Quyết tâm cao nhất bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hải đảo - tập 11

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi gialongVT, 13/11/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
6506 người đang online, trong đó có 694 thành viên. 17:35 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 2 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 2)
Chủ đề này đã có 41407 lượt đọc và 1024 bài trả lời
  1. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118

    Hun Sen - Người con của Campuchia - Kỳ 4: Những ngày ở Việt Nam



    [​IMG]
    Tội ác diệt chủng thời Khơme Đỏ: những hố chôn ngườiTT - Hun Sen và bốn người lính - Nhek Huon, Nuch Than, San Sanh và Paor Ean - lẩm bẩm khấn vái và bắt đầu đoạn đường dài vất vả của mình sang VN lúc 9 giờ tối 20-6-1977. Khi họ vượt qua biên giới VN thì đồng hồ của Hun Sen chỉ đúng 2 giờ sáng. Điểm băng ngang của họ ở phía Campuchia là Koh Thmar, một ngôi làng nhỏ, là một phần của xã Tunloung ở huyện Memot trong tỉnh Kompong Cham, và nằm ngay phía trước huyện biên giới Lộc Ninh thuộc tỉnh Sông Bé. >> Kỳ 1: Đứa con của trăng rằm
    >> Kỳ 2: “Con tin” của chiến tranh
    >> Kỳ 3: Chọn con đường khác

    Tù nhân
    Lúc 2 giờ chiều, họ đến một ngôi làng VN, cách biên giới khoảng 20km. Họ gặp phải một nhóm công nhân VN làm cho nông trường cao su đang trên đường về nhà. Hun Sen tiến đến gần họ và biết được họ có thể nói một chút tiếng Campuchia. Các công nhân cao su dẫn năm người Campuchia tới văn phòng ủy ban xã. Sau ít phút, khoảng 20 chiến sĩ thuộc lực lượng dân quân tự vệ có trang bị súng trường đến hiện trường.
    Những người điều tra liên tục tấn công Hun Sen hàng loạt câu hỏi. Họ dễ nổi cáu khi không khai thác được. Các câu hỏi luôn được lặp đi lặp lại: Tên thật của anh là gì? Anh thuộc trung đoàn Khơme Đỏ nào? Nó đồn trú ở đâu? Tại sao anh sang VN? Có phải anh đang do thám cho Pol Pot không? Sau hàng mấy giờ thăm dò chẳng thu lượm được gì, họ bắt đầu tin Hun Sen không còn trung thành với Khơme Đỏ.
    Ngay sau cuộc điều tra, năm người Campuchia được đưa lên một chiếc xe tải GMC chở đi khỏi Làng Xinh tới huyện Lộc Ninh. Sau bữa cơm, Hun Sen được tách ra khỏi bốn người kia và lại bị thẩm vấn. Dù còn có vẻ nghi ngờ, nhưng người cán bộ VN này đã chấp nhận rằng Hun Sen có cấp bậc chỉ huy cao.
    Hun Sen đã bị giam ở Sông Bé 22 ngày cho tới khi đổ bệnh sốt rét nặng. Được chuyển vào bệnh viện là điều may mắn bất ngờ. Hun Sen được cho các khẩu phần ăn ngon hơn nhiều, vì lúc bấy giờ phía VN chấp nhận cấp bậc của Hun Sen là trung tá. Hun Sen vẫn lo ngay ngáy không yên. Liệu cứ bị cầm tù mãi chăng? Hay liệu họ có bị trả về cho Pol Pot để rồi bị phanh thây không? Tin đào ngũ của Hun Sen nhanh chóng tới tai các chính ủy Angkar. Khi ấy họ biết Hun Sen đã trốn sang VN, họ trả đũa bằng cách buộc Bun Rany phải lao động chân tay cực nhọc. Cô bị bắt phải đi đốn hạ các cây to và khai hoang đất.

    [​IMG]
    Nhiều thanh niên VN đã viết đơn bằng máu tình nguyện ra tiền tuyến chống lại quân Khơme Đỏ tiến công tàn sát dã man bà con ở biên giới VN năm 1977 Sau khi trải qua 22 ngày trong tù ở Sông Bé, Hun Sen còn bị giam thêm ba tháng nữa ở tỉnh này. Rồi sau đó xin được tị nạn chính trị. Năm người Campuchia ấy được di chuyển tới một trại giam khác trong khi vấn đề xin tị nạn chính trị đang được cứu xét. Sau hàng tháng sống trong bồn chồn lo lắng, cuối cùng Hun Sen đã vượt qua được.
    Hun Sen kể: “Lúc ấy tôi thường hay bị bệnh phải nhập viện. Tôi là người trẻ nhất được phép ở tầng bốn của bệnh viện vốn được dành cho các tướng lĩnh. Tôi đã phải cải trang thành một người Lào”. Tại bệnh viện, gần như tất cả mọi người đều không tin một người trẻ như thế có thể là một sĩ quan cấp cao. Các bạn bè VN gọi Hun Sen bằng danh tánh mới vì thế Hun Sen không gây ra sự chú ý hoặc tăng thêm sự nghi ngờ.
    Hun Sen kể: “Họ đặt cho tôi cái tên là Mãi Phúc (có nghĩa là hạnh phúc mãi), 26 tuổi, cán bộ cao cấp quân khu X. Chẳng ai biết quân khu X ở đâu. Những người trong bệnh viện có điều nghi ngờ, vì bình thường ở VN chỉ những người 60 tuổi trở lên mới có thể được xem là cán bộ cao cấp. Những người ở tầng 4 biết cấp bậc của tôi, nhưng khi tôi được đưa tới phòng chụp X quang, ở đó họ thắc mắc “Cán bộ cao cấp sao chỉ mới 26 tuổi, ông ta ở đâu đến?’”.
    “Cơ hội vàng” cho Hun Sen
    Trong thời gian tị nạn chính trị, Hun Sen đã được tạo cơ hội gặp các sĩ quan quân đội cao cấp tại TP.HCM. Họ nói chuyện trung thực và Hun Sen đã thẳng thắn cởi mở ý định tìm kiếm sự giúp đỡ. Hun Sen đã được chấp nhận nơi xin tị nạn, nhưng Chính phủ VN từ chối ủng hộ quân sự cho Hun Sen vì họ không muốn can dự quá nhiều. Nhưng Hun Sen không đến VN để tìm kiếm nơi tị nạn chính trị; Hun Sen chỉ muốn họ giúp giải phóng đất nước của mình.
    Hun Sen kể: “Khi yêu cầu sự trợ giúp của họ, tôi đã bị từ chối. VN cho biết nếu họ đồng ý yêu cầu của tôi xin giúp đỡ, họ sẽ bị coi là can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia dân chủ”. Hun Sen không dễ dàng thuyết phục được phía VN giúp giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng của Khơme Đỏ bằng cách ủng hộ ít nhất 50.000 quân thiện chiến. Hun Sen kể: “VN luôn tôn trọng sự độc lập và chủ quyền của Campuchia, các vị lãnh đạo của VN đã từ chối lời thỉnh cầu giúp đỡ của tôi và nói điều đó có thể làm phương hại đến mối quan hệ giữa hai nước”. Thay vào đó, họ đề nghị Hun Sen sang Thái Lan, sau đó sang nước thứ ba. Hun Sen nói dứt khoát với họ là mình sẽ không đi sang Thái Lan.
    Nhưng một “cơ hội vàng” với Hun Sen đã xuất hiện khi Pol Pot tấn công biên giới VN năm 1977. Thái độ gây hấn của Pol Pot đã đánh dấu thời kỳ bắt đầu thay đổi chính sách của VN. Hun Sen kể: “Nếu Pol Pot không tấn công VN, tôi nghĩ chúng tôi sẽ không có được sự ủng hộ của VN để lật đổ chế độ Khơme Đỏ. Pol Pot đã vướng phải sai lầm là đã giết người dân của chính ông ta (kể cả những người gốc Việt) và phát động các cuộc tấn công vào biên giới VN”.
    Các sự kiện chính trị bắt đầu nhanh chóng diễn ra theo chiều hướng vô tình có lợi cho Hun Sen. Sau khi bị Pol Pot tấn công, VN cảm thấy bị xúc phạm và xét lại thái độ trung lập của họ đối với người láng giềng bặm trợn. Khi Pol Pot tái bố trí các lực lượng của ông ta từ tây nam Campuchia tới phía đông Campuchia để sẵn sàng tấn công VN, điều đó đã buộc một số lớn người dân Campuchia trốn sang VN.
    Nổi giận bởi các cuộc tấn công dã man do Pol Pot phát động, các lực lượng của ông ta đã đốt nhà cửa làng mạc của người Việt và chiếm một số nơi ở tỉnh Tây Ninh vào tháng chín, bộ đội VN đã chống trả các lực lượng Khơme Đỏ ở Svay Rieng, Prey Veng, Kompong Cham, Kratie và một số khu vực của Kandal. Khi những người cầm đầu Khơme Đỏ càng liều lĩnh hơn phát động các cuộc tấn công vào sâu trong tỉnh Tây Ninh của VN vào tháng giêng và tháng hai năm 1978, bộ đội VN đã đánh trả lại bằng hỏa lực gây kinh hoàng.
    Hun Sen kể: “Tôi rất biết ơn họ đã cho phép dân chúng Campuchia di tản sang các khu vực của họ khi đang bị tấn công và đến sống ở VN. Điều đó đã tạo cho tôi cơ hội tuyển mộ lính cho các lực lượng của mình”. Chính sách tuyển mộ của Hun Sen đã đem lại được lợi ích. Hun Sen bắt đầu xây dựng được cơ sở ủng hộ. Khi thành lập lực lượng chiến đấu trong số những người lánh nạn tùy theo năng lực, Hun Sen đã nổi bật lên như người lãnh đạo đứng đầu của họ.
    Bằng trình độ được nâng dần, Hun Sen đã xây dựng được các lực lượng của mình từ con số không.




