Mỹ, cũng chưa xây dựng được năng lực chiến đấu trong không gian. PLA đang phát triển các máy bay không người lái và hệ thống radar, nhưng những thứ này cùng các dự án quốc phòng khác lại cũng đang ở trạng thái rất sơ khai hoặc đang được thử nghiệm. Trung Quốc sẽ tiếp tục hiện đại hóa năng lực quân sự, và cuối cùng sẽ triển khai các hệ thống cao cấp có thể chống phá an ninh Mỹ và ổn định khu vực, nhưng chính sách ngoại giao mới của Bắc Kinh không thể được lý giải chỉ nhờ 30 năm chi tiền vào quốc phòng và hiện đại hóa quân đội.

    Chính sách ngoại giao to mồm đó cũng không phản ánh sự tự tin của Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế. Vào thời kỳ đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng xấp xỉ 10% một năm. Nhưng dưới cái mẽ ngoài thịnh vượng này, nền kinh tế Trung Quốc yếu đi một cách đáng kể. Tháng 10-2008, khi toàn thế giới suy thoái sâu sắc, lãnh đạo Trung Quốc tung ra một chương trình kích thích kinh tế đồ sộ nhưng rối loạn. Chương trình ấy không những không giải quyết nổi phần lớn những vấn đề có gốc rễ sâu xa từ trong hệ thống, mà còn sản sinh và nuôi dưỡng thêm nhiều vấn đề mới. Bất chấp gói kích thích, tỷ lệ thất nghiệp ở Trung Quốc vẫn rất cao tại các vùng nông thôn và trong lực lượng sinh viên vừa tốt nghiệp ở thành thị. Năm 2010, Thủ tướng Ôn Gia Bảo ước tính có khoảng 200 triệu người Trung Quốc thất nghiệp. Hơn thế nữa, trong suốt hai năm qua, bất bình đẳng xã hội – theo tiêu chuẩn quốc tế – đã trở nên cực kỳ cao. Hậu quả của gói kích thích là lạm phát tăng vọt, tác động tới giá lương thực thực phẩm, nhà ở và giao thông vận tải. Cho tới cuối năm ngoái, bong bóng bất động sản Trung Quốc đã xấu đi rõ rệt, các ngân hàng quốc doanh sa sút với một tốc độ ghê gớm hơn bất kỳ lúc nào khác trong 10 năm qua, và nợ công của các chính quyền địa phương thì lên cao ngất trời. Tăng trưởng kinh tế ngày càng phụ thuộc hơn vào những khoản đầu tư do chính phủ kích thích, chứ không dựa vào tiêu dùng – càng đổ thêm dầu vào lạm phát. Còn đáng lo ngại hơn thế, khu vực kinh tế quốc doanh đang mở rộng và khu vực tư nhân phải trả giá thay, do đó phá hoại mọi sự sáng tạo, đổi mới, trong khi lại chính trị hóa việc ra các quyết sách kinh tế. Đây đều là những vấn đề sâu rộng, đều cho thấy bất ổn định xã hội ở Trung Quốc sẽ gia tăng và tính chính đáng dựa trên cơ sở kinh tế của Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ bị bào mòn đáng kể.

    Những vấn đề của Bắc Kinh chỉ bị trầm trọng hóa bởi một thực tế là các công cụ ********* của chính quyền đang kém đi. Trong 5 năm qua, số lượng các cuộc biểu tình tự phát quy mô nhỏ và lớn đã tăng lên nhiều như nấm. Gần đây, Internet làm chính phủ yếu hẳn đi trong việc kiểm soát thông tin và giảm thiểu sự bất mãn trên toàn quốc đối với đảng. Internet đã trở thành một thiết bị hiệu quả để người dân truyền tải sự phẫn nộ của họ về tình trạng thất nghiệp, lạm phát, cũng như tham nhũng về kinh tế và chính trị, sự bạo hành của *******, nạn che giấu tội phạm, suy thoái môi trường và cưỡng chiếm tài sản. Thêm vào đó, mạng xã hội đồng đẳng (Twitter và các biến thể tương tự ở Trung Quốc) có khả năng trợ lực cho những cuộc biểu tình rầm rộ, độc lập và tự phát của quần chúng. Trung Quốc. Vụ bắt người đầu tiên vì tội viết blog ở Trung Quốc xảy ra vào tháng 9-2010 trong những cuộc tuần hành phản đối Nhật Bản bắt giữ ngư dân Trung Quốc. Bất ổn định về kinh tế diễn ra đồng thời với việc Đảng Cộng sản mất dần tầm kiểm soát xã hội. Sự yếu kém từ bên trong nước này đã buộc chính phủ phải dựa ngày càng nhiều hơn vào chủ nghĩa dân tộc để có được tính chính đáng cho chế độ – và điều đó giải thích tại sao Bắc Kinh lại mắc nhiều sai lầm về ngoại giao.

    Khi người dân Trung Quốc chứng kiến vị thế tương đối của họ trên thế giới được nâng cao dần lên (đặc biệt trong khi Nhật Bản đang đi xuống), Mỹ bị coi như vật cản cho việc Trung Hoa được quốc tế công nhận là siêu cường, vì thế cho nên Washington đang dần dần thế chỗ Tokyo để trở thành trung tâm của sự thù hận mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc. Giờ đây khi ảnh hưởng của đảng cộng sản bị suy thoái, đảng trở nên nhạy cảm hơn với sự đối kháng có tính chất dân tộc chủ nghĩa – cũng đang ngày càng dâng lên. Kể từ tháng 1-2010, trên mạng và trên báo chí, các tiếng nói dân tộc chủ nghĩa đã đòi Bắc Kinh phải quyết liệt hơn trên sân khấu quốc tế – trước cả khi chính quyền kịp tính đến một chính sách nào đó – đẩy các nhà lãnh đạo Trung Quốc vào thế phải tự vệ. Quả thật là trong vài năm gần đây, chủ nghĩa dân tộc đã lan rộng ra các khu vực thành thị, tác động đến không chỉ quân đội và những thanh niên bất mãn, mà còn tới cả công nhân, trí thức, cán bộ công chức, doanh nhân. Hơn nữa, công nghệ truyền thông trên nền Internet giúp cho các phần tử dân tộc chủ nghĩa ở Trung Hoa tương tác với nhau, và có thể tiếp sức cho những cuộc biểu tình rộng rãi chống lại chính sách ngoại giao của nhà nước, do vậy càng khuếch đại tầm quan trọng của chủ nghĩa dân tộc cũng như mối đe dọa của nó đối với sự ổn định của chế độ. Vì thế, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, cảm thấy bất an và lo lắng cho ổn định quốc nội, buộc phải chú ý nhiều hơn bao giờ hết đến sự lên ngôi của chủ nghĩa dân tộc mỗi khi họ định hình chính sách đối ngoại.

    Lần đầu tiên kể từ khi Mao Trạch Đông mất, giới lãnh đạo Trung Quốc phải chọn lựa giữa tận dụng chủ nghĩa dân tộc kết hợp chính sách ngoại giao to mồm cho vừa lòng đám khán giả trong nước, hay là sử dụng chiến lược trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc cho phù hợp với cộng đồng quốc tế. Tới gần đây thì Trung Quốc vẫn chọn phương án sau. Nhưng kể từ năm 2009, nỗ lực của đảng nhằm vỗ về các phần tử dân tộc chủ nghĩa trong nước đã sinh ra một chính sách ngoại giao vụng về, khuấy động sự thù ghét trên toàn cầu đối với Trung Quốc và làm chính họ mất an toàn.

    Chính sách ngoại giao dân tộc chủ nghĩa này gây ra mối lo ngại đáng kể trong các nước đồng minh của Mỹ ở Đông Á. Washington có ý định duy trì sự hiện diện chiến lược của họ ở đây để cân bằng với sự trỗi dậy của Trung Quốc không? Mỹ đã có phản ứng ngoại giao thẳng thắn đúng lúc. Nhưng họ đi quá xa, họ đối đầu với an ninh của Trung Quốc trong khu vực ngoại vi của Hoa lục, tạo ra nguy cơ về một cuộc xung đột an ninh mở rộng giữa các siêu cường và làm cho bất ổn trong khu vực càng gia tăng.

