Quyết tâm cao nhất bảo vệ lãnh thổ , hải đảo - tập 14

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi phuongxa20, 22/12/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
2698 người đang online, trong đó có 27 thành viên. 04:54 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
Chủ đề này đã có 10242 lượt đọc và 263 bài trả lời
  1. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Phân tích, Việt Nam biển Đông và Ấn ĐộDec 22, '11 6:35 PM
    for everyone
    [​IMG] Công ty ONGC Videsh (OVL) Ấn Độ vào tháng Mười năm nay bước vào một hợp đồng ba năm với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam để thực hiện đầu tư mới và tăng cường khai thác năng lượng. Khu vực này nằm trong vùng kinh tế độc quyền của Việt Nam và là vùng biển phía Nam Trung Quốc (biển Đông). Tuy nhiên, Trung Quốc đã phản đối thỏa thuận này (giữa OVL và Dầu khí Việt Nam) trên cơ sở rằng Ấn Độ đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Điều gì là có khả năng xảy ra phản ứng của Việt Nam thế nào nếu có hành động khiêu khích của Trung Quốc?


    Sự căng thẳng ngày càng tăng và có khả năng của cuộc xung đột ở biển Đông, kịch bản của chiến tranh sẽ có thể được tưởng tượng. Trong một sự kiện như vậy, Việt Nam sẽ bảo vệ OVL và đứng về phía Ấn Độ?


    Kịch Bản I: Việt Nam Ủng Hộ Ấn Độ

    Những lý do cho điều này có thể là: các yếu tố khu vực


    Việt Nam đã kịch liệt bác bỏ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông. Tranh chấp biển Đông có các bên liên quan một số khu vực và quốc tế. Các bên tranh chấp nhất trí đứng về phía chống lại Trung Quốc về vấn đề này. Đứng trong khu vực này và thực hiện sự Việt Nam để khẳng định mình chống lại Trung Quốc. Điều đó ngoài, Mỹ đã tuyên bố để duy trì quyền của mình để điều hướng trong SCS. Mỹ ở châu Á là nhân tố quan trọng nhất vì nó cung cấp một sự cân bằng hiệu quả đối với Trung Quốc. Như vậy lập trường khu vực và quốc tế đồng thuận chống lại sự khẳng định của Trung Quốc có thể thấy Việt Nam có một lập trường táo bạo trong vấn đề này.


    Yếu tố song phương


    Ấn Độ và Việt Nam đã truyền sức sống mới vào mối quan hệ của họ thông qua Hiệp định đối tác chiến lược trong năm 2007 . Việt Nam coi Ấn Độ như là một đồng minh đáng tin cậy mà không có một hoài nghi, trái ngược về việc nghi ngờ và động cơ của Trung Quốc. Việt Nam và Ấn Độ chia sẻ mối quan hệ dài lịch sử, cả hai đều có tranh chấp biên giới với Trung Quốc, và đã bị xâm lược bởi Trung Quốc . Các mối quan hệ song phương đang tìm kiếm cả chiểu sâu và chiều rộng nhấn mạnh vào những đặc tính chung trên. Đáng chú ý, Ấn Độ đang cung cấp sự hỗ trợ cho Việt Nam trong việc tăng cường khả năng hải quân.


    Theo thỏa thuận năm 2006, thỏa thuận OVL-Dầu khí Việt Nam (trong đó PetroVietnam nắm giữ 20% cổ phần) cũng cho phép công ty thăm dò và sản xuất xuất khẩu và chia sẻ trong các lô 127 và 128 trong lưu vực Phú Khánh, và các lô 06,1 ở mỏ khí Lan Tây và Lan. Tìm kiếm tăng cường đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đặc biệt là xem xét việc hợp tác với một OVL là bước quan trọng trong việc khắc phục tình trạng thiếu năng lượng của đất nước này. Đáng chú ý, nhiều công ty Ấn Độ đang quan tâm đầu tư tại Việt Nam, một số đã đi vào hoạt động. Thương mại song phương là gần 2.75 tỷ USD, hai bên đặt mục tiêu tăng gấp bốn lần vào năm 2015. Việt Nam mong muốn được hưởng lợi từ chương trình giáo dục Ấn Độ và phát triển trong lĩnh vực CNTT. Giữ vững và phát triển quan hệ với những lợi ích toàn diện và gia tăng sự tham gia của Ấn Độ, và giới thiệu hình ảnh của mình với thế giới như một thị trường thuận lợi cho sự tăng trưởng và môi trường an toàn, Việt Nam sẽ bảo vệ OVL một cách phù hợp.


    Kịch Bản II: Việt Nam đứng với Trung Quốc


    Những lý do cho điều này có thể là: Mối quan hệ với Trung Quốc và Việt Nam chia sẻ một lịch sử chung đã hơn ngàn năm. Không phân biệt tình trạng thù địch lịch sử và tình trạng hiện tại trong mối quan hệ của họ, Việt Nam muốn theo đuổi mối quan hệ tốt với Trung Quốc . Việt Nam đã luôn luôn cân bằng mối quan hệ với Ấn Độ và Trung Quốc . Trong chuyến thăm gần đây của Chủ tịch Việt Nam sang Ấn Độ trong tháng 10 năm 2011, một đại diện của ********************** thăm Trung Quốc và nhất trí tăng cường hợp tác quân sự. Nếu Việt Nam với mong muốn thực tế và nghĩ về lợi ích lâu dài, họ sẽ không muốn phải chịu cơn thịnh nộ của một nước hàng xóm tháo vát và mạnh mẽ, nước mà họ có chung đường biên giới.




    Tuy nhiên ít có khả năng quan hệ của Việt Nam với Ấn Độ sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ với Trung Quốc. Nếu đánh giá về các cam kết kinh tế song phương, đầu tư của Ấn Độ không phù hợp với các khoản đầu tư lớn tại Việt Nam của Trung Quốc. Trong số 73 nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Ấn Độ chỉ đứng thứ 35; thương mại song phương trong năm 2011 dự kiến ​​sẽ vượt quá 3 tỷ USD. Trung Quốc là nước mà Việt Nam nhập khẩu lớn nhất và xuất khẩu lớn thứ ba, với một khối lượng thương mại song phương trị giá hơn 7.9 tỷ USD. Tương lai có thể đạt 25 tỷ USD, trong khi thương mại Ấn Độ-Việt Nam mong muốn đạt 7 tỷ USD vào năm 2015. Nếu người Trung Quốc đóng cửa thương mại và sự tham gia của họ từ Việt Nam (như một biện pháp trừng phạt / hậu quả của cuộc xung đột), Ấn Độ có thể cung cấp một vị trí thay thế bằng?


    Kịch Bản III: Những Gì Có Thể Nhất?


    Nếu một quốc gia tham gia việc bảo vệ tài sản của một quốc gia khác trong phạm vi lãnh thổ của mình, các chi phí và lợi ích đáng kể là về quy mô và quan trọng trong nhân vật chính. Mặc dù Việt Nam gần đây đã bắt đầu mở rộng lực lượng vũ trang của họ, nhưng họ sẽ không tìm kiếm một cuộc đối đầu vũ trang với Trung Quốc. Trong trường hợp có chiến tranh, Việt Nam sẽ giống như bất kỳ quốc gia nào khác, bảo vệ lãnh thổ của mình và sẽ làm tất cả mọi thứ để bảo vệ lợi ích trước nhất. Cụ thể, bảo vệ tài sản của một công ty nước ngoài sẽ không được ưu tiên. Thay vào đó, họ có thể tìm kiếm sự hỗ trợ quân sự từ các quốc gia liên quan. Cũng quan trọng như quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ có thể được, duy trì mối quan hệ thân mật với Trung Quốc cũng sẽ được nghiêm túc xem xét. Nếu Việt Nam bảo vệ OVL, họ sẽ phải nghiêm túc xem xét lý do tại sao, những lợi ích gì cho mình? "


    Hành vi của Việt Nam có thể được hiểu từ trường hợp của Tata Steel và ******* Plastics của Đài Loan. Nếu một lần để đánh giá Việt Nam từ điều này, họ là điều hiển nhiên rằng lợi ích của Trung Quốc sẽ được ưu tiên. Các vận động hành lang ủng hộ Trung Quốc mạnh mẽ thực hiện trong chính phủ Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ chơi với Ấn Độ khi họ muốn đối đầu với Trung Quốc, có vẻ như trường hợp này đang diễn ra.