    HARISH & JULIE MEHTA
    (LÊ MINH CẨN dịch)


  2. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118

    Hun Sen, người con của Campuchia - Kỳ 5: Giải phóng Campuchia



    [​IMG]
    Cùng với lực lượng Cách mạng Campuchia, quân tình nguyện VN tiến vào giải phóng Phnom Penh khỏi chế độ Pol Pot trưa 7-1-1979 TT - Mục tiêu ban đầu của Hun Sen là giải phóng Campuchia trong năm năm tới. Hun Sen đã đề xuất với những người đồng hương Campuchia yêu nước thành lập tổ chức chính trị của họ là Mặt trận Giải phóng dân tộc Campuchia vào ngày 2-12-1978 do Heng Samrin làm chủ tịch.

    Nghe đọc nội dung toàn bài:

    Trong chuyến đi bí mật vào Campuchia tháng 12-1977 và đầu năm 1978, Hun Sen đã mời các cán bộ chỉ huy cao cấp của Khơme Đỏ đào ngũ gia nhập mặt trận của mình.
    >> Kỳ 1: Đứa con của trăng rằm
    >> Kỳ 2: “Con tin” của chiến tranh
    >> Kỳ 3: Chọn con đường khác
    >> Kỳ 4: Những ngày ở Việt Nam
    Cùng đứng lên
    Cuộc nổi dậy tự phát do các lực lượng giải phóng và người dân nông thôn đứng lên đã diễn ra ở các vùng miền đông Campuchia. Hun Sen, Heng Samrin và Chea Sim đã nghĩ ra các đường lối quân sự và chính trị cho mặt trận giải phóng tại cuộc họp năm bên nổi dậy. Một trong các cánh được Heng Samrin và Chea Sim lãnh đạo đã tiến hành cuộc nổi dậy bên trong Campuchia. Cánh thứ hai dưới quyền chỉ đạo của Bou Thang đã khởi nghĩa vào năm 1975 ở đông bắc Campuchia. Cánh thứ ba do Pen Sovann lãnh đạo. Cánh thứ tư là các lực lượng mới thành lập của Hun Sen và cánh thứ năm đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Khơme Đỏ ở Thái Lan dưới quyền chỉ huy của Say Phuthang và Tea Banh.
    Khi Pol Pot càng đưa ra các đòi hỏi thúc bách tấn công Việt Nam với các cán bộ chỉ huy của ông ta, lần lượt từng cán bộ chỉ huy ở miền đông đã phá bỏ hàng ngũ với ông ta. Lần đầu tiên trong thời điểm đó Hun Sen thấy được khả năng lật đổ Khơme Đỏ trong vòng một năm. Hun Sen nói: “Chúng tôi nghĩ chúng tôi có thể giải phóng Campuchia vào đầu năm 1979”.
    Đài phát thanh từ Hà Nội loan báo về việc thành lập của Mặt trận Giải phóng dân tộc Campuchia và cho biết mặt trận này kêu gọi nhân dân Campuchia “đứng lên lật đổ bè lũ Pol Pot - Ieng Sary”. Cuộc tấn công mà Hun Sen trông đợi đã đến. Việt Nam đã phát động một chiến dịch tình nguyện quốc tế giúp Campuchia chống lại Khơme Đỏ. Chế độ Pol Pot sụp đổ diễn ra nhanh chóng hơn mong đợi và thậm chí còn làm Hun Sen phải ngạc nhiên. Trưa 7-1-1979, Phnom Penh được bộ đội tình nguyện Việt Nam và lực lượng cách mạng Campuchia giải phóng.
    Theo các bản tường trình đầu tiên của một cơ quan thông tấn của quân nổi dậy, Sarpordamean Kampuchea (SPK), Phnom Penh đã bị thất thủ mà không có giao tranh. SPK đưa tin “Bè lũ Pol Pot - Ieng Sary độc tài quân phiệt đã hoàn toàn sụp đổ”. Khi toàn bộ đất nước đã được giải phóng, hai chiếc máy bay cất cánh khỏi phi trường Tân Sơn Nhất ở TP.HCM bay thẳng sang phi trường Pochentong ở Phnom Penh. Một trong hai chiếc phi cơ này chở Hun Sen và Chea Sim, còn chiếc kia chở Heng Samrin và Pen Sovann. Tất cả họ đều được chào đón như các vị anh hùng.
    Mọi đôi mắt đều đổ dồn về một người đàn ông trẻ có nét mặt tươi tắn ở tuổi ngoài 20: Hun Sen. Ngay sau khi đến Phnom Penh, Hun Sen đã được đưa thẳng từ phi trường tới hoàng cung, trước đây là nơi ở của Sihanouk và hoàng gia. Hun Sen ở lại cung điện này hai tuần trước khi được trao cho dinh thự chính thức. Hun Sen cảm thấy thật buồn khi không gặp được Bun Rany trong số những người chào đón tại phi trường.
    Hun Sen kể: “Tôi nghĩ cô ấy đã chết. Bun Rany đã trải qua các giai đoạn khủng khiếp, phải trốn tránh trong các làng mạc, phải thay đổi danh tánh để sống một thân một mình mà không có chồng và không biết chồng còn sống hay chết”. Trong khi đó, Bun Rany và chị dâu của mình đi bằng môtô tới Phnom Penh. Họ phải thay phiên nhau ẵm đứa bé. Sau một ngày một đêm họ đã đến nơi. Hun Sen vô cùng mừng rỡ khi gặp được cô. Nước mắt tràn ra. Bun Rany nói: “Lần đầu tiên con trai tôi gặp cha nó. Nó gọi anh ấy là chú”. Sau gần chín năm xa cách cô không còn muốn gì hơn là được gặp Hun Sen và có được cuộc sống quy củ của một gia đình.
    “Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, chúng tôi sẽ chết”

    [​IMG]
    Hun Sen tháng 1-1989 Hun Sen cho biết quân tình nguyện Việt Nam đã đóng vai trò giải phóng Campuchia. Hun Sen nói: “Không có Pol Pot sẽ không có lực lượng vũ trang Việt Nam nào ở Campuchia”. Sau khi Campuchia giải phóng, Việt Nam đã quyết định để bộ đội tình nguyện tiếp tục ở lại Campuchia đề phòng phe Khơme Đỏ quay lại cướp chính quyền.
    Hun Sen nói: “Tôi đã nói với họ (Việt Nam) là nếu họ rút quân và Pol Pot quay trở lại thì nhiều người sẽ bị giết. Vào thời điểm đó, các lực lượng của Campuchia không đủ sức chống lại Pol Pot và chúng tôi cần thời gian để củng cố lực lượng và nền kinh tế của mình”.
    Hun Sen nói thêm: “Chính phủ Việt Nam không muốn để quân ở lại. Phía chúng tôi yêu cầu họ như thế. Sau đó chúng tôi đồng ý họ thử giảm bớt các lực lượng vào năm 1982. Chính phủ Việt Nam giảm quân số, còn chúng tôi sẽ tăng lực lượng của mình lên. Tôi vẫn còn nhớ cuộc họp các bộ trưởng ngoại giao, gồm Campuchia, Lào và Việt Nam ở Hà Nội vào năm 1985, chúng tôi đã đồng ý là các lực lượng bộ đội Việt Nam sẽ rút quân từ 10-15 năm nữa. Nhưng do sự phát triển nhanh chóng của các lực lượng vũ trang Campuchia và các cuộc đàm phán (hòa bình) giữa Sihanouk và tôi, chúng tôi đã rút các lực lượng bộ đội Việt Nam sớm hơn”.
    Hun Sen có đầu óc thực tế về sự cần thiết có bộ đội Việt Nam đóng quân trên đất Campuchia. Họ ở đó để chiến đấu và truy quét Khơme Đỏ. Hun Sen nói: “Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, chúng tôi sẽ chết”.
    Việc rút quân của Việt Nam vào tháng 9-1989 đã trở thành một sự kiện lớn. Nhiều phóng viên hạ trại tại các công viên ở Phnom Penh vì một số khách sạn đã hết phòng. Các tờ báo của họ phát hành có hình ảnh bộ đội Việt Nam mỉm cười ngồi trên mui xe tăng bắt đầu chuyển bánh, cho thấy bộ đội Việt Nam thật sự rất phấn khởi trở về sau một thập niên đã đến giúp Campuchia. Có một số chuyên gia Việt Nam ở lại để cố vấn cho Campuchia? Hun Sen cho biết: “Đó là một suy đoán sai lầm. Chúng tôi đã sẵn sàng tự lực. Các cố vấn quân sự, kinh tế và chính trị của Việt Nam đã rút về vào năm 1988 - một năm trước khi rút các lực lượng vũ trang Việt Nam”.
    Hun Sen nói: “Vai trò của các cố vấn Việt Nam cũng giống như các cố vấn nước ngoài (trong các đại sứ quán và trong các tổ chức nước ngoài), họ làm việc ở Campuchia tới thập niên 1990. Tôi có cảm tưởng các cố vấn nước ngoài này đã can thiệp vào các công việc nội bộ của Campuchia nhiều hơn so với các cố vấn Việt Nam. Các cố vấn Việt Nam chỉ đồng ý giúp chúng tôi ý kiến và để người Campuchia tự đưa ra các quyết định”.
    Giống như nhiều nhà lãnh đạo châu Á, Hun Sen không thể chịu để các chính phủ phương Tây và các chuyên gia khu vực lên lớp ông. Người ta suy đoán rằng Việt Nam đã lấy đi nguồn tài nguyên thiên nhiên của Campuchia trị giá hàng triệu đôla, đã lấy gỗ be và cao su trong thời gian lưu lại đất nước này. Hun Sen bác bỏ luận điệu đó. Hun Sen nói: “Điều đó không đúng. Mậu dịch giữa các quốc gia là chuyện bình thường. Việt Nam có thể mua gỗ be và cao su của Campuchia với giá tương đương các nước khác đã mua loại hàng hóa này của chúng tôi”.