    Tiếp sau vụ Bắc Triều Tiên đánh chìm tàu hải quân Hàn Quốc Cheonan hồi tháng 3-2010 và Trung Quốc không công khai lên án Bình Nhưỡng về hành động tấn công này, Mỹ đã triển khai một loạt sáng kiến hiệu quả trên vùng biển Đông Á, nhằm tái khẳng định quyết tâm của họ là đương đầu với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Rất nhiều sáng kiến trong đó là cần thiết và mang tính xây dựng. Cuối tháng 6, lần đầu tiên kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, ba tàu ngầm hạt nhân Mỹ đồng thời nổi lên ở các cảng châu Á. Tháng 7-2010, trong chuyến thăm của cựu bộ trưởng quốc phòng Robert Gates đến Jakarta, Mỹ nhất trí mở rộng hợp tác quân sự với Indonesia. Tháng 11, trong chuyến công du của Ngoại trưởng Hillary Clinton tới New Zealand, Mỹ đồng ý tái thiết hợp tác đầy đủ về quân sự với các cảng biển ở đây. Mỹ còn mở rộng quan hệ quân sự với Philippines, khẳng định cam kết sẽ bảo vệ Nhật Bản. Giữa lúc Trung-Nhật căng thẳng vì vụ việc bắt giữ thuyền trưởng tàu cá, bà Hillary Clinton tuyên bố hiệp ước quốc phòng Mỹ-Nhật sẽ xử lý cả những sự cố bất ngờ liên quan đến quần đảo Senkaku mà Nhật Bản đang quản lý nhưng Trung Quốc cũng đòi chủ quyền (gọi là Điếu Ngư – ND). Sau khi Nhật Bản thả thuyền trưởng tàu cá, Washington và Tokyo đã tiến hành cuộc tập trận chung lớn nhất từ trước tới nay giữa hải quân hai nước. Đây đó là một sự tái cam kết mạnh mẽ của Mỹ với đồng minh – điều này có thể phạm vào tham vọng to lớn của Trung Quốc, nhưng là phản ứng thích hợp và được trông đợi.

    Nhưng sau đó, Washington đã tung ra một chính sách ngoại giao mạnh bạo thái quá, theo công thức của bà Hillary Clinton, là “ngoại giao tiến công” (nguyên văn: forward-deployed diplomacy, có người dịch là “ngoại giao triển khai phía trước” – ND). Đó là một sự quay trở lại với chính sách ngoại giao từng kéo dài nhiều năm của Mỹ, và bị Bắc Kinh xem như một thách thức ngày càng lớn dần lên, và rất khác.

    Dưới thời George W. Bush, Mỹ đã giảm 40% quân số ở Hàn Quốc, chấm dứt triển khai quân tại khu vực nằm giữa vùng phi quân sự với Seoul, giảm mạnh mẽ quy mô tập trận chung hàng năm Mỹ-Hàn, và tuyên bố trong báo cáo quốc phòng của Bộ Quốc phòng (ra bốn năm một lần) rằng vào năm 2012, Mỹ sẽ chuyển giao bộ tư lệnh hành quân các lực lượng quân đội Hàn Quốc (operational command, OPCOM) cho Seoul. Cho dù ý định của chính quyền Mỹ là gì đi nữa, những việc làm này vẫn khiến cho Trung Quốc cảm thấy an toàn hơn trong khu vực lân cận của họ.

    Giờ đây, chính quyền Obama đã thay đổi tình hình theo hướng ngược hẳn lại. Việc chuyển giao OPCOM cho Hàn Quốc đã bị hoãn ít nhất ba năm. Suốt năm 2010, Mỹ tiến hành một loạt cuộc tập trận đình đám, quy mô lớn với Seoul, trong đó có cả hoạt động tập trận hàng hải trên vùng biển phía tây Hàn Quốc. Cuối năm 2010, Mỹ và Hàn Quốc ký mới “Các nguyên tắc hợp tác quốc phòng Mỹ-Hàn”, theo đó lực lượng vũ trang hai bên sẽ đẩy mạnh tập trận chung và tương tác. Tất cả các diễn biến này đều cho thấy Mỹ kiên quyết giữ lợi ích của họ trong việc tái thiết lập sự hiện diện quân sự đáng kể, theo thông lệ, trên bán đảo Triều Tiên.

    Sáng kiến an ninh của Mỹ với Hàn Quốc làm Bắc Kinh bớt tự tin về quan hệ chiến lược của họ với Seoul; Trung Quốc bây giờ ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào Bắc Triều Tiên như thể đó là đồng minh đáng tin cậy duy nhất của họ trên bán đảo, và họ cũng ngày càng đối kháng hơn với việc hợp nhất hai miền Triều Tiên vì sợ điều đó sẽ dẫn đến việc Mỹ mở rộng hiện diện quân sự hơn nữa, ra sát biên giới với Trung Quốc. Các lãnh đạo Trung Quốc bây giờ đánh giá cao hơn bao giờ hết sự ổn định ở Bắc Triều Tiên. Thay vì sử dụng đòn bẩy kinh tế để tác động khiến Bình Nhưỡng phải hợp tác với Mỹ về mục tiêu không phổ biến vũ khí hạt nhân, Bắc Kinh tăng cường ủng hộ ổn định chính trị và kinh tế ở Bắc Triều Tiên.

    Và vào tháng 7-2010, khi tập trận Mỹ-Hàn diễn ra ở Hoàng Hải, bà Hillary Clinton đưa ra một sáng kiến chiến lược mới của Mỹ dành cho Đông Nam Á, tại một hội nghị an ninh khu vực châu Á tổ chức ở Hà Nội. Sau khi Washington tiến hành tham vấn đáng kể và có kế hoạch riêng với tất cả các quốc gia có yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa (chỉ trừ Trung Quốc), Ngoại trưởng Clinton tuyên bố Mỹ ủng hộ một “tiến trình ngoại giao hợp tác” để giải quyết tranh chấp. Động thái này có ý nghĩa như một lời chỉ trích gay gắt nhằm vào Bắc Kinh – kẻ mà từ lâu đã ra yêu sách đòi chủ quyền ở khu vực tranh chấp – và hàm ý rằng Mỹ can thiệp ủng hộ các nước khác, tất cả những nước ủng hộ đàm phán đa phương. Đó là chưa kể, trước đây Mỹ đã từng tỏ thái độ ủng hộ một Biển Đông ổn định, nhưng họ chỉ tuyên bố như thế ở Washington DC, ở cấp trợ lý ngoại trưởng, chứ chưa bao giờ thông qua một cuộc thảo luận trước nào với bất kỳ quốc gia nào có liên quan đến tranh chấp.

    Chính sách ngoại giao tiến công của chính quyền Mỹ cũng có nội dung hợp tác chiến lược với Việt Nam. Suốt hơn 20 năm Washington né tránh đàm phán với Việt Nam, với ý thức rằng Đông Dương không phải là lợi ích sống còn. Tuy nhiên, đến tháng 8, sau phát biểu của bà Clinton tại Hà Nội ủng hộ Việt Nam chống lại những yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền hàng hải, thì hải quân Mỹ, trong đó có hàng không mẫu hạm George Washington, đã tổ chức tập trận chung với hải quân Việt Nam lần đầu tiên. Tháng 10, Bộ trưởng Gates thăm Hà Nội, tại đây ông tuyên bố khả năng mở rộng hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt và bày tỏ hy vọng Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia tập trận quân sự với Mỹ. Cuối tháng 10, bà Clinton trở lại Hà Nội và tuyên bố Mỹ có lợi ích trong việc phát triển “quan hệ đối tác chiến lược” với Việt Nam và hợp tác về “an ninh hàng hải”. Sau đó bà thăm Phnom Penh và đề nghị Campuchia xây dựng chính sách ngoại giao độc lập hơn với Trung Quốc. Ngoài ra, lần đầu tiên trong lịch sử, Mỹ thể hiện thái độ ủng hộ nỗ lực của các nước Đông Dương nhằm ngăn chặn việc Trung Quốc sử dụng nguồn nước thượng nguồn sông Mekong.

    Bắc Kinh hiện đang tìm cách trừng phạt Việt Nam vì đã ngạo mạn mà hợp tác với Mỹ. Bắc Kinh muốn buộc Hà Nội phải chấp nhận siêu cường Trung Quốc. Năm 2011, họ leo thang cả về tần suất lẫn quy mô của những vụ quấy nhiễu bằng quân sự vào tàu cá Việt Nam hoạt động trong vùng biển tranh chấp, làm căng thẳng giữa đôi bên càng gia tăng và đe dọa ngành hải sản Việt Nam. Trung Quốc còn đẩy mạnh hành động quấy nhiễu trên biển vào các hoạt động kinh tế của Philippines trong khu vực tranh chấp. Nhưng đổi lại, họ chỉ làm Mỹ thắt chặt thêm cam kết với các nước Đông Nam Á. Tháng 7-2011, Mỹ lại tập trận lần nữa với Việt Nam. Sau đó Mỹ gửi một hàng không mẫu hạm tới thăm Việt Nam, và Lầu Năm Góc đã đạt được thỏa thuận quân sự đầu tiên với quân đội Việt Nam. Lầu Năm Góc cũng hỗ trợ phát triển năng lực tình báo của Philippines trên Biển Đông. Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân (Cui Tiankai) gần đây ra lời cảnh cáo rằng một số nước Đông Nam Á đang “đùa với lửa”, và bày tỏ “hy vọng rằng ngọn lửa sẽ không lan tới Mỹ”.