    Để kết luận, Việt Nam sẽ âm thầm hỗ trợ vị trí của Ấn Độ trong SCS. Vì lợi ích của mối quan hệ với Ấn Độ, tuy nhiên Việt Nam có thể cũng hỗ trợ Ấn Độ nếu các lực lượng Ấn Độ tham gia...


    [SIZE=+0][SIZE=+0]Amruta Karambelkar - [/SIZE]eurasiareview.com[/SIZE]
  2. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118
    Cười nhăn nhở đi ! Cái mặt chống phá chế độ đã lộ ra rồi , có thấy ai vote cho mày nữa không , ngoại trừ mấy thằng cùng một giuộc với mày !

    Cái thông minh nhất của mày là khi mày lộ mặt cùng phe với lekien đấy !

    Đừng tưởng không ai biết cái đuôi VT trong nick gialongVT là Việt Tân !

    Và nền vàng chữ đỏ nghĩa là gì , nếu không là vẫn nuối tiếc cờ vàng ba que xỏ lá !

    Há há há !!!

    :)):))
    :)):)):)):)):)):)):)):))
  3. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Cuộc chơi vũ khí 2011: Chiến hạm lên ngôi
    [​IMG]
    (Toquoc)-Châu Á- Thái Bình Dương bước vào thời đại hải quân, chạy đua hiện đại hóa tàu ngầm, tàu tàng hình và tàu ngầm không người lái, cạnh tranh Mỹ-Trung chủ đạo.
    Về mặt quân sự, 2011 là năm hải quân lên ngôi. Châu Á-Thái Bình Dương bước vào thời đại hải quân. Ngoại giao pháo hạm diễn ra ở khắp các vùng biển Đông Á. Hầu hết các nước có biển đều mua sắm tàu chiến, theo đuổi hiện đại hóa hải quân. Mỹ và Trung Quốc chủ đạo cuộc cạnh tranh hải quân. Trong quá trình này, các nước ven biển không chỉ đóng hoặc mua sắm tàu lớn, trang bị mạnh, đa tính năng, mà còn chú trọng trang bị các loại tàu thông thường phù hợp với các chức năng khác nhau của phòng ngự bờ biển: Tàu lặn, tàu ngầm cỡ nhỏ, tàu ngầm không người lái...
    Tàu ngầm nhỏ nhưng có tác dụng không nhỏ: để đối phó với tàu ngầm đối phương xâm nhập hải phận quốc gia hoặc bảo vệ các trọng điểm kinh tế, quốc phòng. Tàu ngầm không người lái sẽ trở nên phổ biến. Thậm chí, có loại được sản xuất để thả vào những điểm xung yếu dưới biển (kể cả biển đối phương), sẽ được kích hoạt vào thời điểm cần thiết... Các loại vũ khi này sẽ được chú ý phát triển trong thời đại hải quân lên ngôi.