    HARISH & JULIE MEHTA
    (LÊ MINH CẨN dịch)

    Hun Sen chắc chắn không quên những gì ông đã trải qua , những lời ông đã nói .
    Vì thế , chúng ta có thể tin tưởng ở ông , dầu cho TQ có ý định lôi kéo KPC như thế nào đi nữa thì VN luôn là bạn tốt trong trái tim ông và nhân dân KPC .

  3. vethoi1

    vethoi1 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    07/10/2008
    Đã được thích:
    0

    Bác chủ thớt bị làm sao ý. Mọi vấn đề về biển và hải đảo chỉ là anh em bên dưới va chạm với nhau thôi. Còn lãnh đạo cấp cao hai nước đã thống nhất với nhau rồi còn gì có gì phải tranh cãi nữa đâu.

    :x:x:x:x:x:x:x:x:x:x:x:x:x:x:x:x:x
  4. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118

    Hun Sen - Người con của Campuchia - Kỳ 6: Con đường đi lên



    [​IMG]
    Cuộc thương thảo hòa bình đầu tiên giữa Norodom Sihanouk và Hun Sen tại Pháp vào tháng 12-1987. Trong ảnh (hàng ngồi từ trái qua): Son Sann, Norodom Sihanouk và Hun Sen
    TT - Khi các thành viên cao cấp nhất của Hội đồng Cách mạng nhân dân Campuchia - được thành lập ở Phnom Penh sau khi chế độ Khơme Đỏ bị lật đổ - yêu cầu Hun Sen lên làm bộ trưởng ngoại giao, ông đã từ chối. Tuy nhiên, khi các nhà lãnh đạo cao cấp thuyết phục ông xem xét lại, ông miễn cưỡng chấp nhận và được bổ nhiệm làm bộ trưởng ngoại giao vào ngày 7-1-1979. >> Kỳ 1: Đứa con của trăng rằm
    >> Kỳ 2: “Con tin” của chiến tranh
    >> Kỳ 3: Chọn con đường khác
    >> Kỳ 4: Những ngày ở Việt Nam
    >> Kỳ 5: Giải phóng Campuchia
    Đỉnh cao
    Ở trong nước, cốt lõi mục nát của nền kinh tế mà Khơme Đỏ để lại đã gây cho dân tộc Campuchia rơi vào tình thế dễ gặp phải khốn đốn. Vào đầu tháng 3-1979, để sống, những người ở Phnom Penh buộc phải ăn rễ cây, trái cây dại và lá cây. Hàng triệu hecta ruộng lúa tạm thời bị bỏ hoang do chiến tranh, không có nước uống, dịch vụ điện thoại, bưu điện, vận chuyển, chợ búa và không tiền. Để xoa dịu tình hình, thỉnh thoảng chính phủ mới phân phát gạo và bột mì. Tháng tám, tin tức cho biết Chính phủ Heng Samrin chuẩn bị khôi phục việc sử dụng tiền và xây dựng nền kinh tế trao đổi bằng tiền mặt vào trước cuối năm.
    Tháng 1-1985, Hun Sen được bầu làm thủ tướng, hai tuần sau khi ông Chan Si qua đời do cơn đau tim và chỉ sau sáu năm ông làm bộ trưởng ngoại giao. Tân thủ tướng chỉ mới 33 tuổi và được xếp vào vị trí thứ năm trong Bộ Chính trị bảy thành viên của Đảng Cách mạng nhân dân Campuchia đang cầm quyền. Một cựu binh du kích tương đối ít kinh nghiệm chính trường đã được nhất trí bầu làm thủ tướng tại một phiên họp toàn thể của quốc hội. Ông đã đạt hai kỷ lục: một đối với thế giới và một đối với Campuchia. Ở tuổi 33, ông đã trở thành thủ tướng trẻ nhất thế giới vào thời điểm đó, giành được tất cả số phiếu bầu trong một cuộc bỏ phiếu kín tại quốc hội vào đầu năm 1985.
    Vào tháng 11-1989, phe kháng chiến của Sihanouk bị hoang mang, Mỹ và các nước trong khối Asean trở nên quan ngại khi thấy Anh, Canada, Pháp, New Zealand và Úc bắt đầu đối thoại với Chính phủ Hun Sen. Khi Sihanouk trở về quê hương Campuchia vào tháng 11-1991 sau 12 năm lưu vong, thái độ của ông đã thay đổi. Sihanouk nói: “Hun Sen là một nhà lãnh đạo xuất sắc. Ông ta trẻ, thông minh và có kinh nghiệm trong các công việc của nhà nước. Ông ta yêu nước và thật sự yêu thương người dân. Ông ta có sự tự hào dân tộc. Campuchia may mắn có được Hun Sen. Chúng tôi cần nhiều người như Hun Sen”. Từ cách gọi ông là “đứa con hư”, bây giờ Sihanouk đã coi Hun Sen là “đứa con nuôi” của mình.

    [​IMG]
    Thủ đô Phnom Penh ngày 7-7-1997, hai ngày sau vụ giao tranh vẫn còn đầy xe bọc thép trên đường phố Về phần mình, Hun Sen đã bổ sung một chi tiết khác vào bản lý lịch của ông. Hun Sen đã bổ túc cho quá trình không được học tập chính quy của mình bằng việc hoàn tất một luận án dài 172 trang với tựa đề “Các đặc điểm của chính trị học Campuchia”. Học viện Chính trị quốc gia của Việt Nam đã trao văn bằng tiến sĩ cho Hun Sen vào năm 1991. Một chú tiểu ở chùa không thể hoàn tất được quá trình học vấn của mình nay đã có được văn bằng danh dự của học viện cao cấp.
    Trận phủ đầu
    Sự chín muồi về chính trị của Hun Sen đã đạt tới đỉnh cao bằng việc ký kết hiệp định hòa bình Paris vào năm 1991, đất nước đã có được 22.000 quân trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc thuộc Phái bộ chuyển tiếp của Liên Hiệp Quốc ở Campuchia (Untac). Họ đến Campuchia vào cuối năm 1991 để tổ chức cuộc tổng tuyển cử vào tháng 5-1993, lần đầu tiên sau hơn hai thập kỷ. Nhiều đảng phái chính trị đã mọc lên như nấm dưới mặt trời chói chang của mùa hè và tiến hành đường lối vận động tranh cử. Khi họ vận dụng lý lẽ, các luận điệu được loan đi rất nhanh là Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) đang đe dọa các đảng phái khác, thậm chí sẽ giết những người làm việc của họ.
    Khi kết quả của cuộc bầu cử được tuyên bố vào đầu tháng 6-1993, Đảng Bảo hoàng Funcinpec giành được 58 ghế trong quốc hội, Đảng CPP chiếm 51 ghế. Đối với Hun Sen đây là lần nếm mùi thất bại ê chề đầu tiên. Dưới mắt của mọi người, Hun Sen là một người thua cuộc. Nhưng tình hình ở Campuchia không phải lúc nào dường như cũng vậy. Mặc dù hoàng tử Ranariddh đã đảm đương vai trò thủ tướng thứ nhất, nhưng ông không thể kiểm soát được hết bộ máy chính quyền ở các tỉnh được điều hành bởi đảng của Hun Sen - vị thủ tướng thứ hai. Không lâu sau cuộc bầu cử, Ranariddh và Hun Sen đã nỗ lực tạo ra bộ mặt chính phủ gắn kết và đánh bóng nó trong một giai đoạn, họ đã thể hiện được tấm bình phong đoàn kết hòa hợp. Thủ tướng thứ nhất và thứ hai thậm chí còn đi ra nước ngoài cùng tham gia các cuộc viếng thăm chính thức và ca ngợi lẫn nhau một cách hào phóng. Nhưng đó chỉ là vẻ ngoài mỏng giòn, tất nhiên sẽ bị nứt bể dưới sức ép.
    Sáng sớm 5-7-1997, người dân không thể hiểu tại sao giao tranh lại bùng nổ trên đường phố Phnom Penh. Họ sợ cuộc nội chiến quay trở lại giống như bóng ma hãi hùng từ trong quá khứ. Dân Campuchia mở đài Tiếng nói Hoa Kỳ, họ nghe được Ranariddh tố cáo Hun Sen đã phát động cuộc đảo chính chống lại ông ta. Chính phủ liên hiệp đã được giải tán. Người ta cho là nếu Hun Sen có ý định tiến hành cuộc đảo chính thì lúc ấy ông không đi nghỉ ở nước ngoài mà có mặt ở thủ đô để điều hành diễn biến này. Có nguồn tin cho rằng đúng hơn là cuộc giao tranh đã được sắp đặt và phát động bởi Ranariddh đang ở Phnom Penh vào ngay đêm xảy ra các cuộc xung đột, trong khi Hun Sen đang ở nước ngoài.
    Buổi sáng cùng ngày đó, Hun Sen xuất hiện trên truyền hình của nhà nước. Ông nói với dân chúng hãy giữ bình tĩnh và cố thuyết phục binh lính trở lại các doanh trại của họ. Khoảng 3 giờ chiều, lần đầu tiên sự yên bình của Phnom Penh đã không còn nữa kể từ ngày giải phóng Campuchia vào năm 1979. Khi vệ binh kéo đến dinh thự của Chao Sambath, họ đã mai phục nổ súng từ bên trong và ở các vị trí gần dinh thự này. Khi ấy lực lượng vệ binh dùng xe tăng T-55 để biểu dương sức mạnh, nhưng quân chống đối đã bắn vào bánh xích của xe tăng bằng hỏa tiễn chống tăng. Vì khu vực chiến sự này dân cư đông đúc, nên lực lượng vệ binh không thể trả đũa tới khi các cư dân ở đấy rời khỏi nhà của họ.
    Vào các ngày sau đó, Hun Sen đã giải thích lý do tại sao ông đã phải phát động trận chiến phủ đầu ác liệt chống lại các chỉ huy quân đội của Ranariddh, rằng những người này đã âm mưu thiết lập quân đội bí mật và di chuyển các lực lượng của họ đến Phnom Penh mà không có sự chấp thuận của Bộ Quốc phòng. Để tăng thêm sự khiêu khích, ông Ranariddh đã nhập khẩu một khối lượng vũ khí rất lớn mà không có sự nhất trí của Bộ Quốc phòng.
    Các tướng lĩnh của ông ta đã củng cố các đơn vị của họ bằng cách tuyển mộ quân Khơme Đỏ. Các cuộc đàm phán bí mật của Ranariddh với Khơme Đỏ nhằm mục đích gây dựng liên minh được xem là một sự khơi mào chiến tranh. Một Ranariddh ôn hòa đã được thay bằng một chính khách thèm khát cân bằng lực lượng với Hun Sen, và do muốn có được sự che chở cho vị thế của mình bằng cách dùng lực lượng vũ trang. Đó là một sai lầm tai họa đã thách thức thẳng thừng Hun Sen nổi lên.


