SEPA: Chiến lược đầu tư chiến thắng thị trường

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi khucngoctuyen2015, 28/10/2018.

5495 người đang online, trong đó có 656 thành viên. 12:59 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 57378 lượt đọc và 321 bài trả lời
  1. nvtunggli

    nvtunggli Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    20/11/2015
    Đã được thích:
    908
    tôi đăng ký dịch chương 5 cho cụ nhé. Cùng chia sẻ kiến thức
    Soi_Trang thích bài này.
  2. khucngoctuyen2015

    khucngoctuyen2015 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/07/2015
    Đã được thích:
    11.393
    Soi_Trang, toni11nvtunggli thích bài này.
  3. nvtunggli

    nvtunggli Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    20/11/2015
    Đã được thích:
    908
    Đang dịch được 01 đoạn đầu chương 5 đây:


    CHƯƠNG 5: GIAO DỊCH THEO XU HƯỚNG

    Tôi không thiết lập xu hướng. Tôi chỉ tìm ra đúng xu hướng và đi theo chúng.

    —Dick Clark


    Thành công của tôi là một nhà giao dịch chứng khoán dựa trên sự kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật. Tín hiệu cơ học được kết hợp bởi nghiên cứu khoa học và cảm giác trực quan là hai công cụ quan trọng. Trong thị trường chứng khoán, vài thứ hoàn toàn có thể là màu đen hoặc trắng. Để thành công, một nhà giao dịch chứng khoán chuyên nghiệp phải học cách đọc đồ thị đường giá, phân tích và đưa ra quyết định thường xuyên trên cơ sở thông tin không đầy đủ. Tuy nhiên, có một số đặc điểm không rõ ràng hoặc thậm chí mở để giải thích. Tôi gọi chúng là tiêu chí mờ.

    Khi tôi sàng lọc tìm các siêu cổ phiếu, bộ lọc ban đầu của tôi bắt nguồn từ các tiêu chí nghiêm ngặt dựa trên hành động kỹ thuật của cổ phiếu và được thiết kế để điều chỉnh giao dịch mua theo xu hướng chính hiện hành.

    Khi tiêu chí ban đầu này được đáp ứng, tôi chạy "màn hình lớp phủ" và xem xét các nguyên tắc cơ bản của công ty để thu hẹp số lượng ứng cử viên còn lại. Nói một cách đơn giản, dù công ty có vẻ tốt như thế nào về mặt cơ bản thì một số tiêu chí kỹ thuật nhất định phải được đáp ứng để xem xét mua.Ví dụ, tôi sẽ không bao giờ mua một cổ phiếu đang giảm và nằm dưới đường trung bình động 200 ngày (giả sử đường MA 200 ngày tồn tại). Cho dù thu nhập trên mỗi cổ phiếu hấp dẫn, tăng trưởng doanh thu, dòng tiền hoặc lợi tức trên vốn chủ sở hữu có thể là bao nhiêu, tôi sẽ không xem xét mua cổ phiếu đang trong xu hướng giảm dài hạn. Tại sao? Tôi muốn thấy cổ phiếu được sự quan tâm tốt hơn từ các nhà đầu tư tổ chức lớn. Tôi không muốn trở thành người đầu tiên tham gia bữa tiệc, nhưng tôi muốn làchắc chắn có một bữa tiệc đang diễn ra. Mục đích là để loại bỏ các cổ phiếu không có giá trị và dành thời gian để tập trung tìm kiếm các siêu cổ phiếu tiếp theo. Mua cổ phiếu trong xu hướng giảm dài hạn sẽ làm giảm đáng kể xác suất giành chiến thắng lớn. Vì thế, nếu muốn tăng tỷ lệ xác suất giành chiến thắng, bạn nên tập trung vào các cổ phiếu trong xu hướng tăng đã được xác nhận.

    LÀM BẠN VỚI XU HƯỚNG

    Định luật 1 của Newton nói rằng một vật thể đang chuyển động sẽ tiếp tục chuyển động. Mọi vật chuyển động đều có quán tính. Một đặc tính tương tự đặc tính của thị trường chứng khoán: một xu hướng đang diễn ra nó vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi một cái gì đó tác động vào để thay đổi nó. Nói cách khác, xu hướng là bạn. Mặc dù câu châm ngôn này nghe quen thuộc, tuy nhiên vẫn có một số nhà đầu tư có thể không hoàn toàn đồng ý với quan điểm này. Tôi nhớ khi lần đầu tiên tôi nắm bắt khái niệm này một cách có ý nghĩa.