    Do đó, Washington đã tham gia vào một cuộc xung đột đa cực ngày càng lớn ở Đông Nam Á. Nhưng quan trọng hơn, và độc lập với quá trình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, sự hợp tác của Mỹ với nỗ lực của Việt Nam trong việc sử dụng Mỹ để đối đầu với Trung Quốc không chỉ tốn kém mà còn ngu ngốc. Đường biên giới chung trên bộ của Việt Nam với Trung Quốc, tính chất dễ bị tổn thương của Việt Nam trên biển trước hải quân Trung Quốc, và sự phụ thuộc về mặt kinh tế của họ vào Bắc Kinh cho thấy chắc chắn rằng Mỹ sẽ không thể phát triển quan hệ quốc phòng đầy đủ với Việt Nam. Nhưng đã kéo Trung Quốc vào xung đột ngoại giao khu vực như thế này, thì mọi nỗ lực của Mỹ nhằm rút ra khỏi tranh chấp biển đảo bằng cách khích lệ các đối tác Đông Nam Á của mình cư xử ôn hòa, đều sẽ bị coi là hành động rút lui mang tính chiến lược.

    Hợp tác an ninh ngày càng mở rộng của chính quyền Obama với các nước trong vùng ngoại vi của Trung Hoa lục địa là một phản ứng không tương xứng với chủ nghĩa dân tộc của người Trung Quốc. Nó không tương xứng với bất kỳ tiến bộ nào gần đây trong năng lực hải quân Trung Quốc mà có thể chống lại sức mạnh bao trùm của Mỹ trên biển. Nó cũng không phản ánh tầm quan trọng chiến lược ngày một tăng của bán đảo Triều Tiên hay Đông Dương đối với an ninh Mỹ. Kể từ năm 1997, Mỹ đã triển khai ngày càng nhiều vũ khí cao cấp đến Đông Á và thắt chặt hợp tác an ninh với các đối tác an ninh hàng hải, đồng thời vẫn duy trì hợp tác đáng kể với Trung Quốc. Đó mới là một chính sách hiệu quả.

    Nhưng bây giờ giới lãnh đạo Trung Quốc đang đánh giá lại các dự định của phía Mỹ. Họ đi đến kết luận rằng Mỹ đang triển khai một chính sách thiên về tiến công, với các hoạt động bao vây và kiềm chế đối phương. Bất kể dự định của Washington là gì đi nữa, các hành động gần đây của Mỹ đã là bằng chứng thừa đủ để chứng minh cho kết luận của Trung Quốc.

    Chính sách ngoại giao dân tộc chủ nghĩa của Bắc Kinh thật nguy hiểm. Phản ứng một cách thiếu nhận thức của Mỹ làm cho chính sách ấy còn nguy hiểm hơn nữa. Trung Quốc, về mặt quân sự, rất nhạy cảm với Mỹ, và chế độ của họ rất nhạy cảm với khái niệm “ổn định trong nước”. Vào lúc này, Washington đang bị lôi kéo vào tranh chấp chủ quyền đối với những hòn đảo chẳng có giá trị gì trên Biển Đông, và đang mở rộng sự hiện diện quân sự của họ trên vùng ngoại vi của Trung Quốc. Và trong một thời kỳ mà hợp tác với Trung Quốc ngày càng quan trọng hơn, thì Washington không cần thiết phải thách thức nền an ninh của Trung Quốc làm gì.

    Mỹ mong đợi Trung Quốc sẽ kiềm chế các đối tác an ninh của họ ở Trung Đông và châu Á để các đối tác đó không làm trầm trọng thêm mâu thuẫn với Washington. Tương tự, Mỹ cũng phải có trách nhiệm kiềm chế các đối tác an ninh của họ.

    Thế cân bằng quyền lực ở Đông Á là một thứ lợi ích an ninh quốc gia sống còn, và Mỹ cần phải đảm bảo cho các đối tác chiến lược biết rằng họ sẽ hỗ trợ các nước này về an ninh, bất chấp sự trỗi dậy của Trung Quốc. Quân đội Hoa Kỳ phải tiếp tục tập trung vào việc tích lũy vũ khí và triển khai sử dụng để duy trì an ninh của Mỹ trong khu vực. Nhiệm vụ trước mắt cho các nhà làm chính sách của Mỹ là phải xác định được các mục tiêu này trong khi vẫn duy trì hợp tác Mỹ-Trung. Chủ nghĩa dân tộc của người Trung Quốc sẽ tiếp tục thách thức chính sách ngoại giao của Mỹ trong một thời gian dài sắp tới. Điều này đòi hỏi chính quyền Obama phải thừa nhận cả ưu thế hàng hải của Mỹ lẫn những tổn thương trong nước và quốc tế của Trung Quốc, và vì thế phải thực hiện kiềm chế mạnh, chống những phản ứng thái quá đối với lãnh đạo Trung Quốc vốn đang trong tâm trạng bất an.

    Ông Robert S. Ross là giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Boston và trợ lý giáo sư tại Trung tâm John King Fairbank về Trung Quốc học, Đại học Harvard.

    Thủy Trúc dịch từ The National Interest
  3. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Hiệp định Xuyên Thái Bình Dương : Một vòng đai vây quanh Trung Quốc ?


    Hiệp định Xuyên Thái bình dương hay là Trans-Pacific Partnership (DR)
    Trọng Nghĩa
    Nhân dịp Hội nghị Thượng đỉnh APEC tổ chức trong hai ngày 12/11 và 13/11/2011, Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy một số quốc gia xúc tiến việc đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương, hay Trans-Pacific Partnership (TPP).
    Tháng 11 này có hai hội nghị đáng chú ý. Thứ nhất là Hội nghi Thượng đỉnh APEC vào hai ngày 12-13 tại Hawaii, tập hợp lãnh đạo 21 nền kinh tế. Một tuần sau, ngày 19 tại Bali (Indonesia) sẽ là Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á gồm 18 nước, năm nay lần đầu tiên có sự tham dự của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Nhân Hội nghị Thượng đỉnh APEC, Mỹ sẽ thúc đẩy một số quốc gia xúc tiến việc đàm phán Hiệp định Trans-Pacific Partnership, gọi tắt là TPP.

    Chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa, Hoa Kỳ

    29/10/2011

    Nghe (08:41)



    RFI có cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa tại Hoa Kỳ về nội dung và những mục tiêu chìm nổi của sáng kiến TPP. Trước hết anh Nghĩa nhắc lại xuất xứ của Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương.

    Nguyễn Xuân Nghĩa : - Ban đầu, và bên lề Thượng đỉnh APEC tại Mexico vào năm 2002, có ba quốc gia ở ba góc Thái bình dương có sáng kiến thành lập một liên minh kinh tế liên Thái Bình Dương, đó là xứ Chile ở Nam Mỹ, xứ New Zealand hay Tân Tây Lan tại cực Nam biển Thái bình và Singapore ở Đông Nam Á. Sáng kiến ấy được xứ Brunei hưởng ứng và bốn nước đã có năm kỳ họp để tiến tới một khối hiệp thương kinh tế tự do. Mục đích cụ thể là từng bước và cho đến năm 2016 này là tháo gỡ hết mọi rào cản về thuế quan giữa các hội viên. Bốn nước tiên phong mở đường gọi là nhóm P-4 cũng cho biết là sẵn sàng đón nhận các hội viên mới.

    RFI: Thế thì Hoa Kỳ tham dự vào sáng kiến này từ khi nào?

    Nguyễn Xuân Nghĩa : - Với sức nặng của mình, Hoa Kỳ can dự vào hồ sơ nào, dù chỉ về kinh tế chẳng hạn, thì hồ sơ ấy cũng trở thành chiến lược!

    - Đầu năm 2008, Chính quyền George W. Bush thấy sáng kiến của bốn nước tiên phong ấy có giá trị nên chính thức xin gia nhập. Cuối năm đó, ba nước khác cũng muốn gia nhập là Úc, Việt Nam và Peru tại Nam Mỹ. Qua năm 2010, có thêm Malaysia rồi các nước như Canada, Đài Loan, Philippines, Nam Hàn và Nhật cũng muốn là thành viên của một hiệp định rõ ràng là đối tác chiến lược về kinh tế. Khi Chính quyền Obama nhậm chức vào đầu năm 2009 thì các nước khác có vẻ dụ dự vì xu hướng bảo hộ mậu dịch khá mạnh của đảng Dân Chủ tại Mỹ, nên vòng đàm phán hồi Tháng Ba năm đó bị đình hoãn.