    HARISH & JULIE MEHTA
    (LÊ MINH CẨN dịch)
  5. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Trình độ hàng không TQ chỉ là sao chép trộm , không có phần gốc , do vậy cái giá phải trả khá đắt , hàng trăm liệt sỹ phi công thời bình đã chết mất xác , mọi thông tin đều bị giấu kín , cấm công bố ....và mới đây là sản phẩm đầu tay giữa liên doanh Trung - Pakistan

    JF-17 Pakistan gặp tai nạn
    Cập nhật lúc :9:32 AM, 15/11/2011
    Một chiếc máy bay JF-17 Thunder (Thần Sấm) của Không quân Pakistan (PAF) đã bị rơi vào hôm 14/11.


    [​IMG]
    Một chiếc JF-17 Thunder của Không quân Pakistan tại triển lãm Dubai-2011.​
    (ĐVO)
    Nguồn tin dẫn báo cáo của kênh truyền hình địa phương tiếng Urdu, theo đó, một chiếc máy bay huấn luyện JF-17 Thần Sấm của PAF đã bị rơi gần một thành phố cách thủ đô Islamabad của Pakistan 80 km về phía Tây. Số người thương vong và nguyên nhân về vụ tai nạn máy bay chưa được công bố.

    JF-17 Thunder, còn được Trung Quốc gọi với tên FC-1 (Kiêu Long), là máy bay tiêm kích đa năng được Trung Quốc và Pakistan hợp tác phát triển. Chiếc JF-17 đầu tiên xuất hiện tại Islamabad vào ngày 23/3/2007 trong lễ duyệt binh của quân Quân đội Pakistan.

    Ở triển lãm hàng không quốc tế Dubai - 2011 đang diễn ra ở UAE, Pakistan cũng đã mang đến một chiếc JF-17 Thunder để trình diễn, đánh dấu lần tiên loại máy bay này được mang tới một triển lãm hàng không quốc tế không do Pakistan hay Trung Quốc tổ chức.
    Thanh Dung (theo Global Times)
  6. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    VIỆT NAM CẦN NHANH CHÓNG THOÁT RA KHỎI TRUNG QUỐC
    Bùi Công Tự


    1.Trung Quốc phát triển đang đe dọa thế giới:


    Bất kỳ quốc gia nào khi đã phát triển vượt trội đều vươn cánh tay ra nước ngoài để tìm kiếm tài nguyên, mở rộng thị trường kiếm thêm lợi nhuận và nâng cao vị thế của mình. Trung Quốc không ngoại lệ.


    Nhưng sự phát triển vượt trội của Trung Quốc những năm gần đây lại bị nhiều học giả báo động về một nguy cơ đe dọa toàn thế giới. Có tác giả còn cho rằng ngay cả nước Mỹ cũng rất có thể bị chết dưới bàn tay China.


    Chúng ta biết rằng trong khoảng 20 năm qua, Trung Quốc đã từ một nước nghèo trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Lý do để nói rằng Trung Quốc đe dọa thế giới là vì nước này chọn con đường phát triển bằng cách sản xuất hàng hóa chất lượng thấp, nhiều thứ độc hại, giá cả rẻ mạt, bán khắp thế giới. Họ tận dụng nguồn lao động dồi dào giá rẻ và đồng nhân dân tệ được định giá thấp hơn giá trị thật nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Họ ăn cắp công nghệ, đánh đổi môi trường, đầu độc sinh thái. Họ đầu tư vào các nước nghèo (chủ yếu ở châu Á và châu Phi) để khai thác nguồn tài nguyên của các nước này theo kiểu ăn cướp. Họ sẵn sàng viện trợ không hoàn lại, “đi đêm” với các chính phủ độc tài, phản tiến bộ. Họ di dân ra nước ngoài bằng nhiều con đường để tính kế lâu dài. Họ thuê những vùng đất đai rộng lớn dài hạn tới 50 năm hoặc 99 năm ở nhiều quốc gia (Myanma, Lào, các nước châu Phi và ngay cả Việt Nam là nước đất hẹp, người đông). Họ “xui nguyên giục bị” gây mất lòng tin giữa các nước (như đối với khối ASEAN). Họ tăng cường quân đội, đe dọa các nước láng giềng, tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải vv..và vv…


    Các nhà nghiên cứu chính trị nhận định rằng Trung Quốc đang thực thi chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan. Trung Quốc thực sự là một đế quốc kiểu mới dựa trên lợi nhuận khổng lồ từ một nền sản xuất thiếu lương tâm.


    Những người lãnh đạo Trung Quốc đã đi khắp thế giới thuyết giảng về thiện chí hòa bình hữu nghị của họ cộng với bộ máy tuyên truyền ra rả bịp bợm. Nhưng không mấy ai tin ở họ. Hầu hết các chính sách của Trung Quốc đều bị thế giới phê phán. Tuy nhiên, thế giới bây giờ là thế giới phẳng nên Trung Quốc vẫn có nhiều cơ hội thâm nhập vào các nước khác.


    Sự đe dọa của Trung Quốc không phải như nhau với mọi quốc gia. Với những nước ở xa có thể chỉ là mối quan ngại bị chèn ép, lấn lướt về thương mại. Còn với các quốc gia ở gần thì nguy cơ lớn hơn nhiều. Không phải chỉ vì lân bang thì hàng hóa và con người Trung Quốc dễ xâm nhập mà còn bị Trung Quốc tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải, đe dọa chiến tranh.


    Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc còn tiềm tàng mối đe dọa cho chính đất nước họ, dân tộc họ. Điều này có thể thấy qua các con số trẻ em bị chết và mắc bệnh vì sữa bẩn chứa melamin, đồ chơi trẻ em có độc tố chì, sự ô nhiễm môi trường và những thiệt hại do các công trình thủy điện gây ra.


    2. Chiến lược phá hoại toàn diện của Trung Quốc đối với Việt Nam – những lời cảnh báo:


    Trong bài viết này, tôi muốn cùng bạn đọc tìm hiểu xem Việt Nam đã và đang bị Trung Quốc đe dọa ra sao, ở mức độ nào và có cần thoát ra không?


    Nhìn bản đồ Trung Quốc, các nhà nghiên cứu có nhận xét là về phái Bắc, phía Tây, phía Đông đều có những bức tường vô hình làm cho Trung Quốc khó bành trướng. Trung Quốc chỉ có thể bành trướng thuận lợi về phía Nam, tức là phía lãnh thổ Việt Nam chúng ta, gồm cả đất liền và biển Đông.


    Việt Nam có vị trí đặc biệt như thế, lại có biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa tiềm tàng nguồn tài nguyên béo bở. Đồng thời là nơi có những con đường hàng hải chuyên chở tới 60% lượng hàng hóa lưu thông của thế giới. Cho nên Việt Nam là nước đầu tiên bị Trung Quốc nhắm tới trong chiến lược tham lam càn rỡ của họ.


    Theo nhận định của Đại tá Quách Hải Lượng, nguyên Tùy viên quân sự ĐSQ VN tại Bắc Kinh những năm đầu thập niên 1980 thì: “Trung Quốc có hẳn một chiến lược gây ảnh hưởng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa nhằm vào Việt Nam, đã và đang được họ thực thi”(trích Đoan Trang blog).