    Mỹ tạo thế trận liên hoàn hải quân
    Mỹ thực hiện sự chuyển dịch lớn trong chiến lược quân sự kể từ sau chiến tranh lạnh. Chiến lược năm 2011 phản ánh xu hướng chuyển mạnh trọng tâm sang châu Á-Thái Bình Dương – “chìa khóa cho các lợi ích an ninh của Mỹ trong thế kỷ 21”, như lời tân Bộ trưởng Quốc phòngLeone Panetta. Mặc dù ngân sách hàng năm của hải quân có thể bị cắt giảm 4,5%, nhưng Mỹxây dựng một kế hoạch nghiên cứu và phát triển hải quân toàn diện để khai thác những tiến bộ công nghệ như các máy bay không người lái, tàu ngầm không người lái và hệ thống không gian vũ trụ...
    [​IMG]
    Changi - căn cứ hải quân Singapore, trở thành một trong các cứ điểm tiền tiêu chiến lược của hải quân Mỹ
    Đối với quân đội Mỹ, thời kỳ mua sắm vũ khí khổng lồ sau sự kiện 11/9 đã kết thúc. Hải quân Mỹbị xem là mua quá nhiều vũ khí trang bị đắt tiền như tàu khu trục trị giá từ 3-6 tỷ USD, tàu ngầm 7 tỷ USD và tàu sân bay 11 tỷ USD, mà chưa quan tâm thích đáng tới các loại vũ khí ít tốn kém hơn và tàu ngầm không người lái và tàu chiến nhỏ hoạt động ven bờ. Lực lượng hải quân Mỹ có 284 tàu chiến, có thể cắt giảm xuống còn 215 tàu trong tương lai gần, duy trì nhóm 11 tàu sân bay. Dù khó khăn tài chính, vai trò hải quân Mỹ ngày càng tăng chứ không giảm.
    Hải quân Mỹ hiện có số tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân nhiều hơn tất cả các nước trên thế giới cộng lại. Số lượng tên lửa phóng từ biển của Mỹ hiện gấp 20 lần số tên lửa của tất cả các cường quốc hải quân trên thế giới. Trong điều kiện mới, hải quân Mỹ sẽ phải tái điều chỉnh để duy trì các cam kết của mình, phần nào thông qua việc triển khai các tàu chiến và thủy thủ đoàn ở các cảng gần các “điểm yết hầu” chiến lược thay vì ở Mỹ. Hạm đội 7 có 21 tàu chiến đang đồn trú tại Nhật Bản và trên đảo Guam, cùng tàu sân bay USS George Washington, vẫn là một lực lượng tác chiến hùng hậu.
    Mỹ bắt đầu chuyển dịch từng bước 2/3 binh lực và trang bị vũ khí đến các khu vực yếu điểm địa chiến lược tại châu Á, trong đó lấy Hawaii và đảo Guam làm trung tâm. Mới đây nhất, Mỹ quyết định triển khai 2.500 thủy quân lục chiến tại Australia, tăng cường quan hệ quân sự với các đồng minh ở châu Á là Nhật Bản, Philippines... Ấn Độ là một đối tác chiến lược tiềm tàng quan trọng nhất trong chiến lược Mặt nước Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ.
    Tư lệnh Tác chiến của Hải quân Mỹ, Đô đốc Jonathan Greenert mới đây cho biết hải quân Mỹ sẽ tăng cường chú trọng tới “các giao lộ hàng hải chiến lược” ở châu Á-Thái Bình Dương và có kế hoạch “đưa một số tàu chiến bảo vệ bờ biển mới nhất tới đóng tại cơ sở hải quân của Singapore... Điều này sẽ giúp hải quân (Mỹ) duy trì vị thế tiền tiêu trên toàn cầu với số lượng tàu chiến và máy bay nhỏ hơn so với hiện nay”.
    Những hành động này là nhằm xây dựng lại sức mạnh răn đe đối với Trung Quốc. Những lực lượng nhỏ đóng rải ra ở nhiều địa điểm trọng yếu sẽ phân tán sự chú ý và tiềm lực hải quân Trung Quốc.
    Trung Quốc trên đường xây dựng hải quân cường quốc
    Với sự tự tin và ngày càng quyết đoán, hải quân Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh đại dương, từ các cảng dầu lửa ở Trung Đông cho đến những tuyến đường hàng hải của Thái Bình Dương, được gọi là chiến lược “phòng thủ biển xa”. Tốc độ xây dựng nhanh mạnh năng lực “biển xanh” đã vượt xa mọi sự tiên liệu của giới quan sát quốc tế.
    Trung Quốc đã thay đổi “ý thức lục địa” bao thế kỷ để đạt tới nhận thức mạnh mẽ rằng hải dương chính là mặt trận tiền tiêu cuối cùng của họ. Chiến lược mới tạo ra bước đột phá so với học thuyết hẹp đối phó với Đài Loan và bảo vệ vùng duyên hải trước đây. Các đô đốc hải quân Trung Quốc muốn các chiến hạm hộ tống các tàu thương, tạo ảnh hưởng lớn trên biển và áp đặt điều mà họ cho là “các lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc ở Nam Hải (Biển Đông) và Hoa Đông.
    Tạp chí Thời đại (Mỹ) nhận xét: Sự trỗi dậy của hải quân Trung Quốc có thể so sánh với Hải quân Hoàng gia Anh thời kỳ Nữ Hoàng Victoria và Hải quân Mỹ thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hiện tại sức mạnh hải quân của Trung Quốc vẫn chỉ ở tầm khu vực, nhưng đến một thời điểm nào đó sẽ thay đổi hẳn tình thế.
    [​IMG]
    Sơ đồ tác chiến của hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion - P thuộc lực lượng hải quân Việt Nam
    Một nhân tố của chiến lược mới của hải quân Trung Quốc là mở rộng phạm vi tác chiến ra xa ngoài khơi Biển Đông tới khu vực “chuỗi đảo thứ hai”, gồm các hòn đảo và đá san hô ở Thái Bình Dương, vùng biển từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai do hải quân Mỹ kiểm soát. Hải quân Trung Quốc tiếp tục tiến sát vùng đảo tranh chấp với Nhật Bản; các đội tàu hỗn hợp gồm tàu ngầm và tàu khu trục cũng tăng tần suất qua lại các đảo của Nhật Bản trên đường tới Thái Bình Dương. Số lượng tàu ngầm hạm đội Đông Hải đã xấp xỉ số tàu ngầm mà Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản hiện có. Nhật Bản đã phải gấp rút quyết định bổ sung 6 tàu ngầm lên 22 chiếc cùng với 2 chiếc tàu ngầm huấn luyện.
    Theo các số liệu từ năm 2009, lực lượng hải quân của Trung Quốc có khoảng 260 tàu chiến, trong đó có hơn 60 tàu ngầm, trong đó có 12 chiếc lớp Kilo đời cũ. Nhưng việc hải quân Trung Quốc nhận được hơn 1/3 tổng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc (Lầu Năm Góc ước tính Ngân sách quốc phòng tài khóa 2010 khoảng 105-150 tỷ USD), có thể thấy hải quân Trung Quốc chú trọng nâng cao chất lượng hải quân của họ. Bên cạnh đó, Trung Quốc xây dựng các lực lượng dân sự, cảnh sát biển bán vũ trang để làm nhiệm vụ “chấp pháp” biển, như Lực lượng thực thi luật ngư nghiệp, Lực lượng hải giám, Lực lượng bảo vệ bờ biển.
    Trong tương lai không xa, tàu chiến mới chế tạo chắc chắn tính năng tàng hình sẽ hoàn thiện hơn, từ tàng hình cục bộ từng bước phát triển thành tàng hình toàn diện. Chức năng tàu chiến cũng sẽ được đa dạng hóa, đảm nhận các nhiệm vụ chống hạm, phòng không, chống ngầm và tấn công đất liền. Hiện đại hóa cũng đề ra nhiệm vụ tin học hóa và chính xác hóa hệ thống vũ khí.
    Ngoài tàu sân bay Thi Lang đưa vào hoạt động thời gian gần đây, Trung Quốc khẩn trương đóng mới 2 tàu sân bay để có thể hạ thủy giữa thập kỷ này. Trung Quốc còn chú trọng phát triển tàu ngầm do thám âm thầm, là điều quan trọng nhất đối với tàu ngầm, và đến một thời điểm nào đó, Trung Quốc sẽ đạt trình độ cao trên lĩnh vực này.
    Hoạt động hải quân của Trung Quốc vừa qua tập trung vào ba mũi nhọn: Trở thành một lực lượng răn đe trong khu vực, thu lượm những kinh nghiệm tác chiến và thúc đẩy hợp tác hải quân có chọn lọc. Ngày 6/12/2011, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh “Trung Quốc phải đẩy nhanh thúc đẩy xây dựng chuyển đổi hải quân” và “sẵn sàng đấu tranh quân sự”.
    Hải quân Trung Quốc sẽ sớm có hạm đội tàu ngầm đông đảo hơn cả hải quân Mỹ, song các tàu ngầm Trung Quốc bị cho là kém hiện đại, tụt hậu về khả năng hoạt động âm thầm không chỉ so với Mỹ mà còn so với tàu ngầm Nga, Nhật Bản. Trung Quốc tiếp tục chế tạo tàu ngầm hạt nhân “mẫu 096” với số lượng trên 10 chiếc, trong đó trang bị tên lửa Cự Lang-2 hoặc các loại tên lửa xuyên lục địa tiên tiến. Trung Quốc có thể đạt được những tiến bộ trong lĩnh vực tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân. Các tàu này ngày càng xuất hiện nhiều tại Tây Thái Bình Dương.
    [​IMG]
    Tàu ngầm cỡ nhỏ của hải quân Trung Quốc để do thám và có thể thực hiện các cuộc tập kích hoặc phá các dàn khoan dầu ngoài khơi của đối phương
    Hiện nay, Hải quân Trung Quốc đứng thứ ba thế giới về tổng lượng trọng tải của tàu chiến, nhưng trọng tải bình quân của mỗi đơn vị tàu chiến không lớn. Tàu khu trục “Giang Nam- 4” do Trung Quốc tự chế tạo trọng tải thiết kế là 7.000 tấn. Còn 4 tàu khu trục thế hệ mới, được mệnh danh là “Chinese Aegis” mà Trung Quốc đang nghiên cứu chế tạo trọng tải chắc chắn sẽ lớn hơn, có thể là tàu khu trục tên lửa cỡ lớn với lượng giãn nước trên 10.000 tấn. Về tàu hộ vệ tên lửa, hiện nay Hải quân Trung Quốc đã được trang bị tàu thế hệ mới có lượng giãn nước đủ tải là 4.500 tấn. Tàu đổ bộ cỡ lớn “Côn Lôn Sơn- 998” loại “071” mới nhất của Hải quân Trung Quốc có lượng giãn nước đạt gần 20.000 tấn, hay tàu bệnh viện loại mới nhất cũng có lượng giãn nước trên 10.000 tấn và lượng giãn nước của tàu tiếp tế hậu cần viễn dương cỡ lớn “Vi Sơn Hồ- 887” đạt gần 30.000 tấn...
    Tại vùng biển Tây Thái Bình Dương, hải quân Mỹ vẫn chiếm ưu thế về chất lượng. Trung Quốc vẫn còn một quãng đường dài mới có thể có một lực lượng hải quân đủ năng lực trở thành một cường quốc hải quân (kế hoạch là tới năm 2050). Song phát triển hải quân sẽ tiếp tục là ưu tiên hàng đầu trong chính sách quốc phòng Trung Quốc. Một khi Trung Quốc có các tổ hợp tàu sân bay, tình hình sẽ thay đổi, phần lợi thế sẽ nghiêng về Trung Quốc.
    Để bảo đảm duy trì tương quan lực lượng hải quân tại châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ đang chú trọng thúc đẩy các quốc gia đồng minh hiện đại hóa lực lượng hải quân của mình. Những năm tới, cuộc chạy đua hiện đại hóa hải quân ở khu vực rộng lớn này chỉ có tăng chứ không giảm, tuy chưa đến mức tạo ra cuộc chạy đua vũ trang trên biển theo nghĩa cổ điển Chiến tranh lạnh./.


    Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Trường
  4. ptkh

    ptkh Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/12/2004
    Đã được thích:
    83

    Anh @TD anh ráng nhịn, đừng thèm đọc bài của nó, em cũng đã bấm nút báo vi phạm tới Mod rồi, yên chí đi, Mod sẽ xử lý anh ạ, tội bè lũ với CHHV thì dây vạ cho cả diễn đàn đấy![};-
  5. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    GS. Kuan-Hsiung Wang, Giải pháp cho tranh chấp nghề cá ở Biển Đông thông qua hợp tác và quản lý khu vực

    Trước sự phức tạp của tranh chấp Biển Đông, tác giả cho rằng hợp tác là một trong các giải pháp góp phần giải quyết tranh chấp. Nhằm thúc đẩy hợp tác tại khu vực Biển Đông, tác giả đề xuất có thể bắt đầu bằng việc bảo tồn và quản lý tài nguyên cá và cần phải được thực hiện theo một cơ chế thống nhất ở các cấp quốc gia, khu vực và quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả. Bài viết này đưa ra kết luận về sự cần thiết của tổ chức quản lý nghề cá khu vực (RFMO) trong việc bảo tồn và quản lý các tài nguyên nghề cá trên Biển Đông. Hơn nữa, mô hình này có thể góp phần giải quyết tranh chấp trên Biển Đông.