    Nhưng đến cuối năm, Hoa Kỳ xác nhận là quyết chí theo đuổi hồ sơ này. Tháng trước đây, khi Quốc hội Mỹ phê chuẩn ba hiệp định tự do thương mại song phương với Colombia, Panama và nhất là Nam Hàn, người ta tin rằng việc thành hình một liên minh Xuyên Thái Bình Dương sẽ có nhiều hy vọng, nhất là với sự gia nhập của Nam Hàn mà dư luận Mỹ cho là quan trọng gần như Hiệp định tự do mậu dịch Bắc Mỹ NAFTA đã ký kết với Canada và Mexico đầu năm 1994.

    RFI: Thưa anh, dù không nói ra, ai cũng thấy rằng liên minh đó lại không có Trung Quốc ! Chuyện ấy có đáng chú ý chăng ?

    Nguyễn Xuân Nghĩa : - Rất đáng chú ý và lý thú nữa !

    - Thứ nhất, Chính quyền Obama tái khẳng định rằng Hoa Kỳ đang trở lại Đông Á. Thực tế thì nước Mỹ chưa hề rời Đông Á. Từ vào chục năm qua, luồng giao lưu ngoại thương với Mỹ qua Thái bình dương tiếp tục gia tăng và đã vượt qua lượng hàng hóa buôn bán với Âu châu. Cụ thể thì lượng hàng hóa mà Mỹ vận chuyển qua Thái bình dương chiếm hai phần ba tổng số của Mỹ.

    - Thứ hai, sáng kiến Xuyên Thái bình dương này sẽ khiến toàn khu vực trở thành một vùng tự do mậu dịch đáng kể. Hai ngoại lệ đáng chú ý: Canada thì bị các nước tiên phong từ chối, nhất là Mỹ và New Zealand, vì chính sách nông nghiệp và sản phẩm về sữa của xứ này. Còn Nhật Bản thì vẫn do dự vì phải mở cửa thị trường nông sản và tháo gỡ chế độ bảo hộ nông nghiệp của họ. Cho đến nay, hai xứ này vẫn chỉ gửi quan sát viên đến tìm hiểu mấy đợt đàm phán mà thôi. Ta sẽ xem Hoa Kỳ khuyến khích hai xứ đó như thế nào.

    - Thứ hai và trở lại chuyện Trung Quốc, Hoa Kỳ có 10 năm bất định sau khi Liên Xô tan rã năm 1991; rồi 10 năm tập trung vào cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo từ năm 2001. Thời khoảng ấy là cơ hội bành trướng của Trung Quốc và Bắc Kinh còn củng cố quan hệ với Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á là tổ chức ASEAN. Với sáng kiến Xuyên Thái bình dương, Trung Quốc coi như đứng ngoài.

    - Mà nếu có mon men bước vào thì sẽ gặp ngay trở ngại với nhiều nước khác vì vai trò khống chế của hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Khu vực kinh tế nhà nước này hoàn toàn xa lạ và không thể chấp nhận được trong tinh thần tự do ngoại thương và đối tác kinh tế Xuyên Thái bình dương. Vì vậy, nếu Hoa Kỳ cùng các nước kia xây dựng quan hệ đối tác chiến lược trong khi tích cực tăng cường quan hệ ngoại giao, chính trị và quân sự thì tất nhiên Trung Quốc thấy là bị bao vây. Bắc Kinh sẽ tìm cách chinh phục hay thuyết phục từng nước Đông Á riêng lẻ, như họ đã thực hiện với khối ASEAN.

    RFI: Câu hỏi cuối, thưa anh. Việt Nam có mặt trong vòng đàm phán Xuyên Thái bình dương, đâu là chuyện lợi hại trong hồ sơ này ?

    Nguyễn Xuân Nghĩa : - Lợi cho ai và hại cho ai mới là vấn đề !

    - Việt Nam có lợi khi thành đối tác kinh tế thuộc hàng chiến lược với một số quốc gia trong vành cung Thái bình dương và giảm dần sự lệ thuộc tai hại vào kinh tế Trung Quốc. Nhưng lãnh đạo Hà Nội có muốn vậy không? Nếu muốn gia nhập thì lãnh đạo phải coi lại ưu tiên đầy tốn kém của các doanh nghiệp nhà nước mà gỡ bỏ dần như một cách bày tỏ thiện chí.

    Điều ấy có lợi cho kinh tế và người dân nhưng lại đụng vào quyền lợi của nhiều đảng viên và các nhóm thế lực trên thượng tầng. Với Hoa Kỳ thì đây là chuyện nhỏ, vì nước Mỹ chú trọng đến toàn khối Đông Á và vị trí của Trung Quốc. Nhưng với Việt Nam, đây là một cơ hội bước ra khỏi bóng rợp của Trung Quốc
  4. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Việt Nam bác bỏ đề nghị của Mỹ về doanh nghiệp nhà nước trong Hiệp định xuyên Thái Bình Dương


    Lãnh đạo các nước trong Hiệp định TPP gặp nhau bên lề Diễn đàn APEC 15/11/2010 (AFP)
    Trọng Nghĩa
    Quyết định này đã được đại diện Việt Nam đưa ra hôm qua (28/10/2011), trong khuôn khổ vòng đàm phán của 9 nước ven bờ Thái Bình Dương nhằm thành lập vùng tự do mậu dịch Trans-Pacific Partnership, tên tắt là TPP. Tham gia vòng đàm phán TPP có các nước Chi Lê, Peru, Hoa Kỳ ở châu Mỹ, Singapore, Malaysia, Brunei và Việt Nam ở châu Á, và Úc, New Zeland ở châu Đại Dương.
    Các cuộc thương thuyết đã được mở ra từ đầu tuần tại Lima, thủ đô Peru, nhằm hoàn chỉnh đề án thành lập khu vực tự do thương mại này, để trình lên lãnh đạo các nước nhân Hội nghị Thượng đỉnh APEC tại Hawaii vào trung tuần tháng 11. Tại Lima, phái đoàn Mỹ đã cho lưu hành các đề nghị của họ, trong đó có yêu cầu thiết lập các quy tắc mới đối với các công ty xí nghiệp quốc doanh.

    Theo Washington, loại doanh nghiệp này thường hay được nhà nước sở tại bảo hộ và trợ cấp, gây nên tình trạng thiếu công bằng trong cạnh tranh. Tuy nhiên, theo nhiều nhà quan sát, dụng tâm chính của Mỹ là quy định trước một khung luật lệ chặt chẽ đối với các công ty quốc doanh ở bên trong khối TPP, dự phòng trường hợp Trung Quốc cũng muốn gia nhập khối này trong tương lai. Đây là vấn đề cần phải lưu ý vì lẽ Trung Quốc có đến 20.000 doanh nghiệp nhà nước rất to lớn, có khả năng đè bẹp các đối thủ cạnh tranh khác trong khối.

    Theo hãng tin Anh Reuters, một công trình khảo sát do công ty tư vấn Capital Trade Inc tại Washington thực hiện theo đơn đặt hàng của Ủy Ban Thẩm định Kinh Tế và An Ninh Hoa Kỳ-Trung Quốc (U.S.-China Economic and Security Review Commission), đã xác định rằng dưới nhiều hình thức khác nhau, các doanh nghiệp nhà nước kiểm soát đến 50% nền kinh tế Trung Quốc, qua đó có tác động mạnh trên chính sách kinh tế và thương mại của chính quyền Bắc Kinh.

    Cho dù vậy, Việt Nam vẫn kiên quyết bác bỏ đề nghị của Hoa Kỳ về một số quy tắc mới cho các công ty quốc doanh trong khối TPP. Phát biểu với báo chí, ông Trần Quốc Khánh, thuộc phái đoàn thương thuyết của Việt Nam giải thích là các điều khoản đặc biệt đối với doanh nghiệp nhà nước không cần thiết. Đối với ông Khánh, các công ty nhà nước của Việt Nam đều đã tuân theo các luật lệ của Tổ chức Thương mại Thế giới, do đó đề nghi của Mỹ không cần thiết.

    Theo ghi nhận của Reuters, trái với quan điểm dứt khoát của Việt Nam, một quốc gia khác tham gia đàm phán TPP cũng có nhiều công ty nhà nước là Malaysia, thì chừng mực hơn, cho biết là sẽ nghiên cứu đề nghị của Mỹ một cách kỹ lưỡng hơn trước khi cho ý kiến.

    Tổng Thống Mỹ Obama và lãnh đạo 8 nước còn lại đang thương thuyết hiệp định TPP, dự trù sẽ loan báo tại Hội nghị Thượng đỉnh APEC quyết tâm hoàn tất đàm phán để có được khuôn khổ chính của thỏa thuận TPP.