    Về phía Việt Nam, sau sự kiện Trung Quốc đánh chiếm các tỉnh biên giới phía Bắc tháng 02/1979, những nhà lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là cố TBT Lê Duẩn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lên án mạnh mẽ tập đoàn bành trướng Bắc Kinh, vạch rõ những âm mưu thâm độc của họ đối với Việt Nam, khẳng định đó là bản chất không thay đổi của họ, nhắc nhở chúng ta phải cảnh giác.


    Sau khi Việt Nam và Trung Quốc lập lại quan hệ bình thường năm 1991, đề phòng tình trạng có thể bị mất cảnh giác trước chiêu bài lừa gạt của Trung Quốc, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam tiếp tục cảnh báo một nguy cơ từ phía Trung Quốc đối với Việt Nam trong bối cảnh mở cửa cho kinh tế thị trường.


    Theo trí nhớ của tôi, một trong những người cảnh báo nguy cơ nói trên sớm nhất và rõ ràng nhất là Tiến sĩ Lê Đăng Doanh. Trong một bài nói chuyện trước các nhà lãnh đạo Đảng và NN, chuẩn bị cho Đại hội Đảng (cách đây khoảng 10 năm), TS Lê Đăng Doanh đã khẳng định: Trung Quốc rất nguy hiểm, nguy hiểm lắm, “nó” có thể “chơi” “anh” (tức Việt Nam) bất cứ lúc nào!. (Tôi thuật lại theo văn nói của ông).


    Diễn biến trong quan hệ giưa Trung Quốc và Việt Nam trong 20 năm qua có thể chia làm hai giai đoạn:


    Giai đoạn 1: từ năm 1991 – năm 2000. Trung Quốc tập trung gây ảnh hưởng chủ yếu về chính trị và văn hóa. Mọi thù hằn trước đó nhanh chóng xóa bỏ. Việt Nam ca ngợi Đặng Tiểu Bình, xuất bản rộng rãi những bài nói của Đặng. Hai nước ký kết nhiều hiệp định quan trọng. Phim ảnh Trung Quốc nhất là phim võ hiệp và dã sử tràn ngập Việt Nam.


    Giai đoạn 2: từ năm 2001 – nay: Trung Quốc xâm nhập Việt Nam mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa. Người Trung Quốc vào Việt Nam ngày càng nhiều và đến khắp nơi. Cùng với việc tuyên bố chủ quyền ở biển Đông, từ năm 2004 Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động gây hấn trên biển.


    Đại tá Quách Hải Lượng nói: “Ta đừng chờ họ mang quân tới đánh thì mới gọi là xâm lược. Thực chất hiện nay họ đã xâm lược rồi. Phải nói như ông Nguyễn Cơ Thạch (cựu Bộ trưởng Ngoại giao VN) rằng Trung Quốc đã phát động chiến tranh phá hoại toàn diện đối với Việt Nam. Nói như thế mới là đầy đủ”(trích theo ĐoanTrang Blog).


    Nhưng tiếc thay, tất cả những lời cảnh báo đã như “đánh trống trước cửa nhà sấm”!


    VIỆT NAM ĐÃ BỊ PHỤ THUỘC VÀO TRUNG QUỐC CHƯA?


    Chúng ta có thể đặt câu hỏi khác là: Trung Quốc đã “thành công” trong chiến lược xâm nhập phá hoại Việt Nam toàn diện như thế nào? Cái gì đã xảy ra?


    Trả lời được câu hỏi này chắc phải viết cả một cuốn sách vài trăm trang. Ở đây tôi chỉ xin phác họa một số điểm nhấn, mong rằng từ các điểm đó bạn đọc có thể suy ra trên diện rộng.


    Theo tôi về chính trị, năm 1991 trong tình cảnh Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, dẫn đến khủng hoảng về lý luận thì việc ĐCS Việt Nam liên kết chặt chẽ với ĐCS Trung Quốc và chịu ảnh hưởng của họ là điều dễ hiểu. Trong khoảng 20 năm nay, hai Đảng và hai nước đã ký kết khoảng 40 hiệp định và thỏa thuận. Những cuộc gặp gỡ cấp cao, cấp Bộ ngành và địa phương duy trì đều đặn. Sau những cuộc gặp gỡ ấy, thông tin đưa ra cho thấy đôi bên đều “thống nhất, nhất trí” các quan điểm.


    Khách quan nhận xét rằng có thể Trung Quốc đã áp đặt lên Việt Nam đường lối của họ, đưa Việt Nam vào quỹ đạo của họ. Điều này chúng ta đã có kinh nghiệm từ kháng chiến chống Pháp. Và Việt Nam đã “học tập đội bạn” từng động tác trong vũ điệu kinh tế thị trường. Rất nhiều sách chính trị của Trung Quốc hoặc viết về Trung Quốc được xuất bản ở Việt Nam.


    Về văn hóa, 20 năm qua, chúng ta đã để cho Trung Quốc xâm nhập như bão táp. Những năm đầu thập niên 1990, ti vi chưa phổ cập thì băng Video phim võ hiệp, tình sử, dã sử Trung Quốc phát hành đến tận hang cùng ngõ hẻm. Bây giờ thì hàng trăm kênh truyền hình, cả TW và địa phương, không nơi này thì nơi khác suốt ngày chiếu phim Tàu. Văn học Trung Quốc được người Việt Nam dịch, xuất bản rất nhiều, kể cả những tiểu thuyết rác rưởi. Một tờ báo địa phương như tờ Văn nghệ Thái Nguyên mà cũng thường xuyên in truyện ngắn Trung Quốc. Tất nhiên điều đó không hẳn là xấu, nhưng vô hình trung nó kiềm chế sự phát triển của văn hóa Việt Nam, nó chiếm chỗ dành cho các nền văn hóa khác, nó tác động vào tư tưởng, tâm lý người Việt Nam, Hán hóa dần dần con cháu các vua Hùng.


    Về kinh tế, có thể nói Trung Quốc đã nắm được yết hầu của Việt Nam, nó thể hiện ở những điểm chính sau đây:


    Một là, cả nước Việt Nam biến thành cái chợ hàng Trung Quốc khổng lồ mà toàn hàng giá rẻ, chất lượng thấp và độc hại. Những hàng hóa này tràn vào Việt Nam chủ yếu qua con đường tiểu ngạch và buôn lậu, cả buôn lậu trên biển. Nó kiềm hãm đến bóp chết nhiều ngành sản xuất hàng tiêu dùng của Việt Nam, nhất là thợ thủ công ở các làng nghề. Tại Hà Nội nhà máy Dệt 8/3, nhà máy VPP Hồng Hà phải đóng cửa trong đó có nguyên nhân sản xuất không có lãi vì không cạnh tranh được với hàng hóa Trung Quốc (nhưng người ta không ai muốn thú nhận điều đó).


    Hai là, một sự bất bình đẳng quá đáng trong cán cân thương mại giữa hai nước. Việt Nam nhập khẩu và nhập siêu quá lớn từ Trung Quốc. Riêng năm 2010 nhập khẩu từ Trung Quốc tới hơn 20 tỷ USD, nhập siêu tới 12,7 tỷ USD. Nếu biết rằng tông thu nhập quốc nội của nước ta hiện nay mới hơn 100 tỷ USD/ năm thì con số nhập khẩu và nhập siêu từ Trung Quốc là một tỷ lệ lớn đến trầm trọng.


    Ba là, sự xâm nhập quá sâu của các công ty Trung Quốc vào Việt Nam. Hiện tượng các công ty Trung Quốc trúng thầu đến 90% hàng mục các công trình quan trọng của các ngành điện, than – khoáng sản, dầu khí, giao thông… mà chủ yếu theo phương thức EPC (thiết kế - mua sắm – xây dựng) kéo theo bao hệ lụy về công nghệ thấp, lao động, tiến độ và chất lượng công trình.


    Bốn là, chúng ta có bao nhiêu tài nguyên khoáng sản thì Trung Quốc nhập khẩu bằng hết. Họ còn nhập khẩu lậu khoáng sản của ta qua đường biên và trên biển (hàng năm chỉ riêng tỉnh Quảng Ninh đã có hàng triệu tấn than buôn lậu sang Trung Quốc bằng tàu thuyền). Kết quả là chúng ta mau chóng bị cạn kiệt tài nguyên, đang báo động phải nhập khẩu than nhiều triệu tấn trong những năm sắp tới.


    Để bạn đọc hình dung được sự phụ thuộc của kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc, tôi xin dẫn dưới đây ý kiến của ông Schroth thuộc Hiệp hội May mặc và giày da Mỹ nói về ngành dệt may Việt Nam: “Dệt may Việt Nam hiện nay gần giống như một phân nhánh sản xuất của Trung Quốc, nơi lắp ráp và sản xuất ra thành phẩm từ nguyên liệu của Trung Quốc. Nhiều nhà máy ở Việt Nam là của các Công ty Trung Quốc đầu tư. Do đó đây thực sự không phải là một cuộc cạnh tranh đúng nghĩa mà là một quan hệ cộng sinh” (trích nguồn từ Internet).


    Quan hệ cộng sinh? Liệu có phải là cây tầm gửi cộng sinh trên thân cây đa, cây đề?


    Liệu ý kiến của vị chuyên gia Mỹ nói trên có thể dùng để nói cả cho những ngành kinh tế khác của Việt Nam?


    Thế thì đúng như cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã nói: “Thực chất hiện nay họ đã xâm lược ta rồi!”