    Năm 1990, tôi đã tham dự một hội thảo đầu tư tại thành phố New York. Trên danh sách các chuyên gia và tiên lượng thị trường là Ned Davis - người sáng lập công ty nghiên cứu nổi tiếng Ned Davis Research, và Marty Zweig - nhà xuất bản bản tin thị trường nổi tiếng The Zweig Forecast; Marty đặt ra cụm từ "xu hướng là bạn". Một trong những diễn giả thu hút sự chú ý của tôi không chỉ vì tính cách đầy màu sắc mà còn cho cách tiếp cận thị trường chứng khoán của ông ấy là Stan Weinstein, người đã công bố bản tin thị trường chứng khoán The Professional Tape Reader. Trong bữa ăn trưa, chúng tôi đã có cơ hội trò chuyện, và khi Stan giải thích phương pháp của anh ấy, đã để lại cho tôi một khái niệm cốt lõi gây ấn tượng với tôi từ đó.

    Cách tiếp cận của Stan dựa trên nguyên tắc sự hình thành bốn giai đoạn trong một chu kỳ mà cổ phiếu phải trải qua, ông ta đặt tầm quan trọng vào việc biết cổ phiếu đang ở giai đoạn nào vào bất kỳ thời điểm cụ thể. Kịch bản lý tưởng, như Stan đã chỉ ra rằng, mua cổ phiếu khi nó đang thoát khỏi giai đoạn đầu tiên của nó và bắt đầu vào thời kỳ tăng giá, đó gọi là giai đoạn thứ hai. Sau đó, mục tiêu là bán chúng khi chúng tiếp cận đỉnh của chu kỳ, đó là sự khởi đầu của giai đoạn thứ ba. Giai đoạn thứ tư, như bạn có thể nhận ra, đó là một sự sụt giảm giá cổ phiếu mà bạn phải đứng ngoài trong một thời gian hoặc bán khống. Trước đây tôi đã đọc về cách tiếp cận của Stan trong cuốn sáchSecrets for Profiting in Bull and Bear Markets (McGraw-Hill, 1988). Mặc dù Stan không phải là người duy nhất sử dụng phương pháp bốn giai đoạn này,ông ấy là người đầu tiên cho tôi biết về nó. Tôi tiếp tục áp dụng khái niệm này như một phầnphân tích chứng khoán của tôi.

    SIÊU CỔ PHIẾU VÀ CÁC GIAI ĐOẠN CỦA NÓ

    Đang tiếp tục dịch......
    tdt78, MaiSieuPhong, nmtuan651 người khác thích bài này.
  4. khucngoctuyen2015

    khucngoctuyen2015 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/07/2015
    Đã được thích:
    11.393
    Chap 6.
    PHÂN LOẠI CÁC NHÓM CỔ PHIẾU, NHỮNG NHÓM NGÀNH THƯỜNG DẪN ĐẦU TRONG THỊ TRƯỜNG GIÁ TĂNG VÀ CÁC CHẤT XÚC TÁC THÚC ĐẨY CỔ PHIẾU TĂNG GIÁ

    Khi xem xét mua một cổ phiếu, điều đầu tiên tôi làm là xác định loại cổ phiếu mà tôi đang nghiên cứu. Trong bối cảnh bản chất của công ty và ngành nghề mà công ty hoạt động, tôi muốn nhìn thấy một kỳ vọng về tiềm năng tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận của công ty, và tìm hiểu hiểu xem tiềm năng đó có thể được công nhận rộng rãi hay không. Nhờ đó, các yếu tố tiềm năng này sẽ chiết khấu vào giá cổ phiếu hiện tại.

    Việc phân loại các công ty sẽ giúp bạn phân nhóm công ty mà bạn đang cân nhắc trong mối liên quan với những công ty khác trên thị trường để bạn có thể đưa ra quyết định về vị trí của cổ phiếu trong chu kỳ phát triển của nó. Các công ty không nằm im mãi ở 1 vị trí trong chu kỳ phát triển của nó. Một số công ty mất nhiều thời gian hơn những công ty khác trong các giai đoạn nhất định của chu kỳ phát triển; tuy nhiên, gần như tất cả các công ty trải qua một giai đoạn trưởng thành tự nhiên. Trong những năm qua tôi đã phân tích hàng chục nghìn công ty được giao dịch công khai. Những gì tôi phát hiện ra là chúng thường có xu hướng rơi vào một trong sáu loại sau:

    1. Các công ty dẫn đầu
    2. Các công ty đối thủ cạnh tranh hàng đầu
    3. Các cổ phiếu được các tổ chức yêu thích (cổ phiếu có vốn hóa lớn với doanh thu và triển vọng tăng trưởng vượt trội)
    4. Các công ty thoát khó khăn tìm lại vị thế của chúng
    5. Các cổ phiếu chu kỳ
    6. Các cổ phiếu đã từng dẫn đầu và các công ty đã lạc hậu