    [​IMG]


    TÓM TẮT

    Tranh chấp Biển Đông có tính chất rất phức tạp, nơi mà các vấn đề chủ quyền đối với các điểm đảo, việc phân giới, sử dụng tài nguyên, và các vấn đề khác liên quan tới an ninh truyền thống hoặc phi truyền thống đều đan xen lẫn nhau. Hợp tác là một trong các giải pháp chính được nêu ra để giải quyết tranh chấp, tuy nhiên giải pháp này vẫn chưa được hiện thực hóa.
    Sự phát triển của toàn cầu hóa đã trở thành một hiện tượng quan trọng trong xã hội quốc tế hiện đại. Hiện tượng này được thể hiện qua việc các yếu tố sản xuất của nền kinh tế phát triển với tốc độ và quy mô chưa từng có trên phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hóa phản ánh thực tế các thành viên của cộng đồng quốc tế trở nên phụ thuộc lẫn nhau, đặc biệt trong một số lĩnh vực vấn đề cụ thể như phát triển các tổ chức quốc tế, thương mại quốc tế đối với sản phẩm nghề cá cũng như các vấn đề môi trường.
    Để giái quyết tranh chấp và thúc đẩy hợp tác trong khu vực Biển Đông, tác giả đề xuất có thể bắt đầu bằng việc bảo tồn và quản lý tài nguyên cá. Có nhiều phương tiện, cơ chế và công cụ quốc tế quản lý như công ước, hiệp định và thỏa thuận đã được xây dựng để bảo vệ nguồn tài nguyên cá. Tuy nhiên các phương tiện chính sách này cần được thực hiện theo một cơ chế thống nhất ở các cấp quốc gia, khu vực và quốc tế để có thể đạt được các mục tiêu chính sách.

    Trong một cơ chế được tổ chức chặt chẽ, các yếu tố sau là cần thiết cho việc thực hiện quản lý biển: thống nhất quy định pháp luật về nghề cá và bảo vệ môi trường giữa các bên liên quan; minh bạch trong chính sách biển quốc gia là một thành tố quan trọng trong quá trình ra quyết định của các chính phủ có liên quan; hợp tác giữa các quốc gia khu vực trong các lĩnh vực liên quan, và đóng góp của các tổ chức quản lý nghề cá trong vùng. Bài viết này đưa ra kết luận về sự cần thiết của tổ chức quản lý nghề cá khu vực (RFMO) trong việc bảo tồn và quản lý các tài nguyên nghề cá trên Biển Đông. Hơn nữa, mô hình này có thể góp phần giải quyết tranh chấp trên Biển Đông.

    Từ khóa: Biển Đông, bảo vệ nguồn lợi cá, bảo vệ môi trường, tổ chức quản lý nghề cá khu vực (RFMO), quản lý biển
    Giới thiệu
    Các tranh chấp trên Biển Đông có thể được phân thành hai loại: một là các tranh chấp về chủ quyền của các điểm đảo, và hai là tranh chấp các vùng biển. Có thể dễ dàng thấy rằng cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp là tiến hành phân giới để xác định khu vực có chủ quyền và quyền tài phán. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể làm được như vậy. Nguyên nhân chủ yếu là quá trình đàm phán và chấp nhận phân giới biển giữa các quốc gia thường tập trung vào các tính toán chính trị và không có quy định pháp luật vững chắc nào cho việc phân giới. Mặc dù một “giải pháp công bằng” được công nhận là một trong các nguyên tắc quan trọng nhất trong phân giới, nhưng không có chi tiết cụ thể nào được đưa ra bất chấp việc các yếu tố địa lý và địa chất, chiều dài đường bờ biển, các hoạt động đánh cá truyền thống và tác động tương đối tới và sự phụ thuộc kinh tế được coi là các nhân tố được xem xét trong các trường hợp khác nhau.
    Trong các trường hợp này, phát triển chung sẽ được coi là một cách giải quyết tranh chấp. Theo Điều 74(3) và Điều 83(3) của Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS),[1] đều nêu thuật ngữ “các dàn xếp tạm thời” trong bối cảnh trước khi các đường biên giới được phân định chính xác. Thuật ngữ “dàn xếp tạm thời” có thể được hiểu là “hợp tác chung” và đây là thuật ngữ thông dụng đã được các nhà lãnh đạo của các bên tranh chấp ở Biển Đông trích dẫn nhiều. Tuy nhiên, không có hành động thực tế nào được hiện thực hóa. Nguyên nhân có thể là do thiếu ý chí chính trị.
    Sẽ không khó để xác định các cơ hội hợp tác chung trong khu vực Biển Đông. Tập trận chung, phát triển chung các tài nguyên hydrocarbon, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường biển và hợp tác nghề cá là các phương thức hợp tác có thể thực hiện. Cho tới nay, các tranh luận về tài nguyên hydrocarbon có thể khai thác và các hành động bảo tồn và quản lý tài nguyên cá đã bị trì hoãn. Tuy nhiên việc bảo vệ và quản lý tài nguyên cá có thể là bước khởi đầu cho hợp tác trong khu vực và có thể có “tác động lan truyền” tới các lĩnh vực hợp tác khác.
    Ở phương diện này, hợp tác nhằm quản lý và bảo tồn tài nguyên cá có vai trò đặc biệt quan trọng bởi cá là loài di cư, và một số loài trong số đó thậm chí còn là loài di cư thường xuyên. Tuy nhiên, việc đánh bắt cá quá mức là một vấn đề nghiêm trọng và cấp thiết trong khu vực. Về vấn đề này, đường biên giới biển không thể bảo vệ hoàn toàn nguồn tài nguyên cá của một quốc gia khỏi xâm phạm, bởi tài nguyên cá có thể di cư ra ngoài khu vực có quyền tài phán của quốc gia, và đánh bắt cá quá mức ngoài biên giới cũng có thể có tác động lớn tới nguồn lợi cá trong biên giới lãnh thổ.
    Chính vì vậy, một cơ chế quản lý phù hợp, tuân theo các điều kiện tự nhiên, là cần thiết cho các quốc gia ven biển để duy trì nguồn cá ở mức bền vững. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia ven biển xung quanh Biển Đông. Do đây là một khu vực nửa kín,[2] bất cứ thay đổi nào trong việc hoạch định chính sách nghề cá có thể có tác động tới tài nguyên cá trong khu vực này.
    Đọc toàn bộ bản dịch tại đây
    GS. Kuan-Hsiung Wang, Giám đốc Viện Khoa học Chính trị Sau đại học,
    Đại học Sư phạm Quốc gia Đài Loan
  6. hoatimbanglang

    hoatimbanglang Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/03/2010
    Đã được thích:
    3.142
    Chào cả nhà!
    Chuyển nhà mà chẳng báo nhau một câu à, mà lại là quay về nhà cũ nữa?
    Đáng trách, đáng trách....
  7. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Chống bão ở Trường Sa Dec 23, '11 2:20 AM
    for everyone
    (HNM) - Lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là sóng gió, bão tố nơi hải đảo tiền tiêu. Có nằm trên tàu lênh đênh giữa biển khơi mênh mông, có tham gia chạy bão cùng với cán bộ, chiến sỹ và nhân dân huyện đảo Trường Sa, tôi mới thấm nỗi khó khăn vất vả và cả những mất mát, hy sinh mà thường ngày họ vẫn phải gồng mình chống chọi.

    Khi tôi viết bài này, hơn 50 đồng nghiệp của tôi cùng tham gia hải hành "mang quà Tết ra đảo Trường Sa" vẫn bị mắc kẹt ngoài khơi do ảnh hưởng của cơn bão số 7, vì sóng to, gió lớn mà tàu chưa thể cập bờ.