    Có điều cuộc xâm lăng này Trung Quốc sử dụng “sức mạnh mềm” nên kẻ bị xâm lăng không dễ nhận ra. Thậm chí có khối người còn nhờ nó mà “mở mặt với đời”. Đó có thể là những chính khách chưa đủ tầm trí tuệ hay những quan chức tham nhũng “đi đêm” với các Công ty Trung Quốc. Đó cũng có thể là những doanh nhân hám lợi chuyên buôn bán hàng Tàu. Họ có thể không ý thức được rằng họ đã là hại dân hại nước.


    2. Kết luận:


    Khi một nước này bị phụ thuộc vào nước kia thì đầu tiên là phụ thuộc về chính trị - tư tưởng, sau đó đồng thời phụ thuộc về kinh tế, văn hóa, quốc phòng. Trong đó phụ thuộc về chính trị - tư tưởng là nguy hiểm nhất vì chính trị - tư tưởng chi phối tất cả.


    Cho nên để Việt Nam thoát ra khỏi Trung Quốc thì đòi hỏi đầu tiên là phải thoát ra về chính trị - tư tưởng. Nhờ đó sẽ đến được với những tư tưởng tiến bộ nhất của nhân loại. Dân tộc Việt Nam sẽ có cơ hội được hưởng những giá trị nhân bản phổ quát. Những gì tốt đẹp của dân tộc sẽ được phục hồi và phát huy.


    Thoát ra khỏi Trung Quốc về văn hóa là Việt Nam thoát khỏi một nguy cơ Hán hóa đang dần dần làm mất gốc cả dân tộc ta.


    Thoát ra khỏi Trung Quốc về kinh tế là Việt Nam thoát khỏi mối đe dọa bệnh tật, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên và sinh thái. Đồng thời sẽ đến được với những nền sản xuất tiên tiến, công nghệ cao của các nước văn minh.


    Có thoát ra khỏi Trung Quốc thì Việt Nam mới có thể giữ vững độc lập chủ quyền.


    Trung Quốc hiện giờ như một lực sĩ Sumo nhưng lục phủ ngũ tạng đang mọc nhiều khối u ác tính. Đó là cơ hội cho Việt Nam thoát ra khỏi nếu chúng ta sáng suốt có ý chí quyết tâm và tài năng.


    Do yêu cầu của nội dung nên bài viết hơi dài, mong được bạn đọc trao đổi.


    TP Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 07 năm 2011
    Bùi Công Tự

  7. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118

    Hun Sen - Người con của Campuchia - Kỳ 7: “Không thể lật đổ tôi bằng vũ lực”



    [​IMG]
    Ngày 15-7-2004, Quốc hội Campuchia thông qua thành phần chính phủ mới, Hun Sen (phải) tái đắc cử thủ tướng và hoàng thân Norodom Ranariddh làm chủ tịch quốc hộiTT - Quốc hội nhóm họp vào ngày 20-10-1994. Chương trình nghị sự là việc cải tổ nhân sự của nội các chính phủ. Bộ trưởng tài chính Sam Rainsy là chủ đề chính được đưa ra để lấy ý kiến. Các nghị sĩ quốc hội nhất trí biểu quyết bãi miễn ông và một vài bộ trưởng khác khỏi chức vụ. >> Kỳ 1: Đứa con của trăng rằm
    >> Kỳ 2: “Con tin” của chiến tranh
    >> Kỳ 3: Chọn con đường khác
    >> Kỳ 4: Những ngày ở Việt Nam
    >> Kỳ 5: Giải phóng Campuchia
    >> Kỳ 6: Con đường đi lên

    Chế độ đồng thủ tướng kết thúc
    Năm 1995, lời cam kết về chế độ dân chủ của Hun Sen đã bị đặt thành vấn đề, vì hai lẽ: việc giải quyết trong chính phủ của ông về vấn đề Sirivudh (người em cùng cha khác mẹ của Sihanouk) đã từ chức bộ trưởng ngoại giao vào năm 1994 và người ta cho rằng có các bất đồng nghiêm trọng với cả Hun Sen lẫn Ranariddh.
    Vào tháng 11-1995, Sirivudh bất ngờ bị quản thúc vì bị cho là có liên quan đến âm mưu ám sát Hun Sen. Sirivudh đã bác bỏ lời buộc tội ấy, nhưng Bộ Nội vụ cho biết họ có “bằng chứng thuyết phục” là Sirivudh có dính líu đến âm mưu đó. Ba tuần sau khi Sirivudh bị bắt, quốc vương Norodom Sihanouk đã đề nghị một giải pháp: trục xuất Sirivudh sang Pháp để tránh cho ông ta không bị xét xử gây mất thể diện. Lời đề nghị ấy nhanh chóng được Hun Sen và Ranariddh chấp nhận, cả hai ông đều xem đó là một cơ hội để loại một đối thủ chính trị ra khỏi chính trường một cách êm xuôi.

    - Ngày 26-7-1998, Campuchia tổng tuyển cử lần thứ hai, tiếp tục là chính phủ liên hiệp giữa CPP và FUNCINPEC. Hun Sen làm thủ tướng, hoàng thân Ranariddh giữ chức chủ tịch quốc hội.
    - Ngày 27-7-2003, tổng tuyển cử lần 3, chính phủ liên hiệp CPP-FUNCINPEC nhiệm kỳ 3 được thành lập, Hun Sen tiếp tục giữ chức thủ tướng, hoàng thân Ranariddh giữ chức chủ tịch quốc hội.
    - Ngày 27-7-2008, tổng tuyển cử lần 4, CPP giành thắng lợi vang dội với 90/123 ghế trong quốc hội. Sau CPP là đảng Sam Rainsy với 26 ghế, đảng FUNCINPEC và đảng Norodom Ranarriddh mỗi đảng giành được hai ghế.
    Không bao lâu sau, Hun Sen bất hòa với Ranariddh. Tình trạng rắc rối bắt đầu khi Ranariddh đòi hỏi sự chia sẻ các chức vụ trong chính quyền ở các huyện ngang nhau cho các đảng viên của ông. Hun Sen đã từ chối thẳng thừng. Chính phủ lâm vào tình cảnh nguy hiểm. Chẳng ai còn nghi ngờ rằng quyền hành thật sự ở Campuchia đã thuộc về Hun Sen và Ranariddh chỉ giữ vai trò thứ yếu. Vào tháng 11-1997, đảng Nhân dân Campuchia (CPP) của Hun Sen bắt đầu chuẩn bị cuộc tổng tuyển cử - tám tháng trước thời hạn đã ấn định. Đảng Funcinpec đã chia rẽ thành chín phe phái và các nghị sĩ quốc hội của họ thuộc nhiều đảng khác nhau. Hun Sen tin tưởng sẽ giành được phần lớn ghế trong quốc hội gồm 122 thành viên trong cuộc bầu cử ngày 26-7-1998 sau lần thất bại trong bầu cử năm 1993. Sự thay đổi có ý nghĩa nhất là chế độ hai thủ tướng sẽ kết thúc sau cuộc bầu cử tháng bảy.
    Sau đó, chỉ một thủ tướng sẽ nhậm chức khi được công bố chính thức theo hiến pháp. Tân thủ tướng sẽ được bổ nhiệm từ đảng giành được số ghế nhiều nhất, chứ không được bổ nhiệm từ sự liên minh các đảng bao gồm số nghị sĩ quốc hội nhiều nhất. Đúng như Hun Sen tin tưởng, cuộc tổng tuyển cử lần hai đã cho kết quả chiến thắng thuộc về CPP.
    Đánh vào đầu, không phải đánh vào đuôi