    Xin nhắc lại là tất cả các nước tham gia cuộc đàm phán để thành lâp khối tự do mậu dịch xuyên Thái Bình Dương TPP đều là thành viên của APEC
  5. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Có 3 người đang vào chủ đề này, trong đó có 1 thành viên: hoatimbanglang
    Các bạn đi mua sim nhắn tin hết rồi à?

    50 ngày nhắn tin góp đá và 7,7 tỉ đồng

    * Tuổi Trẻ tiếp tục nhận “Góp đá xây Trường Sa” qua các hình thức khác
    TT - Đến 24g đêm 30-10, thời điểm cuối cùng của chiến dịch 50 ngày “Mỗi tin nhắn - một viên đá xây Trường Sa”, đã có hơn 365.000 số điện thoại nhắn tin góp đá.
    Tổng số tin nhắn tổng đài nhận được là hơn 480.000 với số tiền đóng góp lên đến 7,7 tỉ đồng.


    Ông Nguyễn Phước Thanh (phải), tổng giám đốc Vietcombank, trao tượng trưng 1 tỉ đồng đóng góp chương trình “Góp đá xây Trường Sa” cho ông Vũ Văn Bình, phó tổng biên tập báo Tuổi Trẻ - Ảnh: M.Đức
    Những con số trên đã nói thay tình cảm, tấm lòng, sự chia sẻ của đất liền với Trường Sa, với biển đảo. Chỉ 50 ngày nhưng chiến dịch đã nhận được sự ủng hộ tuyệt vời từ bạn đọc báo Tuổi Trẻ và người dân cả nước.

    Nhắn hàng trăm tin góp đá xây Trường Sa nhưng khi được phóng viên liên hệ đưa thông tin, rất nhiều người từ chối nêu tên lên báo hay trả lời rằng đó là việc hiển nhiên. Chị Phan Thị Nhi Mỹ (nhà ở Q.4, TP.HCM) với 152 tin nhắn (tương đương 2,43 triệu đồng) đã nói rất giản dị về chuyện mình làm: “Có gì đâu, góp cho Trường Sa chút ít thôi, đừng nghĩ là việc gì to tát”.

    Một cụ già ở Cần Thơ tâm sự: “Tui năm nay gần 70 tuổi rồi, không biết nhắn tin đâu. Xem báo thấy nhiều người nhắn tin ủng hộ Trường Sa quá, tui liền nhờ đứa cháu đi mua một cái sim lắp vào máy nó rồi nhờ nó nhắn mấy chục tin liền, chứ tui đâu có dùng điện thoại. Xem truyền hình, thấy các chú ngoài đó khổ cực nên tui thương lắm mà không giúp được gì”. Cụ đề nghị không nêu tên vì “mọi người ủng hộ sao thì mình làm y chang vậy”.

    Tin nhắn trả lời “Cảm ơn bạn đã gửi 16.000 đồng cho chiến dịch “Góp đá xây Trường Sa”... Mỗi tin nhắn của bạn sẽ là một viên đá xây Trường Sa” dần quen thuộc với người dân. Số lượng tin nhắn ngày một tăng, nhất là sau khi có sự hỗ trợ quảng bá của các mạng di động. Ngày 24-9, hệ thống đã nhận số tin nhắn kỷ lục với hơn 30.000 tin, số tiền đóng góp trong ngày lên đến hơn 500 triệu đồng.

    Liên tục trong 25 ngày cuối chương trình khi vào mùa khai giảng ở các trường ĐH, CĐ thì những buổi khai giảng và sinh hoạt đầu năm đã trở thành những ngày hội góp đá qua tin nhắn. ĐH KHXH&NV TP.HCM tổ chức đêm hội với hơn 1.000 sinh viên nhắn tin. ĐH Phú Yên với hơn 2.000 SV, ĐH Tài chính - marketing với hơn 4.000 SV, ĐH Xây dựng miền Trung với hơn 5.000 SV...

    Các cơ quan, đơn vị, công ty trong cả nước cũng nhiệt thành hưởng ứng. Công ty Dược Hậu Giang tổ chức buổi lễ với hàng trăm công nhân cùng “góp đá”. Họ tận dụng tất cả cuộc tập trung để dành một phần thời gian góp đá qua tin nhắn như Tổng cục An ninh I vận động góp đá trong lễ trao thưởng sáu tháng đầu năm 2011 và tọa đàm về thực hiện cuộc vận động “******* nhân dân chấp hành nghiêm điều lệnh xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân”, Trường tiểu học Bàu Sen góp đá qua tin nhắn ở đại hội Đoàn...

    “Trường Sa, Việt Nam”, hai từ thân thương này đã được hô to nhiều lần trong các cuộc nhắn tin góp đá tập thể. Những người tham dự tâm sự khi được hô to như vậy họ như cảm thấy đang rất gần với Trường Sa.

    Thông tin về những chuyến tàu chở đá của bạn đọc đến Trường Sa do phóng viên Tấn Vũ, Đức Thanh gửi về góp phần không nhỏ cho thấy hiệu quả của chương trình, đáp lại sự mong mỏi của bạn đọc, mong được thấy sự đóng góp của mình cho biển đảo quê hương, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền Tổ quốc.

    Sự lan tỏa mạnh mẽ của chiến dịch không những mang đến một khoản kinh phí lớn để xây dựng các công trình ở Trường Sa mà cái được lớn hơn ai cũng cảm nhận được là tình yêu biển đảo, yêu Trường Sa được hưởng ứng nhiệt thành.

    Nhân sự kiện kết thúc 50 ngày góp đá qua tin nhắn, ban tổ chức chiến dịch xin cảm ơn Bộ Thông tin - truyền thông, Tổng công ty truyền thông đa phương tiện VTC, các mạng di động Viettel, MobiFone, Vinaphone, S-Fone, Vietnamobile, EVN Telecom; các hệ thống rạp chiếu phim BHD, Megastar, Galaxy; các mạng xã hội; các tập thể cơ quan đơn vị, doanh nghiệp..., đặc biệt xin cảm ơn bạn đọc Tuổi Trẻ và tất cả tấm lòng của đồng bào cả nước đã đóng góp từng viên đá xây Trường Sa.

    Tuy chiến dịch “Mỗi tin nhắn - một viên đá xây Trường Sa” đã kết thúc nhưng Tuổi Trẻ vẫn tiếp tục đón nhận đóng góp cho chương trình “Góp đá xây Trường Sa” qua các hình thức khác. Nhiều công trình ở Trường Sa vẫn đang chờ sự chung tay góp sức của tất cả chúng ta.
  6. gialongVT

    gialongVT Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/03/2008
    Đã được thích:
    1
    Trung Quốc tảng lờ luật Biển Liên hợp Quốc

    Thứ sáu, 21 Tháng 10 2011 22:46
    [​IMG] [​IMG] [​IMG]


    Tác giả: A. Gaffar Peang-Meth
    Người dịch: Phạm Thanh Vân
    Hiệu đính: Lê Vĩnh Trương
    Dịch từ bài: China ignores UN Law of the Sea | GLOBAL BALITA
    http://www.guampdn.com/article/20111005/OPINION02/110050312/China-ignores-UN-Law-Sea

    Tôi viết bài bày tỏ quan điểm cá nhân (op-ed article) đầu tiên vào năm 1999 khi được báo Daily Pacific News mời viết về tình hình Kosovo. Sau đó tôi vẫn tiếp tục viết để đăng báo nhưng không thường xuyên, để rồi cuối cùng đã được dành hẳn một cột báo hàng tuần, và hiện giờ đã giảm xuống thành 2 tuần để giành chỗ cho những vấn đề khác của cuộc sống.

    Là một nhà giáo dục ở trường Đại học Guam, tôi tận dụng cơ hội mà tờ báo đã dành cho tôi – tôi rất cảm kích cơ hội đó – để viết, chia sẻ thông tin và những phân tích tới những độc giả có học vấn. Tôi viết theo phong cách truyền thống của một nhà khoa học chính trị để miêu tả sự kiện, giải thích lý do, phân tích nhân quả, và tiên đoán điều có thể xảy ra trong tương lai.
    Trong những năm 1999 và 2000 tôi đã viết hàng loạt bài báo về những xung đột về vùng bờ biển giữa Trung Quốc với các nước Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam, mỗi nước này đều tuyên bố chủ quyền với một số phần nhất định của biển Đông (Nguyên văn: biển Nam Trung Hoa (theo cách gọi quốc tế)
    Một thập kỷ sau đó, trong bản báo cáo đặc biệt tháng 9/tháng 10 của tạp chí Foreign Policy, “Biển Đông là tương lai của các cuộc xung đột”, Robert D. Kaplan, một thành viên của Ủy ban chính sách Quốc phòng của Bộ Quốc phòng Mỹ, đã cảnh báo về “sự bành trướng hải quân không thể chối cãi của Trung Quốc, … buộc các nước xung quanh phải có hành động phản ứng.” Ông đã khẳng định “chiến trường trong thế kỷ 21 sẽ diễn ra trên đại dương.”