    Kinh hoàng bão biển

    Chúng tôi rời cảng Cam Ranh vào chiều muộn ngày 15-12-2011. Theo thông tin từ Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn, thời tiết khá thuận lợi để tàu nhổ neo. Cùng đi với đoàn công tác mang quà Tết ra đảo Trường Sa lần này có tới gần 100 nhà báo, chia đều sang 3 tàu mang ký hiệu: Trường Sa 22, HQ 996 và HQ 936. Tôi được Tư lệnh Vùng 4 hải quân "biên chế" đi theo tàu Trường Sa 22. Ngày đầu tiên sóng yên biển lặng, nhóm chúng tôi nói cười đắc ý: "Tưởng đi biển thế nào, hóa ra cũng thường thôi". Khoảng 19h ngày hôm sau, chúng tôi thấy thân tàu lắc lư, nghiêng bên trái rồi giật sang phải. Nhìn qua cửa kính, tôi thấy nước biển chỉ một màu đen kịt, sóng trùm lên hạ xuống không biết bao nhiêu lần. Được chừng nửa tiếng, tất cả nhóm phóng viên say sóng nằm bẹp xuống sàn. Đúng lúc này, chỉ huy tàu thông báo: "Thời tiết xấu, hiện đang có bão tại quần đảo Philippines. Mọi người hạn chế đi lại, cấm ra boong tàu nếu không có nhiệm vụ". Nghe hết thông báo, chúng tôi rụng rời chân tay. Hóa ra đi biển là thế, giông tố bão táp có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tôi lo lắng hỏi anh lính trẻ, cậu ta đáp: "Các anh cứ bình tĩnh. Đoàn trưởng tàu Trường Sa 22 là Thượng tá Nguyễn Hồng Quân rất dày dạn kinh nghiệm đi bão". Bất chợt tôi thấy tàu "cưỡi sóng" với tốc độ nhanh hơn. Sau một đêm vật lộn, chúng tôi say sóng đến mệt nhoài. Ơn trời, 10h ngày hôm sau, chiếc tàu đầu tiên của chúng tôi đã cập cảng Trường Sa Lớn an toàn.

    Thấy mình may mắn, chúng tôi lại nghĩ đến đoàn công tác cùng hơn 50 đồng nghiệp đi trên hai tàu HQ 996 và HQ 936. Vì đi theo hướng đảo khác nên khi gặp gió bão, hai tàu này không thể cập bờ, đành neo giữa biển. Gần 4 ngày chống chọi với mưa giông, lại chưa một lần đi biển, tôi biết nhiều đồng nghiệp đã lả đi vì mệt và say sóng. Cũng may trên tàu, các bạn được đội ngũ quân y chăm sóc và thuốc men chu đáo, nếu không, chắc chắn phải nằm bệt mất mấy ngày.

    [​IMG]Cán bộ, chiến sĩ Trạm Rada 11 hạ thấp rada về vị trí cơ động để tránh bão.Trường Sa chống bão

    Thấy anh em nhà báo có phần lo lắng, Thượng tá Đinh Văn Hải, Đảo trưởng kiêm Chủ tịch UBND thị trấn Trường Sa Lớn động viên: “Các nhà báo cứ yên tâm. Cơn bão số 7 lần này có đi qua Trường Sa nhưng chỉ ở cấp 6, cấp 7, nên mức độ ảnh hưởng vừa phải". Nói như vậy, không có nghĩa là chủ quan. Ngay sau khi nhận được thông tin từ Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn, chỉ huy đơn vị đã quán triệt nhiệm vụ đến từng cán bộ, chiến sỹ về phương án phòng, chống. Ngày đầu tiên đặt chân lên đảo, dù vẫn đang ngất ngây vì say sóng, tôi vội vã theo chân Đảo trưởng đi chống bão.

    Đã quá 12h trưa, Thiếu tá Nguyễn Mậu Thông, Trạm trưởng Trạm Rada 11 (Trung đoàn Rada 292, Sư đoàn Phòng không 377) vẫn tất bật, đôn đốc anh em làm nhiệm vụ hạ ăng ten rada về trạng thái cơ động. Áo ướt đẫm mồ hôi, khuôn mặt sạm đi vì bão cát, Thiếu tá Thông nói nhanh: Là đơn vị cơ yếu trong lĩnh vực bảo đảm tình báo rada và dẫn đường bổ trợ cho không quân biển xa nên việc chống bão phải được coi trọng hàng đầu. Chỉ cần sơ suất nhỏ khi bão vào, những thiệt hại về vũ khí, khí tài không thể tính bằng tiền. Tối qua, bão số 7 đi qua đảo Midanao (Philippines) sau đó "quần thảo" ở đảo Nam Yết cũng gây thiệt hại đáng kể. Để bảo đảm an toàn, tôi đã yêu cầu anh em hạ thấp độ cao "cánh sóng", đưa về trạng thái cơ động.

    Đang chuyện, tôi giật mình, ngẩng đầu lên nghe tiếng dội thình thịch trên nóc nhà. Anh Thông cười, đó là mấy anh em đang đặt bao tải cát để chặn nóc nhà. Gió ngoài đảo dữ dội gấp nhiều lần đất liền, sơ sảy chút, mái tôn văng xuống, gây thương tích cho cán bộ, chiến sỹ. Tôi hỏi chuyện hai hạ sỹ trắc thủ Bùi Duy Hợp và Lê Thanh Hải, cả hai chỉ cười và luôn miệng giục: Làm nhanh lên kẻo bão sắp về rồi.

    Không khí khẩn trương chống bão trùm lên toàn đơn vị. Từ đội công binh lo chuyện cắt cây tỉa cành, bộ phận nhà bếp đôn đáo chuẩn bị rau xanh, mấy anh binh nhất được giao nhiệm vụ chăn nuôi gia súc gia cầm cũng tất tả che chắn chuồng trại…

    Tất cả sẵn sàng, nín thở chờ bão đi qua.

    Những mất mát, hy sinh để giữ đảo

    Khi công việc chống bão đã hoàn tất, Thượng tá Phạm Quang Trung, Chính trị viên đảo Trường Sa Lớn cùng hơn chục cán bộ, chiến sỹ dẫn tôi ra phía bong ke nằm sát bờ biển. Chỗ này đây có hai nấm mộ mới được phủ bằng cát và đá san hô. Hôm nay, anh Trung thay mặt cán bộ, chiến sỹ và nhân dân trên đảo dâng nén nhang thơm, tưởng nhớ những người đồng đội của mình đã anh dũng hy sinh khi làm nhiệm vụ. Chính biển xanh hiền hòa nhưng có những lúc vô cùng hung dữ, đã cướp đi mạng sống của hai chiến sỹ đang độ tuổi đẹp nhất đời người.

    Ngày 21-3-2010, chiến sỹ Hoàng Văn Nghĩa, sinh năm 1989 (quê ở Nam Trực, Nam Định) thuộc đơn vị Khí tượng Hải văn Trường Sa được giao nhiệm vụ đi đo mực nước biển. Hôm ấy, trời quang mây tạnh, sóng yên biển lặng bất chợt nổi đóa bởi một cơn triều cường. Đang mải làm, Nghĩa không biết đằng sau lưng mình có một cơn sóng dữ. Chỉ trong tích tắc, đồng đội không thấy Nghĩa đâu nữa. Nhận được tin báo, chỉ huy đảo huy động toàn bộ lực lượng và nhân dân tham gia tìm kiếm nhưng vô vọng bởi lòng đại dương mênh mông, sâu thẳm. Khi mọi người đưa được Nghĩa lên bờ, em đã vĩnh viễn ra đi.

    Là chiến sỹ trẻ, thông minh, đẹp trai lại ngoan, hiền, lễ phép nên Lê Văn Tuấn được mọi người yêu quý. Vừa chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp của Lữ đoàn 146 Hải quân được ít ngày, Tuấn được kết nạp Đảng. Sức trẻ lại có nhiều tương lai, Tuấn tình nguyện ra công tác tại Ban Kỹ thuật của đảo Trường Sa Lớn. Ngày 26-10-2010, em được chỉ huy giao đi lắp đặt đệm va tại khu vực chân cầu cảng. Khi đang loay hoay với mấy chiếc đệm, sau lưng em có một trận cuồng phong, xoáy theo cát. Trở tay không kịp, Tuấn bị gió cuốn đập mạnh vào chân cầu cảng trước khi rơi xuống biển. Hai ngày liền, cả đảo buồn khóc. Lễ truy điệu em không sót một cán bộ, chiến sỹ và người dân nào trên đảo. Thậm chí, khi biết tin, những ngư dân đánh bắt gần đó cũng ghé tàu thắp nén nhang cầu mong linh hồn Tuấn được siêu thoát. Đó là cách để họ tưởng nhớ, biết ơn sự quả cảm, can trường của những người lính đảo đã hy sinh thân mình đang từng ngày bảo vệ, xây dựng biển đảo quê hương.