    [​IMG]
    Yên bình trở lại: người dân Phnom Penh theo dõi việc dọn dẹp chiếc xe tăng bị đốt cháy trong cuộc giao tranh ở thủ đô ngày 5-7-1997 Hun Sen đã sống bên khẩu súng và thường giáp mặt với cái chết cũng bởi súng ống. Người thanh niên du kích ấy đã phản ứng rất mau lẹ để né tránh những mũi đạn không khác gì một người lính dày dạn chiến trường, vị thủ tướng ấy đã bị B-40 và lựu đạn nhắm vào mình. Những kẻ thù của ông nhiều lần cố ám sát ông, song họ đã không thể làm gì được ông. Ông nhận định: “Họ không thể lật đổ tôi bằng vũ lực. Nếu họ muốn trừ khử tôi, họ sẽ phải chơi nước cờ chính trị tài tình hơn tôi”.
    Tình trạng không an toàn của Hun Sen bắt nguồn từ những kẻ thù vây quanh, bao gồm Khơme Đỏ, một số người trong đảng Bảo hoàng và những người lãnh đạo phe đối lập, họ muốn loại trừ ông. Vì tình hình thiếu an toàn đã khiến ông phải phát triển mạng lưới an ninh, ông tự bố trí các lính bảo vệ được chọn lọc kỹ lưỡng và ngoài họ ra còn một lực lượng vũ trang tinh nhuệ có thể được điều động để yểm trợ chính phủ.
    Hun Sen đã trải qua một cuộc sống dường như có phép mầu phù hộ. Ông đã bình an vô sự thoát khỏi sự mưu sát vào ngày 24-9-1998, khi đang đi xe đến dinh Sihanouk ở Siem Reap. Một quả B-40 đã bắn vào xe của ông nhưng trượt khỏi đoàn xe hộ tống và trúng vào một căn nhà chỉ cách xe Hun Sen 10m, giết chết một bé trai 12 tuổi và gây cho ba người khác bị thương.
    Hun Sen nói: “Chuyện giết Hun Sen sẽ không kết thúc được vấn đề. Điều đó sẽ còn khiến vấn đề càng tệ hơn. Tôi cảm thấy nếu Hun Sen chết thì những cái chết của các lãnh đạo phe đối lập sẽ không xa sau đó. Nếu các lãnh đạo phe đối lập cố vấn cho những người của họ tiến hành các động thái này, tôi nghĩ tương lai của họ sẽ không tốt đẹp”.
    Trưởng ******* Hok Lundy đã buộc tội phe đối lập về vụ tấn công này. Ông Hok nói: “Chúng tôi dám chắc một trăm phần trăm là các đảng đối lập đứng đằng sau sự việc này và họ đã hợp tác với nhau để giết ông ta”. Cả Rainsy và Ranariddh đều nói họ không hay biết gì về vụ tấn công ấy.
    Sau đó, ba quả rôckêt được phát hiện gần hiện trường vụ nổ. ******* cho biết các quả rôckêt điều khiển bằng tay đã được gắn bộ điều khiển từ xa, và chỉ duy nhất một ngòi kích nổ được do ngày hôm trước có mưa to. Một tờ giấy có ghi nội dung khó hiểu được tìm thấy trong một hộp pin: “Ong chúa sẽ loại dần tất cả các kẻ độc tài của dân tộc. Hôm nay, kẻ độc tài quan trọng nhất của dân tộc phải bị kết liễu”. Hun Sen liên hệ vụ tấn công này với một vụ đã xảy ra một tháng trước đó và ông đã treo thưởng 200.000 đôla cho những kẻ tấn công nếu chỉ tên kẻ đầu sỏ của họ.
    Trước đó, một cố gắng ám sát Hun Sen đã được tiến hành vào năm 1996. Hai kẻ bắn tỉa đã bắn vào xe của ông khi đi ngang qua một nhà máy sản xuất quần áo ở thành phố Kandal. Một viên đạn bắn trúng mũ sắt của người đi môtô hộ tống khiến người này bị thương. Hun Sen bình yên vô sự và tiếp tục từ tư dinh của ông ở Takhmau tới điện Chamcarmon ở Phnom Penh.
    Hun Sen nói: “Nếu những lãnh đạo phe đối lập không chỉ thị cho các lực lượng của họ ngưng tiến hành các hoạt động đe dọa sinh mạng của tôi, họ sẽ chết sau khi đã phải chịu đau đớn thảm khốc nhất. Đối với một con rắn, nếu không đánh vào đầu nó, nó vẫn có thể cựa quậy và cắn lại. Vì vậy chúng tôi phải đánh vào đầu nó, chứ không phải vào đuôi”.

    HARISH & JULIE MEHTA
  8. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Theo một tác giả khác

    Thoát khỏi "cái bóng đồ sộ" của Trung Quốc

    Các nền kinh tế châu Á đang có những bước "mạnh dạn" thoát khỏi cái bóng Trung Quốc. Những đại diện đang trỗi dậy gây chú ý của các nhà đầu tư là Thái Lan, Malaysia, Singapore và Việt Nam...
    Một cảm giác phấn chấn thật sự đang lan rộng tại châu Á trong lúc các nền kinh tế khu vực đang mạnh dần lên và muốn thoát khỏi cái bóng đồ sộ của Trung Quốc (TQ). Nền kinh tế Singapore được kỳ vọng sẽ tăng trưởng đến 15% trong năm nay, theo dự báo của Bộ Thương mại và Công nghiệp Singapore cũng như Tập đoàn Citigroup (Mỹ).
    GA_googleAddSlot("ca-pub-9658104537823514", "vbb7.1"); GA_googleFetchAds(); GA_googleFillSlot("vbb7.1");


    Dọc theo biên giới với đảo quốc sư tử, quốc gia láng giềng Malaysia cũng được ước tính tăng trưởng kinh tế sẽ đạt gần 7%, kế đến là Indonesia với 6,6%.

    [​IMG]Hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thế giới

    Hàn Quốc và Philippines cũng đang trên đường đạt đến mức 6%.Khỏi phải nói giới truyền thông địa phương đã nhanh nhạy như thế nào trong việc giật các tít lớn loan tin tốt lành trên trang bìa, nhấn mạnh khu vực này đã trở nên hấp dẫn hơn trước mắt nhà đầu tư với nhiều quốc gia đồng loạt phát triển tốt. Hầu hết các nhà quan sát ngoài khu vực có xu hướng xem TQ và Ấn Độ như là động lực chính thúc đẩy sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ tại châu Á. Tuy nhiên, nhiều láng giềng của hai nước này đang nỗ lực chứng tỏ tên tuổi để thoát khỏi biệt danh các con hổ kinh tế. Điều này đã tạo nên sự kích thích trong nội bộ châu Á khi Việt Nam và Thái Lan đang tranh giành vị thế với các nền kinh tế như Singapore và Hồng Kông.
    Khi đề cập sự trỗi dậy của các nền kinh tế nhỏ hơn tại châu Á, Catherine Yeung, Giám đốc Đầu tư của Fidelity tại châu Á, cho hay: “TQ có ảnh hưởng dữ dội, nhưng nhiều quốc gia châu Á cũng đang trải qua sự thay da đổi thịt tương tự, như thành thị hóa, xây dựng cơ sở hạ tầng mới và sự gia tăng tầng lớp trung lưu với khuynh hướng chi tiêu mạnh tay hơn...
    Những nước này cũng có các ngân hàng quản lý khôn khéo và tập trung hơn vào nhu cầu nội địa, nên chúng tôi hết sức lạc quan về châu Á như một khu vực, chứ không phải chỉ có TQ”.
    Indonesia là một ví dụ điển hình. Nước này đang hy vọng sẽ đạt tăng trưởng 8% vào năm tới và đang trên đường trở thành nền kinh tế trỗi dậy lớn kế tiếp sau khối BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ và TQ). Indonesia là nền kinh tế lớn nhất khu vực Đông Nam Á và có những số liệu thống kê hết sức hứa hẹn, trong đó có hơn 55% dân số dưới 30 tuổi.
    Trong khi vẫn phải dựa vào TQ và Ấn Độ để bán được hầu hết tài nguyên thiên nhiên, Indonesia cũng thu hút được nhiều nguồn đầu tư nước ngoài trong nỗ lực đa dạng hóa kinh tế. Hãng điện tử LG (Hàn Quốc) và Caterpillar (Mỹ) mới đây đã chọn Indonesia làm nơi sản xuất chính tại Đông Nam Á.
    Một trong những hấp lực khác để đầu tư vào châu Á chính là sự đa dạng, từ các con hổ châu Á như Indonesia và Philippines đến những nền kinh tế bảo hộ nhiều hơn như Malaysia, và đến những nền kinh tế phát triển hơn như Úc và Singapore.
    Hugh Young, phụ trách Quỹ Châu Á - Thái Bình Dương của Aberdeen, nhận xét, một trong những điểm mạnh của khu vực là các nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh hơn vì những nước châu Á không phải gánh thêm chi phí nghiên cứu và phát triển nên hàng hóa và dịch vụ thu lại được ở tốc độ nhanh hơn nhiều.
    Jim Walker, Giám đốc Quản lý của Asianomics, tổ chức cố vấn kinh tế đặt tại Hồng Kông, cho biết, viễn cảnh dài hạn tại châu Á rất tốt, nhờ vào thực tế các bảng cân đối kế toán trông sáng sủa và ngăn nắp hơn so với châu Âu và những nơi khác. Đó là kết quả của quá trình dọn dẹp theo sau cuộc khủng hoảng châu Á.
    Tuy nhiên, vẫn còn quá sớm để phán đoán châu lục này sẽ vượt qua mặt đàn anh kỳ cựu châu Âu xét về khía cạnh năng lực kinh tế và tầm ảnh hưởng. Hugh Young cũng nói thêm rằng, các nền kinh tế châu Á sẽ tiếp tục tách khỏi các đối tác châu Âu, tăng cường khả năng tìm kiếm những nguồn cung và cầu trong nội bộ châu lục. Theo ông, dù có thể vấp phải một năm chẳng xuôi chèo mát mái, châu Á vẫn tiếp tục tăng trưởng tốt trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn.

    Việt Báo (Theo DNSG
  9. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118

    Hun Sen - Người con của Campuchia - Kỳ cuối: Cơ hội mới


    TT - Với việc thay bảy con mắt, nhiều người nói rằng Hun Sen có thể nhìn thấy trước mọi nước cờ mà các kẻ thù của ông đang dự định thực hiện. Hun Sen đã nói về các con mắt giả khác nhau bằng thủy tinh được Nhật và Liên Xô lắp cho ông, sau khi ông bị hỏng mắt trái trong một trận chiến lớn ngay trước khi Phnom Penh bị thất thủ vào năm 1975: “Tôi có một con mắt Campuchia và sáu con mắt Nhật”.