    Chủ quyền
    Trong “Luật lãnh hải và các vùng tiếp giáp” năm 1992, Quốc hội Trung Quốc đã tuyên bố 80% của 1.3 triệu dặm vuông biển Đông là của Trung Quốc. “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các hòn đảo ở biển Đông và các vùng nước lân cận,” Thứ trưởng các lực lượng vũ trang Trung Quốc tuyên bố vào tháng 5 năm 1996.

    Vào nă m 1995, trong một tuyên bố quả quyết về vùng lãnh thổ mới, Trung Quốc đã cho cắm cờ trên các cột cấu trúc làm qua loa – các chòi trú chân của các ngư dân – do người Trung Quốc dựng trên rặng san hô Mischief, khu vực được Philippines khẳng định chủ quyền, chỉ cách bờ biển Palawan 135 dặm, trong khi cách đảo Hainan của Trung Quốc tới 800 dặm. Vào năm 1998, lực lượng không quân Philippine đã chụp được hình ảnh “những công trình bằng bê tông lớn và kiên cố”, ba tầu hỗ trợ đổ bộ trang bị với các khẩu súng 57mm, và một sân bay lên thẳng trên rặng san hô Mischief.
    Năm ngoái, đại tá Cảnh Nhạn Sinh (Geng Yansheng), phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng Trung Quốc, đã khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với biển Đông”. Vào năm 2011, có tin rằng một quan chức cao cấp về đối ngoại của Trung Quốc, Đái Bỉnh Quốc (Dai Binggua), đã nói với Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton rằng biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc.
    Trung Quốc và Công ước Liên hợp Quốc về luật biển.
    Lịch sử tranh giành quyền kiểm soát biển của Trung Quốc phải quay lại từ vài ngàn năm trước, bắt đầu từ triều đại nhà Hạ vào 2100 cho đến 1600 trước Công nguyên. Tấm bản đồ hàng hải lịch sử mà Bắc Kinh viện dẫn được biết đến như là bản đồ “đường lưỡi bò” hay “đường chín đoạn,” mở rộng tuyên bố lãnh thổ của Trung Quốc từ đảo Hải Nam kéo dài 1200 dặm về phía nam tới tận Singapore và Malaysia. Tấm bản đồ “đường lưỡi bò này là bản chỉnh sửa từ tấm bản đồ lãnh thổ Trung Quốc năm 1947 (“bản đồ 11 đoạn”) của chính quyền Tưởng Giới Thạch, đã bị Cộng sản lật đổ vào năm 1949.
    Vào năm 1982, Công ước Liên hợp quốc về luật biển, gọi tắt là UNCLOS, đã được ký bởi 170 nước. Điều 56 của Công ước quy định các quốc gia có đường bờ biển được hưởng các quyền chủ quyền trong Vùng đặc quyền kinh tế, rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở, trong các hoạt động thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên…, cũng như đối với các hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế.

    Vào năm 1996, Trung Quốc đã thông qua UNCLOS như sau: “Theo các quy định của UNCLOS, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán trong khu vực bao gồm vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa”. Theo UNCLOS, một nước ven biển có chủ quyền lãnh thổ đối với vùng biển giới hạn trong 12 hải lý, tính từ đường cơ sở, nhưng các tầu quân sự và dân sự nước ngoài vẫn có quyền qua lại tự do. Quốc gia ven biển được hưởng độc quyền đối với các tài nguyên khoáng sản và tài nguyên phi sinh vật trong tầng đất cái của thềm lục địa, và được phép kiểm soát độc quyền đối với các nguồn tài nguyên sinh vật sinh sống trong vùng thềm lục địa, hay 200 hải lý – nhưng không được vượt quá 350 hải lý – tính từ đường cơ sở.
    Trong khi các quốc gia ven biển Đông Nam châu Á đều chỉ giữ vùng biển lãnh thổ 12 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 dặm phù hợp với UNCLOS, Trung Quốc lại tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ biển Đông và tất cả những gì nằm dưới nó, làm dấy lên mối quan ngại to lớn về vấn đề tự do hàng hải xuyên qua eo biển Malacca tới Trung Quốc, Nhật Bản và những nơi khác. Hàng năm có khoảng 60,000 tầu đi qua khu vực này.
    Một bài báo trên Washington Post tháng 9, tựa đề “Sự khát dầu của Trung Quốc ở biển Đông đã đẩy nước này vào thế bất đồng với (tuyên bố của) các quốc gia khác” đã lưu ý rằng Tập đoàn dầu mỏ Quốc gia của Trung Quốc có một giàn khoan trị giá 1 tỷ đô la ở khu vực quần đảo Hoàng Sa. Giàn khoan này sẽ được đặt trong vòng 100 dặm của đảo Palawan. Bài báo nhấn mạnh rằng kể từ đầu năm 2011, các tầu thuyền của Trung Quốc, bao gồm cả tầu của Trung Quốc Nhân dân Giải phóng quân Hải Quân, đã cho dựng các cột trụ và đổ nguyên liệu xây dựng lên bãi đá ngoài khơi bờ biển Palawan.
    Tạp chí Foreign Policy đã chỉ ra tầm quan trọng của các tuyến hàng hải, sự tồn tại của dầu khí cũng như sự dồi dào các nguồn tài nguyên biển ở biển Đông là “ba nguyên nhân chính” của những tranh chấp về chủ quyền.
    Viện Nghiên cứu chiến lược Quốc tế nói các hành động quân sự hóa khó có thể được kìm hãm. Viện này dự đoán sẽ có sự leo thang của các cuộc cạnh tranh về hải quân cũng như đối đầu của các lực lượng bán quân sự.”
    A. Gaffar Peang-Meth, Ph.D., trí thức nghỉ hưu của trường Đại học Guam. Liên lạc với ông tại peangmeth@yahoo.com .
    http://www.guampdn.com/article/20111005/OPINION02/110050312
  7. gialongVT

    gialongVT Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/03/2008
    Đã được thích:
    1
    Các nhà khoa học Việt Nam gửi thư phản đối Google

    Chủ nhật, 30 Tháng 10 2011 16:19
    [​IMG] [​IMG] [​IMG]

    "Google không nên xuất bản các tuyên bố của một bên đang trong tranh chấp lãnh thổ với các bên khác, đặc biệt là khi tuyên bố đó được coi như là một hành vi vi phạm UNCLOS".

    LTS: Liên quan đến bản đồ của Trung Quốc có "đường lưỡi bò" trong phiên bản tiếng Hoa của Google, ngày 26 tháng 10 năm 2011 một nhóm các nhà khoa học Việt Nam trong và ngoài nước đã gửi một bức thư phản đối đến Google.
    Trước đó, cũng đã có một nhóm các tri thức Việt gửi phản đối đến Google về vấn đề này. So với bức thư trước, bức thư này có nhiều thông tin quan trọng nên Bee.net.vn xin giới thiệu với bạn đọc toàn văn bức thư.

    *
    Ngày 26 tháng 10 năm 2011

    Ms. Kate Hurowitz
    Manager, Global Communications & Public Affairs
    Google Inc.
    1600 Amphitheatre Parkway
    Mountain View, CA 94043
    Email: khurowitz@google.com
    Cc: Dr Eric E. Schmidt, Chairman

    Thưa bà Hurowitz,

    Về: Những quan tâm đến đường chữ U ở Biển Đông trên Google Maps

    Chúng tôi, những học giả và chuyên gia ký tên dưới đây, muốn dấy lên những quan ngại về các trang web bản đồ của Google: ditu.google.com và ditu.google.cn, trong đó có miêu tả một đường đứt đoạn chiếm gần trọn biển Đông (nguyên văn: biển Nam Trung Hoa theo tên gọi quốc tế). Tấm bản đồ này, được biết đến rộng rãi là “đường chữ U” hay “đường chín đoạn”, là bất hợp pháp và chính là nguồn căn của những căng thẳng hết sức nguy hiểm giữa Trung Quốc và các nước láng giềng. Trung Quốc đã và đang sử dụng đường chữ U gắn liền với yêu sách của họ đối với phần lớn vùng biển của biển Đông. Bằng cách xâm lấn rất gần với đường bờ biển của các quốc gia Đông Nam Á, đường chữ U đã xâm phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các quốc gia này, do đó đã vi phạm Công ước của Liên hợp Quốc về luật Biển (UNCLOS) [1]. Yêu sách chủ quyền với hầu hết biển Đông của Trung Quốc vì vậy mà đã không được công nhận bởi bất kỳ quốc gia nào khác.