    Đêm nay, do ảnh hưởng hoàn lưu bão nên ngoài biển sóng vẫn thét gầm gào. Nằm trong phòng, nhóm phóng viên chúng tôi thầm cầu trời sớm mưa thuận gió hòa và mang bình yên đến với người lính và người dân trên đảo.

    Tống Ngọc Thanh
  8. phuongxa20

    phuongxa20 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    02/06/2005
    Đã được thích:
    226
    Chiến tranh Biển Ðông liệu có xảy ra? Dec 23, '11 1:57 AM
    for everyone
    WESTMINSTER - Mỹ vừa kỷ niệm 70 năm trận Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) - trận đánh diễn ra lúc 7:30 sáng, ngày 7 Tháng Mười Hai, 1941, làm chìm một số tàu của hạm đội Mỹ tại Thái Bình Dương.
    [​IMG]
    Trong trận này, một số hàng không mẫu hạm Mỹ thoát nạn nhưng 6 chiến hạm bị đánh chìm và một chiến hạm khác bị hủy hoại hoàn toàn. Ngoài ra, ba khu trục hạm cùng ba hộ tống hạm cũng hư hại, tổn thất trên 350 máy bay. Số binh tử nạn là 2,400, và 1,200 bị thương.
    Nhìn lại, vào thời điểm ấy, TT Franklin Roosevelt của Mỹ đang tranh chấp với Nhật tại Thái Bình Dương về vấn đề “ai làm chủ?” Cũng nên nhớ, sau Ðệ Nhất Thế Chiến, dân chúng Mỹ chán nản chi phí quốc phòng; rồi từ đó đến Ðệ Nhị Thế Chiến, chi phí quốc phòng của Mỹ liên tục giảm.
    Sau một thời gian, chi phí quốc phòng quân đội Mỹ còn ít hơn quân đội Hà Lan, và hải quân giảm từ 774 tàu (vào năm 1918) xuống còn 311 tàu (vào năm 1933), với các tàu chiến hạm giảm từ 33 xuống còn 11 chiếc.
    Hiện nay Mỹ đang thảo luận giảm chi phí quốc phòng $1,000 tỷ trong 10 năm tới trong khi ngân sách quốc phòng của Trung Quốc (TQ) ngày càng tăng. Mới đây Tổng Thống Obama trong chuyến đi 9 ngày qua Hawaii, Canberra (Úc) và Bali (Indonesia), đã công bố chính sách mới của Mỹ tại Á Châu-Thái Bình Dương.
    Tại Úc, TT Obama công bố kế hoạch “Hoa Kỳ trở lại Tây Thái Bình Dương” và gởi 2,500 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) sang Darwin, thành phố cực Bắc của Úc Châu. Úc cũng đồng ý để Hoa Kỳ dùng các căn cứ Không quân trong vùng Bắc Úc, chưa kể hai nước sẽ cùng tham gia các chương trình huấn luyện, thao dượt và hành quân chung. Nên nhớ là vùng biển Darwin, Guinea, Bornea là nơi từng có những cuộc chiến đẫm máu vào đầu thập niên 1940 giữa Hải Quân Hoa Kỳ và Nhật Bản.
    TT Obama cũng nói đến Hiệp ước ANZUS (Australia-New Zeland-USA) - phòng thủ chung, ký năm 1951 tại San Francisco liên kết 3 nước Úc, Tân Tây Lan và Hoa Kỳ. Vào thập niên 1970, Hoa Kỳ ra khỏi Tây Thái Bình Dương vì nghĩ rằng sự hiện diện của Hạm Ðội 7 là đủ duy trì thế lực và bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ trong vùng. Ðiều này chỉ đúng khi Trung Quốc còn nhiều lúng túng với “Bước Nhảy Vọt” hay cuộc “*****************,” và còn là một lực lượng kinh tế và quân sự chưa đáng kể. Sau 1972, Bắc Kinh trở thành “đồng minh lỏng lẻo” với Washington trong mục tiêu ngăn chận sự bành trướng của Liên Bang Xô Viết.
    Kinh nghiệm quá khứ đặt cho hiện tại nhiều câu hỏi, liệu có thể có xung đột mới tại Thái Bình Dương, hệ quả của sự tranh giành quyền lực giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc? Tranh chấp Mỹ-Trung tại Thái Bình Dương sẽ mang lại chiến tranh hay không? Và mâu thuẫn hiện tại có khác với thời xưa?

    Tranh chấp Thái Bình Dương và Ðệ Nhị Thế Chiến 1938-1945

    Vào năm 1936, Mỹ-Nhật tranh chấp tại Thái Bình Dương. Mỹ có khuynh hướng giảm chi tiêu quốc phòng và TT Rooselvelt không muốn Hoa Kỳ dính vào chiến tranh [“except as we seek to isolate ourselves from war”]. Nhật Bản lại hiểu một cách khác cũng như trường hợp Trung Quốc bây giờ (tưởng là Mỹ lo về Trung Ðông, rút khỏi Thái Bình Dương). Nhật lúc đó thì hiểu là “Á Châu do người Á Châu,” và tăng cường quân đội cùng hải quân. Thời điểm ấy, Nhật tưởng rằng Mỹ rút lui khỏi Thái Bình Dương. Nhật xâm lăng Trung Quốc vào 1938, và hành động “chết người” ấy chính là hậu quả của sự “tưởng” tai hại của Tokyo. Cái tưởng ấy chính là nền móng của chiến tranh tại Thái Bình Dương sau đó.
    Năm 1938, Nhật đang buôn bán khá nhiều với Mỹ cho nên TT Rooselvelt muốn trừng phạt Nhật khi Tokyo quyết định xâm lược Trung Quốc. Sự trừng phạt được đánh dấu bằng quyết định chấm dứt hiệp định thương mại với Nhật. Vào năm 1940, Mỹ gởi hạm đội đến Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) để phô trương lực lượng và Mỹ tiếp tục trừng phạt Nhật qua việc cấm xuất khẩu sắt phế thải và xăng. Ðến năm 1941 thì Mỹ cấm xuất dầu và thép sang Nhật cũng như phong toả tài sản của Nhật tại Mỹ.
    Bị “bắt bí,” Nhật chiếm Indonesia, nước sản xuất dầu, và Malaysia, nơi sản xuất cao su. Sau vụ Trân Châu Cảng, nước Mỹ lâm chiến. Kết quả là hai trái bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima và Nagazaki, và Tokyo đầu hàng vô điều kiện!