    [​IMG]
    Chủ tịch thượng viện kiêm chủ tịch đảng Nhân dân Campuchia Chea Sim (giữa), Thủ tướng Hun Sen (phải) và Chủ tịch Quốc hội Heng Samrin (trái) thả bồ câu ngày 7-1-2008, đánh dấu 29 năm đất nước thoát khỏi chế độ Khơme Đỏ >> Kỳ 1: Đứa con của trăng rằm
    >> Kỳ 2: “Con tin” của chiến tranh
    >> Kỳ 3: Chọn con đường khác
    >> Kỳ 4: Những ngày ở Việt Nam
    >> Kỳ 5: Giải phóng Campuchia
    >> Kỳ 6: Con đường đi lên
    >> Kỳ 7: “Không thể lật đổ tôi bằng vũ lực”

    Hòa nhập thế giới
    Sau cuộc bầu cử tháng 7-1998 với thắng lợi thuộc về đảng Nhân dân Campuchia (CPP) của Hun Sen, xem ra đất nước đã có được thời cơ hứa hẹn để tạo ra một sự khởi đầu mới với một nhà lãnh đạo có uy thế lớn. Nhưng họ không đủ hai phần ba số phiếu cần thiết để thành lập chính phủ, buộc Hun Sen phải đi đến một chính phủ liên hiệp. Khi tranh cãi về bầu cử vẫn đang diễn ra và tình trạng “vô chính phủ” vẫn kéo dài, đối với Hun Sen, ông có thể đoán trước được sự thắng lợi sẽ có hiệu lực. Ông bắt đầu suy nghĩ và vạch ra kế hoạch giống như một thủ tướng, thậm chí ngay cả trước khi ông được chính thức nhậm chức. Ông đã cam kết tạo ra một “chính phủ kinh tế” để ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát và giảm thâm hụt ngân sách.
    Suốt giữa thập niên 1990, Hun Sen đã triển khai một chiến lược mới, lúc ấy gây ra nhiều bàn cãi để ly gián Khơme Đỏ bằng cách khuyến khích những lãnh đạo hàng đầu của họ rời bỏ hàng ngũ chạy sang phía chính phủ. Từ số quân 50.000 lính chiến đấu vào lúc cao điểm của phe du kích Khơme Đỏ, quân số Khơme Đỏ giảm dần xuống 4.000 quân vào năm 1993 và chỉ còn khoảng 1.000 quân năm 1997. Hun Sen đã khuấy động tình trạng tan rã của họ bằng cách đồng ý ân xá cho Ieng Sary, do đó đã chia rẽ họ thành các phe phái nhỏ hơn mà họ đã tìm kiếm các sự thương lượng cũng chỉ để thoát khỏi sự trừng phạt. Khieu Samphan và Nuon Chea chịu quy hàng Chính phủ Campuchia vào tháng 12-1998.
    Người cựu du kích ấy cuối cùng đã được hợp pháp hóa sau khi thắng cử, ông nhìn tương lai bằng màu hồng tươi đẹp hơn. Hun Sen đã được mời tham dự hội nghị cấp cao Asean ở Hà Nội tháng 12-1998 như một vị khách mời và ông đã khai thác cơ hội ấy triệt để nhất. Bằng một bài diễn văn thật tinh tế, Hun Sen đã kêu gọi cho đất nước ông được gia nhập nhóm các nước trong khu vực, bằng cách phác họa một bức tranh đầy hứa hẹn tốt đẹp về quốc gia ông với nhiều thính giả có vẻ còn hoài nghi.
    Bốn tháng sau đó, giấc mơ lớn nhất của Hun Sen đã trở thành hiện thực đúng như ông mong muốn: Campuchia gia nhập Asean ngày 30-4-1999 ở Hà Nội. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Campuchia Hor Nam Hong và chín bộ trưởng ngoại giao Asean khác đã ký một bản tuyên bố chính thức kết nạp Campuchia. Và điều quan trọng nữa là Campuchia có thể lấy lại được chiếc ghế của họ tại Liên Hiệp Quốc - một chỗ còn để trống từ tháng 7-1997 khi xảy ra binh biến ở Phnom Penh. Đối với Hun Sen, đó là một thắng lợi cơ bản sau cuộc tìm kiếm tư cách chính trị hợp pháp kéo dài mà lắm lúc đã cảm thấy thất vọng.

    [​IMG]
    Thủ tướng Hun Sen cấy lúa cùng dân trên cánh đồng ở huyện Samrong Toug, tỉnh Kampong Speu hôm 6-8-2008
    Giấc mơ hòa bình và thịnh vượng
    Song nhiều nước phương Tây tỏ ra không khoan dung với Hun Sen. Họ muốn ông trở thành người theo chế độ dân chủ ôn hòa. Hun Sen không nhịn được kiểu lên mặt dạy đời của một số nước phương Tây. Ông biết chuyện gán ghép một chế độ theo kiểu Mỹ ở một nước châu Á đang hết sức bất ổn, bên cạnh bờ vực của tình trạng hỗn loạn, nơi mà cuộc nội chiến vẫn còn bốc cháy âm ỉ như Campuchia sẽ là một điều sai lầm. Điều đó không thể áp dụng ở Campuchia. Hun Sen đã chấp nhận thử thách. Ông nói: “Tôi muốn trở thành một nhân vật có thế lực và làm được điều gì đó cho đất nước tôi”.
    Những lời nói đó là tính cách tiêu biểu cho dòng dõi tộc trưởng. Nhưng Hun Sen không phải là nhân vật có thế lực từ dòng dõi tộc trưởng tiêu biểu. Ông muốn quyền lực, thậm chí đã khao khát điều đó giống như bất cứ chính trị gia nào khác. Ông đã hằng ngày hô hào đến kiệt sức, nói chuyện với đông đảo người dân ở các tỉnh mà họ còn mập mờ chưa hiểu rõ cho tới khi mất cả giọng. Ông đã cố tranh thủ sự ủng hộ của cử tri bằng những lời hứa hẹn và thật sự đem lại cho họ một số những điều ấy, xây dựng trường học, đường sá và các kênh mương tưới tiêu ở khắp nước. Ông đã trở lại với những người đã bỏ phiếu cho ông và mang lại những thứ họ cần - trường học, hệ thống kênh mương thủy lợi. Ông chuyện trò với họ, hút chung một điếu thuốc và họ đã đáp lại tình cảm của ông.
    Một lần trước đây người dân Campuchia đã liều lĩnh đặt tương lai của họ vào bàn tay của một người đã giải thoát họ khỏi Khơme Đỏ. Thêm một lần nữa, các kết quả của cuộc bầu cử năm 1998 cho thấy dân chúng sẵn sàng liều thêm một lần nữa: đặt ông lên làm nhà lãnh đạo tương lai của họ. Đó chính là cơ hội mà ông đã chờ đợi. Dân chúng Campuchia đang đặt ra các câu hỏi sâu sắc: Tương lai Campuchia dưới trào Hun Sen sẽ như thế nào? Ông có thể cải tổ lại chính phủ để chấm dứt tham nhũng và làn sóng bạo lực dâng cao không? Với thắng lợi trong cuộc bầu cử tiếp theo vào năm 2003, một lần nữa người dân đã đặt niềm tin vào ông.
    Vào giữa năm 1999, ông đã cảnh báo với các đảng viên của mình là hãy dẹp bỏ hành động tham nhũng và hành vi thiếu đạo lý. Tại một đại hội đảng được giữ kín gồm 200 đại biểu, Hun Sen nói: “Nếu bất cứ viên chức nào phạm phải hành vi sai trái, họ sẽ bị thay thế, nếu không sẽ bị sa thải”. Chiến lược toàn diện của ông xoay quanh sự ăn khớp của ba yếu tố - sự ổn định chính trị, nguồn viện trợ và sự đầu tư nước ngoài. Với các nguồn viện trợ lớn cho Campuchia, điều đó xem ra quốc gia của ông sẽ nhận được hàng tỉ đôla tài trợ cần thiết để xây dựng đường sá, cầu cống và phi trường. Với sự ổn định chính trị và cơ sở hạ tầng vật chất thích đáng, vấn đề chỉ còn là thời gian trước khi nguồn vốn đầu tư của các công ty tuôn vào để tạo ra việc làm và đưa người dân Campuchia đến gần hơn với giấc mơ hòa bình và thịnh vượng.
    Có lần Hun Sen đã nói với chúng tôi: “Tôi muốn xây dựng nền kinh tế của chúng tôi giống như các nhân vật xuất chúng khác ở Đông Nam Á đã làm”. Ông muốn biến Campuchia thành một con hổ kinh tế châu Á khác. Nhân dân Campuchia còn tạo cho ông thêm cơ hội để thực hiện lời hứa của mình.


    HARISH & JULIE MEHTA
    LÊ MINH CẨN dịch
  10. vethoi1

    vethoi1 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    07/10/2008
    Đã được thích:
    0
    Em phải khẳng định rằng em rất ghét Trung Quốc và em cũng đã đi qua rất rất nhiều thành phố của Trung Quốc nên em hiểu phần nào thiên nhiên con người của họ. Nhưng nói gì thì nói dân nghèo Việt Nam phải cảm ơn Trung Quốc vì các lý do sau:
    -Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước mỗi mùa hè đến là nỗi kinh hoàng vì chúng ta phải dùng quạt nan đan bằng cây giang, Trung Quốc đã bán cho ta Quạt MD dân nghèo mua được mà dùng.
    -Chắc các bác sinh ở những năm 7x còn nhớ đài tầu không nhỉ không có nó mình có đài mà nghe không?
    -Rôi xe máy không có xe máy tàu tràn vào thì không khéo con xe Dream II bây giờ vẫn là giấc mơ với người việt.
    - Rồi các loại xe tải cửu Long, Trường Giang Đông Phong không có nó dân nghèo mình tiền đâu mà mua nhưng con Huyndai 2 tỷ mà đi chở hàng kiểm sống. Có xe tải tầu vào mình mua về đi trở hàng thuê cuộc sống cũng đỡ đi phần nào.....
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này