    [​IMG]
    Google Maps phiên bản tiếng Hoa vẽ "đường lưỡi bò" Bản đồ đường chữ U đã bị bác bỏ bởi các nước Việt Nam, Indonesia và Philippines. Năm 2009, Trung Quốc đã đệ trình lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc (CLCS) hai công hàm kèm theo tấm bản đồ đường chữ U để khẳng định tuyên bố lãnh thổ của mình [2,3]. Việt Nam, Indonesia và Philippines đã phản hồi bằng công hàm tới CLCS để chỉ rõ lập trường bác bỏ yêu sách của Trung Quốc cũng như tấm bản đồ đường chữ U.


    Công hàm của Việt Nam [4,5] tuyên bố rằng,

    Yêu sách của Trung Quốc trên các đảo và vùng biển lân cận ở Biển Đông như thể hiện trong bản đồ kèm theo Công hàm CLM/17/2009 và CLM/18/2009 [tức là, bản đồ hình chữ U kèm với các là thư của Trung Quốc] hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, lịch sử hay thực tế, do đó mà vô giá trị.

    Công hàm của Indonesia [6] tuyên bố:

    Vì vậy, như đã được thể hiện qua các tuyên bố, cái gọi là "bản đồ đường 9 đoạn” có trong Công hàm số: CML/17/2009 ngày 07 Tháng Năm 2009 [tức là bản đồ hình chữ U ở một trong những thư của Trung quốc] rõ ràng thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và là đồng nghĩa với việc phá vỡ UNCLOS 1982 [tức là, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển [7] ].

    và Công hàm của Philippines [7] tuyên bố rằng,

    ... yêu sách của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên "vùng biển liên quan cũng như đáy biển và tầng đất cái tương ứng" (như được phản ánh trong cái gọi là bản đồ đường đứt khúc 9 đoạn được kèm với Công hàm CML/17/2009 ngày 07 tháng 5 năm 2009 và CML/18/2009 ngày 07 tháng 5 2009 [tức là, bản đồ hình chữ U trong là thư của Trung Quốc]) nằm ngoài các đặc tính địa lý xác đáng trong KIG đã được đề cập ở trên, và "vùng biển lân cận" sẽ không có cơ sở theo quy định của luật pháp quốc tế, cụ thể là UNCLOS [tức là, Công ước Liên hợp Quốc về Luật biển].

    Hiện nay, bản đồ hình chữ U là trung tâm của các căng thẳng quốc tế nghiêm trọng ở Biển Đông. Trong những năm gần đây, nhiều ngư dân Việt Nam làm việc trong phạm vi đường chữ U này đã bị hành hung, giam giữ và tài sản thì bị phá hoại, tịch thu bởi lực lượng hải quân và bán quân sự Trung Quốc. Ngư dân Philippines cũng đã thông báo rằng họ đã bị bắn bởi lực lượng an ninh hàng hải Trung Quốc. Trong tháng 3 năm 2011, hai tàu hải giám Trung Quốc đe dọa một tàu thực hiện khảo sát địa chấn đại diện cho Philippines. Trong tháng Năm và tháng Sáu 2011, hai tàu Việt Nam thực hiện các cuộc khảo sát địa chấn cũng đã bị sách nhiễu và cáp địa chấn của họ đã bị phá hoại bởi các tàu Trung Quốc, bao gồm cả tàu hải giám, mặc dù các tàu của Việt Nam ở trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam và cách tới 680 hải lý tính từ bờ biển của Trung Quốc. Các sự cố trong khu vực hình chữ U đang trở nên nghiêm trọng đến nỗi Quốc hội Mỹ đã công khai bày tỏ mối quan ngại về tự do hàng hải ở Biển Đông, và Thượng viện Mỹ đã nhất trí thông qua một nghị quyết để "phản đối việc Trung Quốc sử dụng vũ lực bằng tàu hải quân và an ninh hàng hải trong vùng Biển Đông" [8].

    Vì vậy, sự hiện diện của bản đồ đường chữ U trong Google Maps của Trung Quốc có ảnh hưởng quan trọng đối với sự bất ổn trong khu vực. Chúng tôi quan ngại rằng Google đã bị lợi dụng bởi Chính phủ Trung Quốc để dẫn dắt người dùng Google Maps, bao gồm người Trung Quốc, tin rằng Google xác nhận tuyên bố bất hợp pháp của Trung Quốc đối với hầu hết Biển Đông. Điều này cuối cùng sẽ tiếp tay cho đường lối cứng rắn ở Trung Quốc. Như vậy, sự công bố tấm bản đồ này của Google gián tiếp góp phần căng thẳng quốc tế trong khu vực.

    Rõ ràng, Google không nên xuất bản các tuyên bố của một bên đang trong tranh chấp lãnh thổ với các bên khác, đặc biệt là khi tuyên bố đó được coi như là một hành vi vi phạm UNCLOS. Về mặt đạo đức, việc xuất bản bản đồ này là không lành mạnh khi nó thể hiện một mối đe dọa an ninh đối với nhiều nước ASEAN. Chúng tôi hiểu rằng chỉ có ditu.google.cn và ditu.google.com là hai trang Google Maps duy nhất mô tả đường chữ U, và, như vậy là sai so với các tiêu chuẩn cao của Google trong việc giữ gìn nguyên tắc trung lập.

    Chúng tôi mạnh mẽ kêu gọi Google loại bỏ đường chữ U từ các trang web Google Maps ditu.google.cn và ditu.google.com. Chúng tôi cho rằng việc loại bỏ này sẽ giúp tăng cường tính trung lập chính trị và tính công bằng của Google trong các tranh chấp lãnh thổ. Nó cũng sẽ là sự đảm bảo rằng Google Maps không bị sử dụng theo cách làm trầm trọng thêm căng thẳng và bất ổn trong khu vực.

    Xin cảm ơn bà đã chú ý đến một vấn đề vô cùng quan trọng đối với chúng tôi và người dân của các nước Đông Nam Á xung quanh Biển Đông.

    Chúng tôi mong muốn được tin sớm từ bà.

    Trân trọng,


    Tài liệu tham khảo:

    1. Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển: http://www.un.org/Depts/los/convention_agreements/texts/unclos/closindx.htm 2. Công hàm của Trung Quốc gửi tới Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc 1, ngày 7 tháng 5 năm 2009: http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mys_vnm_e.pdf
    3. Công hàm của Trung Quốc gửi tới Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc 2, ngày 7 tháng 5 năm 2009: http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/vnm37_09/chn_2009re_vnm.pdf
    4. Công hàm của Việt Nam gửi tới Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc 1, ngày 8 tháng 5 năm 2009: http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mys_vnm_e.pdf
    5. Công hàm của Việt Nam gửi tới Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc 2, ngày 8 tháng 5 năm 2009: http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/vnm37_09/vnm_re_chn_2009re_vnm.pdf
    6. Công hàm của Việt Nam gửi tới Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc, ngày 8 tháng 7 năm 2010, http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/idn_2010re_mys_vnm_e.pdf
    7. Công hàm của Phillipines gửi tới Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc , ngày 5 tháng 4 năm 2011: http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf
    8. Thượng viện Mỹ đồng lòng “phản đối” việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc trên biển Đông, thông cáo báo chí của Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Jim Webb, ngày 27 tháng 6 năm 2011: http://webb.senate.gov/newsroom/pressreleases/06-27-2011.cfm?renderforprint=1

    Người dịch: Phạm Thanh Vân, nghiên cứu sinh ngành Sinh học cấu trúc tại Viện Nghiên cứu về bệnh truyền nhiễm tại Helmholtz (Đức)
    Nguyễn Hoài Tưởng, nghiên cứu sinh ngành Tin học tại ĐH Bách khoa Nantes (Pháp).
    theo Bee
  8. gialongVT

    gialongVT Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/03/2008
    Đã được thích:
    1
    Lại đe dọa sự bình yên trên Biển Đông

    Chủ nhật, 30 Tháng 10 2011 16:54
    [​IMG] [​IMG] [​IMG]

    Ngày 25-10-2011, tờ Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc lại có bài cảnh cáo đích danh Việt Nam cùng một số nước có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông rằng các quốc gia này "cần chuẩn bị tâm lý để nghe tiếng đại bác” nếu như vẫn tiếp tục đối chọi với Trung Quốc. Tờ báo này cũng cho rằng các nước nói trên đang lợi dụng "lập trường ngoại giao ôn hòa” của Trung Quốc để thúc đẩy lợi ích của mình trên Biển Đông
    .
    [​IMG]
    Dân tộc Việt Nam hiểu sâu sắc những mất mát
    trong chiến tranh nên luôn khao khát hòa bình

    Đây có lẽ không phải là lần đầu tiên tờ Thời báo Hoàn Cầu có lời lẽ hung hăng, đe dọa Việt Nam cùng một số nước trong khu vực có liên quan tới việc tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Cuối tháng 9-2011, tờ báo này đã từng đăng bài kêu gọi Trung Quốc nên đánh phủ đầu Việt Nam và Philippines, hai nước đã "dám” phản đối mạnh mẽ các yêu sách của Trung Quốc về "chủ quyền không thể tranh cãi” của họ trên Biển Đông. Trước đó (ngày 11 và 21-6-2011), cũng tờ báo này đã liên tiếp có bài xuyên tạc sự thật lịch sử và hăm dọa dân tộc Việt Nam sau các sự kiện tàu ngư chính Trung Quốc xông vào cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Việt Nam đang hoạt động hợp pháp trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông.