    Ngày nay

    Ngày nay Trung Quốc có nhiều hành động và thái độ tương đồng Nhật Bản hồi Ðệ Nhị Thế Chiến. Trung Quốc hăm dọa các nước tại Biển Hoa Nam (Biển Ðông), Biển Hoa Ðông,... trong khi nội tình Hoa Kỳ cũng đang rối rắm. Quốc Hội Mỹ không thể giải quyết một số vấn đề như trần nợ, giảm chi tiêu và quân đội Mỹ bị kẹt tại Iraq và Afghanistan. Cho đến Tháng Bảy, 2010, Trung Quốc vẫn hiểu lầm Mỹ rút khỏi Á Châu để Bắc Kinh rảnh tay.
    Trong bối cảnh đó, sự cam kết mới của Hoa Kỳ tại Á Châu ra đời vào năm 2011. Tại Quốc Hội Úc, TT Obama đưa ra lời lẽ khá mạnh, cảnh báo Bắc Kinh về quyết tâm của Hoa Kỳ. Ông nói: “Hoa Kỳ là một thế lực tại Thái Bình Dương, và chúng tôi sẽ duy trì tư thế đó” (The United States is a Pacific power, and we are here to stay). Ông tuyên bố: “Sự cắt giảm ngân sách quốc phòng để giải quyết sự thiếu hụt ngân sách sẽ không - tôi lặp lại, sẽ không, làm giảm cam kết của Hoa Kỳ tại Á Châu.” Trước đó một ngày, TT Obama cảnh cáo Trung Quốc, rằng Hoa Kỳ không lo sợ sự lớn mạnh của Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh phải chơi theo luật quốc tế và “chừng nào Trung Quốc chơi theo luật chơi chung, chừng nào Trung Quốc biết vị trí của mình, chừng đó chúng ta cùng có lợi.” Còn nếu Trung Quốc chơi luật giang hồ, “chúng ta sẽ cho Trung Quốc biết, không chơi theo luật quốc tế thì không xứng đáng là một siêu cường.”
    Hoa Kỳ đã làm một số việc: Ðưa 2,500 quân sang đồn trú tại Darwin, Úc Châu. Ngoài ra, Úc còn đồng ý để Hoa Kỳ dùng các căn cứ Không quân trong vùng Bắc Úc Châu. Không quân hai nước sẽ cùng tham dự các chương trình huấn luyện, thao dượt và hành quân chung. Từ Darwin đến hai eo biển Malacca và Sunda là 3,500 km và 2,600 km; từ Darwin đi Trường Sa là 4,500 km. Vậy căn cứ Darwin là nơi tốt để xuất phát các cuộc hành quân tại 3 vùng, nếu cần.
    Tại Á Châu, Hoa Kỳ có 28,500 quân đóng tại Nam Hàn, hơn 40,000 đóng tại Nhật và gần 13,000 trên các chiến hạm ngoài khơi Thái Bình Dương. Mục tiêu trước mắt trên lý thuyết là tạo điều kiện để thực hiện chính sách bảo vệ sự lưu thông trên Biển Ðông. Trước đây, tại Hà Nội, hồi Tháng Bảy, 2010, Ngoại Trưởng Hillary Clinton tuyên bố sự lưu thông trên Biển Ðông là “quyền lợi thiết yếu” của Hoa Kỳ (Ðây là một thực tế vì số lượng hàng hóa mậu dịch giữa Hoa Kỳ và các nước Tây Á Châu đi qua Biển Ðông lên đến $1,200 tỉ (một ngàn hai trăm tỉ).
    Tại Thượng đỉnh Ðông Á tại Bali, Biển Ðông đã được quốc tế hóa và TT Obama tái xác định lập trường “tự do lưu thông,” đồng thời nhắc rằng, các tranh chấp chủ quyền phải dựa trên luật quốc tế, kể cả luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS). Ðối với Bắc Kinh, việc hồ sơ Biển Ðông được quốc tế hóa tại diễn đàn bao gồm 18 quốc gia là một thất bại chính trị. Hơn nữa TT Obama cũng cho bán 24 oanh tạc cơ F16-C/D cho Indonesia, giúp tàu tuần tra cho Philippines, và mới đây, Ngoại Trưởng Hillary Clinton, sau gần nửa thế kỷ tuyệt giao, đã viếng Miến Ðiện, một chế độ vốn rất gần gũi với Bắc Kinh.
    Không dừng tại đây, trong phiên họp APEC - Diễn Ðàn Hợp Tác Kinh tế Á Châu Thái Bình Dương - tại Hawaii, TT Obama đưa thêm “củ cà rốt” về kinh tế qua Transpacific Partnership (TPP), hay “hợp tác kinh tế qua một vùng tự do thương mại” mà không có Trung Quốc.
    Tại sao không có Trung Quốc? Kinh nghiệm WTO cho thấy Trung Quốc đã trở thành quốc gia số một về xuất cảng, số hai về nhập cảng, chỉ sau Hoa Kỳ, và xuất siêu kỷ lục với Hoa Kỳ - hơn $280 tỷ Mỹ kim năm 2010. Khi xin vào WTO, Trung Quốc viện cớ còn là một nước “đang phát triển” nên đã dành được một số điều kiện tốt.
    Ngoài ra Trung Quốc không tôn trọng những quy định của WTO về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cho phép Trung Quốc ăn cắp tác quyền của thiên hạ đưa đến kết quả nhảy vọt về kỹ thuật, rồi dùng kỹ thuật đó cạnh tranh với các nước khác. Trung Quốc còn có “chính sách công nghiệp” cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giúp nhà nước can thiệp vào kinh tế và nâng đỡ các doanh nghiệp của họ. Ngoài ra, Bắc Kinh còn bảo vệ khu vực kinh tế nhà nước qua các hàng rào ngoài thuế quan và được nâng đỡ tài trợ quốc doanh qua “chính sách công nghiệp.”
    Với kinh nghiệm không tốt đó, Hoa Kỳ chưa mời Trung Quốc gia nhập TPP. Nhiều nước ASEAN muốn tham gia TPP gồm Singapore, Malaysia, Brunei và Việt Nam, chưa kể các nước khác như Úc, New Zealand, Chile, Peru, Canada, Mexico và Nhật (1).
    Tất cả các hành động trên khiến Trung Quốc bực bội (2) vì có cảm tưởng bị bao vây. Trong hơn 10 năm qua, Bắc Kinh đã rảnh tay, và dĩ nhiên, họ cũng không ngồi yên. Tân Hoa Xã chê TT Obama có hành động theo kiểu chiến tranh lạnh và có thể gây bất ổn tại vùng này. (3)
    Vì vậy, khi đến Bali, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo cho là các tranh chấp chủ quyền cần được giải quyết bằng các điều đình song phương (4) ôn hòa. Trung Quốc đã cố trấn an các nước ASEAN bằng cách hứa áp dụng bản DOC ký từ 2002 (đến 2011 mới có thể thức áp dụng, vì Trung Quốc vẫn từ chối ngồi bàn việc này). Ngoài ra, Bắc Kinh cũng hứa nâng cao hợp tác kinh tế với khối ASEAN qua tự do thương mại, trong đó có đầu tư, chuyển giao kỹ thuật, nâng cao hạ tầng cơ sở. Ðây cũng là một cố gắng nhằm giảm nhẹ ảnh hưởng của TPP đối với Trung Quốc (5). Nói tóm lại, Bắc Kinh xem TPP là một “sản phẩm” của Mỹ, thông qua đó Washington tách nền kinh tế lớn thế nhì thế giới ra khỏi Thái Bình Dương.
    Song song với việc trấn an các nước ASEAN, Trung Quốc cũng dùng báo chí diều hâu hăm dọa trừng phạt Việt Nam và Philippines bằng biện pháp giảm du lịch hay các biện pháp khác (6). Hiển nhiên, quân sự cũng là một con bài của Trung Quốc trong sự đe dọa này. Nhắc lại, Bắc Kinh cũng không từ bỏ giải pháp dùng võ lực tại Biển Ðông, và dùng cả truyền thông để cảnh cáo các nước láng giềng hãy “sẵn sàng nghe tiếng đại bác.” (7)