    Về sự kiện này, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam lúc bấy giờ, bà Nguyễn Phương Nga cho biết: "Quan điểm của Việt Nam là hết sức rõ ràng. Việt Nam chủ trương giải quyết mọi vấn đề, trong đó có vấn đề Biển Đông, bằng biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại và trên cơ sở luật pháp quốc tế. Thời báo Hoàn Cầu đã đưa ra những bình luận thiếu thiện chí, không đúng sự thật và điều này hoàn toàn ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ hai nước, gây ra những tổn thương về tình cảm cho nhân dân Việt Nam... Tôi tin rằng những bình luận thiếu thiện chí của tờ Thời báo Hoàn Cầu đã không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân hai nước”. http://*******.org/forum/images/misc/q.gifViệc báo chí Trung Quốc lại tiếp tục đăng những bài quá khích và cổ vũ cho việc tìm kiếm giải pháp tranh chấp trên Biển Đông bằng vũ lực mới đây gây ngạc nhiên cho các nhà bình luận. Vì điều đó cho thấy các nỗ lực tìm kiếm giải pháp thương lượng, hòa bình của lãnh đạo cấp cao nước này trong các văn kiện ký kết với Việt Nam dường như chưa được giới truyền thông Trung Quốc chia sẻ một cách nghiêm túc. Mặc dù Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Khương Du đã phủ nhận nội dung bài báo mới đây trên tờ Thời báo Hoàn Cầu, cho rằng bài báo đó không thể hiện quan điểm của Chính phủ nước này, tuy nhiên những bài báo như thế nếu vẫn tái diễn sẽ gây tổn hại hình ảnh của một cường quốc vừa đưa ra cam kết tìm kiếm giải pháp hòa bình cho vấn đề Biển Đông và chắc rằng sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới việc xây dựng lòng tin với các nước trong khu vực để tiến tới việc hợp tác trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi.

    Tuy nhiên, điều đáng nói là những bài báo thiếu thiện chí mới đây nhất của tờ Thời báo Hoàn Cầu lại xuất hiện trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác, khi mà nhân dân hai nước Việt Nam – Trung Quốc vừa chứng kiến sự kiện ký kết "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề tranh chấp trên biển” của lãnh đạo cấp cao hai nước. Những nguyên tắc đó khẳng định tinh thần kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng các vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, góp phần duy trì hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực. Việc đàm phán cũng được xác lập trên tinh thần tôn trọng đầy đủ các chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử căn cứ vào chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của "Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).

    Một trong những ý nghĩa quan trọng trong việc ký kết Thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước được dư luận chờ đợi là kể từ nay hai bên đã có những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo nhất quán từ trung ương tới địa phương, trong toàn bộ hệ thống chính trị, việc xử lý đúng đắn các tranh chấp trên biển trên tình thần tôn trọng luật pháp quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, cùng hợp tác duy trì sự ổn định, hoà bình trong khu vực. Trong hoàn cảnh này, việc báo chí Trung Quốc vẫn tiếp tục lên tiếng đe dọa Việt Nam và cho rằng có "hành động quân sự là cần thiết” vì theo họ "có thể đây là cách thức duy nhất để giải quyết vấn đề tranh chấp trên biển” là hoàn toàn không phù hợp với tinh thần Thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước đã nói ở trên. Và, nói như bà Phương Nga trước đây, những bài báo như vậy không chỉ gây tổn thương về tình cảm cho nhân dân Việt Nam vốn yêu chuộng hòa bình mà còn không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân cả hai nước.

    Để có thể tìm kiếm những giải pháp lâu dài hay chỉ là quá độ, tạm thời cho vấn đề tranh chấp trên Biển Đông cũng luôn đòi hỏi phải có sự nỗ lực và thiện chí của các bên liên quan. Cần tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) như đã được nêu trong Thỏa thuận. Dẫn điểm 3 của Thỏa thuận, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị mới đây nêu rõ: "Việt Nam và Trung Quốc đã thống nhất chỉ giải quyết song phương các tranh chấp trên biển giữa Việt Nam - Trung Quốc; các tranh chấp liên quan đến các nước khác sẽ tiến hành hiệp thương với các nước đó để giải quyết”. Điều này hoàn toàn phù hợp với Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và quan điểm nhất quán của Việt Nam về cách thức giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Đó là, những tranh chấp chỉ liên quan đến hai nước sẽ được giải quyết song phương giữa hai nước liên quan; những tranh chấp liên quan đến nhiều nước sẽ được trao đổi, giải quyết giữa tất cả các nước có liên quan; những vấn đề có tính chất khu vực hoặc toàn cầu cần phải có cách tiếp cận giải quyết đa phương thích hợp.

    Vì vậy, khi báo chí Trung Quốc cho rằng việc Việt Nam hợp tác với các nước khác khai thác tài nguyên trên Biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam theo luật pháp quốc tế là xâm phạm lợi ích cũng như "chủ quyền không thể tranh cãi” của Trung Quốc là hoàn toàn không có cơ sở và càng không phải là chuyện "lợi dụng lập trường ôn hòa của Trung Quốc” để thúc đẩy lợi ích của mình trên Biển Đông, gây thiệt hại cho Trung Quốc. Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong hơn hai thập niên đổi mới vừa qua luôn khẳng định tinh thần độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với mong muốn "Việt Nam trở thành bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Là một đất nước đã từng trải qua nhiều cuộc chiến tranh giữ nước trong lịch sử, dân tộc Việt Nam hơn ai hết hiểu biết sâu sắc những mất mát, đau thương trong chiến tranh nên luôn khát khao và yêu chuộng hòa bình.

    Trong khi đó, mặc dù luôn nói là coi trọng hòa bình và giải quyết các tranh chấp trên biển thông qua hiệp thương hữu nghị trên tinh thần tôn trọng công pháp quốc tế, thế nhưng Trung Quốc lại tự cho rằng họ có "chủ quyền lịch sử” trên hầu như toàn bộ Biển Đông với yêu sách "đường lưỡi bò” phi lý. Từ đó, mọi hành động của các nước láng giềng trong "đường lưỡi bò” đều bị cho là vi phạm "chủ quyền và lợi ích” của Trung Quốc. Tuy nhiên, vấn đề là cho tới nay Trung Quốc vẫn không thể chứng minh được cơ sở pháp lý của "đường lưỡi bò” theo tinh thần công pháp quốc tế mà nước này đã ký kết và luôn nói là tôn trọng. Đáng quan ngại hơn, mặc dù không được ai công nhận, nhưng Trung Quốc từ lâu đã triển khai một chiến lược quy mô lạm dụng khoa học, truyền thông và kể cả sức mạnh quân sự để đơn phương áp đặt yêu sách "chủ quyền không thể tranh cãi” của họ trên hầu như toàn bộ Biển Đông. Chỉ xuất phát từ những tuyên bố đơn phương, nhưng Trung Quốc đã ngang nhiên cho tàu chiến tuần tra vùng biển, đe dọa nhiều ngư dân và phá hoại thiết bị các tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam. Trên thực tế, chính Trung Quốc đã và đang gây ra bất ổn trên Biển Đông bởi yêu sách và các hành động đơn phương áp đặt cái bản đồ "đường lưỡi bò” phi lý và phi khoa học của họ lên trên tất cả.

    theo DDK
  9. TuGan

    TuGan Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/11/2010
    Đã được thích:
    112
    1 người đang vào chủ đề này, trong đó có 1 thành viên: TuGan



    Bây giờ chỉ một mình ta ...
    Thảnh thơi đọc báo giữ nhà cũng vui ! [:D]
  10. namson67

    namson67 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    19/10/2011
    Đã được thích:
    93
    Có 1 người đang vào chủ đề này, trong đó có 1 thành viên: namson67

    Đến lượt lại mỗi mình tôi.

    Trông nhà ,đọc báo thảnh thơi một mình.


    Nhà thơ con cóc.Mong TuGan chỉ giáo[:D]
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này