    Ngày xưa và ngày nay

    Xưa và nay có nhiều điều khác biệt. Trước hết, về quân sự thì khó có một trận đánh úp như trường hợp Trân Châu Cảng. Hệ thống radar 3 chiều và hệ thống vệ tinh chằng chịt của quân đội Mỹ sẽ không cho phép có việc đánh úp. Chẳng hạn, mới đây vào ngày 14 Tháng Mười Hai, 2011, DigitalGlobe Inc., một công ty tư nhân về vệ tinh của Mỹ công bố bức ảnh hàng không mẫu hạm Varyag - Thi Lang của Trung Quốc. Theo báo chí Trung Quốc, trong chuyến thử nghiệm kéo dài 13 ngày, kể từ 29 Tháng Mười Một, các chiến đấu cơ J-15 của Trung Quốc đã thực hiện một số chuyến bay từ hàng không mẫu hạm này. Trong khi đó, tấm ảnh của DigitalGlobe cho thấy boong tàu Varyag hoàn toàn trống. Như vậy chiến tranh tâm lý - hù dọa ngày càng khó thực hiện hơn.
    Thứ hai, sức mạnh hải quân của các quốc gia trong vùng không thua kém về số lượng lẫn chất lượng so với Hải Quân Trung Quốc. Hiện nay, Hải Quân Nhật (8) tham gia vào nhiều chiến dịch quốc tế như tại Iraq, Afghanistan, tuần tra eo biển Malacca. Hải Quân Nhật lớn hơn Hải Quân Anh, gồm 44 tuần dương hạm (destroyers), 9 tàu khu trục, và 15 tàu ngầm. Hải Quân Nhật còn có các hàng không mẫu hạm chở trực thăng loại Hyuga-class gọi là “helicopter destroyers” (DDH) và tàu đổ bộ loại Osumi class - 13,000 tấn, chở được 330 quân và 10 xe tank. Với hạm đội như vậy, Nhật dư sức tuần tra Biển Ðông và là địch thủ đáng gờm của Trung Quốc.
    Ở phía khác, Nam Hàn đang xây dựng hải quân với khả năng hoạt động xa. Seoul có các chiến hạm loại Dokdo (LPD) có trọng tải 14,000 tấn, chở 700 binh sĩ, 10 xe tank và 15 trực thăng. Ngoài ra Nam Hàn còn có tuần dương hạm KDX I loại 3,900 tấn, KDX-II loại 5,000 tấn và nay loại KDX III 7,700 tấn. Ngoài ra Nam Hàn còn trang bị 9 tàu ngầm Ðức loại 209 diesel. Ðó là chưa kể họ đang có chương trình đóng tàu ngầm loại KSS-II Type-214 và sẽ có khoảng 18 tàu ngầm vào thời điểm 2020. Có thể nói, Nam Hàn có hải quân đứng thứ hai, sau Nhật Bản, tại Á Châu. Ngoài trừ tàu ngầm nguyên tử, Nhật và Nam Hàn không thua Trung Quốc, và nếu hợp lại, cặp đôi này sẽ vượt trên Bắc Kinh.
    Từ Ấn Ðộ Dương, quốc gia đông dân thứ nhì thế giới có hàng không mẫu hạm từ lâu, và đang đi tới xây dựng hạm đội tàu ngầm nguyên tử. Ấn Ðộ cũng đang mua thêm hàng không mẫu hạm loại 45,000 tấn, Admiral Gorshkov, của Nga, với khả năng dùng MiG-29. Hiện nay Hải Quân Ấn có 16 tàu ngầm và đang mua thêm 6 tàu nữa, của Pháp.
    Nhắc lại lịch sử, thời nhà Tần, 225 trước Công Nguyên, Trung Quốc muốn thâu gồm thiên hạ và muốn “liên hoành” với từng nước qua chính sách “đàm phán song phương.” Trung Quốc muốn xây dựng thế liên minh “liên hoành” nhưng lại đòi hỏi và nhiều khi còn sử dụng cả tàu chiến để thông qua “chủ quyền đường lưỡi bò.”
    Thái độ của Bắc Kinh khiến các quốc gia láng giềng lo lắng, không chỉ ASEAN mà cả Mỹ, Nhật, Ấn Ðộ và Úc cũng lo ngại. Các hành động gây hấn của Trung Quốc trên Biển Ðông hay Biển Ðông Hoa ngày càng rõ ràng.
    Bắc Kinh gởi tàu ngư chính đến tuần tra vùng Hoàng Sa, đe dọa tàu đánh cá Việt Nam, đe dọa tàu thăm dò dầu lửa của Việt Nam và Philippines, rất sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Không chỉ là tranh giành tại Biển Ðông, Bắc Kinh còn biểu lộ tham vọng kiểm soát Ấn Ðộ Dương. Trong những thập niên qua, Trung Quốc xây dựng các ống dẫn dầu và xa lộ tại Miến Ðiện để có thể sử dụng một cảng ở Ấn Ðộ Dương (Từ lâu Trung Quốc đã thiết lập căn cứ radar trên quần đảo Coco Island trong Vịnh Bengal, và Miến Ðiện có thể trở thành các căn cứ tiếp liệu cho hải quân Trung Quốc). Ngoài ra, Bắc Kinh còn tranh giành chủ quyền với Nhật tại Biển Hoa Ðông, gây sự với Nam Hàn...
    Hậu quả là sự thành hình liên minh chống Trung Quốc, tạm gọi là thế “hợp tung” - liên kết của ASEAN và Mỹ, Nhật, Ấn Ðộ và Úc. Mà cũng có thể gọi là thế liên minh “liên hoành,” trong đó Mỹ đóng vai trò đối trọng với Trung Quốc. Nam Hàn cũng ký hợp tác quân sự với Úc trong khi Nhật gia tăng hợp tác với Ấn Ðộ, và Ấn thì hợp tác với Úc. Nhật cũng vừa ký hợp tác quân sự và trao đổi tin tức với Việt Nam cùng Philippines. Tại Bali, Nhật ký với các nước ASEAN tìm cách duy trì tự do hàng hải tại Biển Ðông. Chưa hết, Tokyo còn hứa viện trợ các quốc gia khác xây dựng hạ tầng cơ sở. (9) Hơn nữa, lần đầu tiên có sự kết hợp giữa Nhật và Ấn Ðộ trong việc “quốc tế hóa” vấn đề Biển Ðông.
    Hậu quả của chính sách Trung Quốc đã giúp Mỹ liên kết với từng nước và liên kết với cả khối ASEAN-Thái Bình Dương, như một quan hệ “liên hợp tung hoành.” Rõ ràng, Bắc Kinh đang bị “chiếu tướng” (10).
    Cuối cùng, mặc dù Trung Quốc có nhiều thái độ hung hăng, Washington vẫn đối xử nhẹ nhàng với Bắc Kinh - để cửa ngõ mở nếu Trung Quốc thấy cần thương thuyết. Mỹ không bao giờ đánh hết bài, không bắt chẹt Trung Quốc, mong một ngày xứ này có thể “cư xử văn minh,” cung cách của một nước lớn!

    Tạm kết luận

    Câu hỏi căn bản là liệu có chiến tranh hay không? Liệu có một trận Trân Châu Cảng nữa hay không? Liệu lịch sử có lặp lại không?
    Tại Hawaii, nơi của Trân Châu Cảng, TT Obama tuyên bố không chống lại “sự trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc, và Mỹ mong quốc gia này tham gia vào thế giới, áp dụng luật chơi thế giới. Tại Hawaii, TT Obama bày tỏ muốn có một giải pháp “win-win” với Trung Quốc.
    Rõ ràng, Hoa Kỳ để cửa mở trong việc thương thuyết với Bắc Kinh.
    Kỹ thuật và Hải Quân Trung Quốc, thấy rõ, còn kém xa Hoa Kỳ cũng như các quốc gia Á Châu trong thế liên hoàn với Hoa Kỳ.
    Lịch sử có nhiều điều tương đồng, nhưng nhất định việc tranh chấp tại Thái Bình Dương sẽ không thể xảy ra, như hồi 1941.


    TS Đinh Xuân Quân - Báo Người Việt
  9. Thai_Duong

    Thai_Duong Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/01/2011
    Đã được thích:
    118
    Anh để đường link rồi cơ mà !
    Mà cũng có chuyển đâu ?
    Đây là nhà do bác phuongxa20 mở , vì bác ấy nghĩ là anh em mình đào ngũ hết rồi ! ( đào ngũ là từ của bác phuongxa dùng đấy ! [:D] )

    Sau khi ptkh phát hiện đưa đường link . anh qua đây gặp bác PX liền quay về báo anh em mình qua đấy chứ !
    Đến sau , không thấy anh chiến đấu với thằng phá hoại kia à ? đã không giặt khăn lau mặt cho anh đỡ mệt , cho ấm lòng chiến sĩ , lại còn quở trách !

    Đã thấy hai bài thơ anh thức đến 2g30 làm tặng em chưa ?

    Không được thưởng mà còn bị la !

    ~X~X~X~X~X
  10. tridunghtvc

    tridunghtvc Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/12/2011
    Đã được thích:
    427
    Anh bày cho em cách này nha !:-bd:-bd:-bd
    Em thi vào ĐH Luật ( học bình thường cũng khả năng trúng !) [:D][:D][:D]
    Mấy năm sau lấy bằng Luật , em làm rùm beng , trầm trọng lên. Nếu người ta kể " Ngàn cân treo sợi tóc " thì em liệt kê ra 1 tỷ nguy cơ đem treo sợi chỉ " .[r23)][r23)][r23)]
    Và sau đó gửi đi muôn nơi !( chớ quên cho BBC-VOA ). Kêu daicaho trói em lại và chụp hình kêu là bị ****** ! [r24)][r24)][r24)]
    Lúc đó em sẽ nổi tiếng, là người yêu nước, người hùng cứu nhân độ thế. Cù ... gì đó gọi em bằng cụ... và cái đám lâu nhâu bên kia khi em đi ị , họ sẽ sằn sàng giành giật ... lấy về ngửi ! Daicanho cạnh em cũng thơm lây !!! [:p][:p][:p][:p][:p][:p][:p][:p]
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này