    Các công ty dẫn đầu

    Các công ty dẫn đầu là loại cổ phiếu mà tôi yêu thích nhất. Hầu hết các giao dịch của tôi được thực hiện với loại công ty này. Các công ty này có thể tăng EPS nhanh nhất. Một công ty mạnh nhất trong ngành thường đứng số một, hai hoặc ba về doanh số và EPS và đang chiếm lĩnh thị phần. Các công ty dẫn đầu thị trường rất dễ nhận ra, nhưng hầu hết các nhà đầu tư đều có tâm lý rất ngần ngại khi quyết định mua chúng. Giá cổ phiếu của các công ty dẫn đầu thường có tỷ lệ tăng mạnh nhất trong giai đoạn đầu của thị trường giá lên. Chúng tăng lên đỉnh cao mới với sức mạnh giá không thể tin được, khiến hầu hết các nhà đầu tư nghĩ rằng các cổ phiếu này đã tăng quá xa; do đó, hầu hết các nhà đầu tư sợ mua những cổ phiếu tốt nhất có khả năng sinh lời cao nhất.

    Điều gì đẩy chúng lên cao hơn? Đó chính là các tổ chức, họ đủ hiểu biết về công ty và triển vọng tương lai của nó và đẩy mạnh hoạt động mua vào. Họ không quan tâm đến việc cổ phiếu đã tiến xa như thế nào nhưng họ biết nó sẽ đi đến đâu và họ biết về triển vọng tăng trưởng của nó trong tương lai. Loại tăng trưởng tốt nhất là tăng trưởng có khả năng mở rộng, đó là những công ty giành được thị phần trong một ngành công nghiệp đang phát triển nhanh chóng. Thị trường cho sản phẩm hoặc dịch vụ của công ty là rất lớn so với quy mô của công ty, và những sản phẩm và dịch vụ đó có nhu cầu đủ cao để công ty có thể phát triển với tốc độ cao trong thời gian dài. Những công ty này có sản phẩm và dịch vụ cao cấp, và chúng thường là một phần của một ngành công nghiệp đang phát triển; mặc dù không nhất thiết phải là công ty dẫn đầu trong một ngành hoặc lĩnh vực phát triển nhanh, nhưng nếu là công ty dẫn đầu thì đó chắc chắn là một lợi thế bổ sung rất tốt.
    Một công ty đang chiếm lĩnh thị phần trong ngành công nghiệp tăng trưởng chậm cũng có thể tăng EPS của mình bằng những cách khá độc đáo. Điều quan trọng nhất là công ty có thể tạo ra những lợi ích đáng kể. Một bảng cân đối kế toán tốt, biên lợi nhuận tăng lên, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cao, và tỷ lệ nợ hợp lý là tất cả các dấu hiệu của một công ty được quản lý tốt. Một số công ty dẫn đầu tăng EPS ở mức rất lành mạnh trong thời gian dài trong các ngành công nghiệp tăng trưởng thấp. Tuy nhiên, một công ty đang chiếm lĩnh thị phần hoặc chiếm phần lớn thị phần trong một ngành công nghiệp đang phát triển nhanh có thể tăng EPS của mình với tốc độ chóng mặt.

    Các câu hỏi chính nên là: Lợi thế cạnh tranh của công ty là gì? Mô hình kinh doanh có thể mở rộng không? Sau đó là vấn đề liệu rằng việc quản lí có đang được thực hiện một cách thành công hay không, việc quản lý phân phối hàng hóa có hiệu quả không, cụ thể là EPS có tiếp tục tăng hay không?
    Các cổ phiếu dẫn đầu có khả năng tạo ra tỷ lệ tăng giá lớn trong giai đoạn tăng trưởng cao của chúng, thường tăng EPS ở mức 20% hoặc cao hơn. Nhiều công ty tăng EPS trung bình 35 đến 45 % trong vòng 5 hoặc 10 năm kinh doanh tốt nhất. Trong giai đoạn tăng trưởng mạnh nhất của các cổ phiếu dẫn đầu, một số cổ phiếu tăng EPS trên 100%. Từ tháng 3 năm 1989 đến tháng 5 năm 1993, Cisco Systems đạt tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận hàng quý trung bình trên 100%. Giá cổ phiếu của Cisco đã tăng hơn 13 lần trong khoảng thời gian đó. Trong những năm đầu thập niên 1980, khi Walmart là một công ty ít được biết đến, chỉ có khối lượng giao dịch 20.000 cổ phiếu một ngày, có mức tăng trưởng EPS trung bình 38% trong 14 quý liên tiếp. Giá cổ phiếu của Walmart đã tăng 1.000 % trong giai đoạn đó. Ngày nay, Walmart giao dịch hơn 7 triệu cổ phiếu mỗi ngày.

    Khi cổ phiếu tưởng đắt nhưng thực ra lại rẻ

    Các công ty dẫn đầu trong giai đoạn tăng trưởng cao gần như luôn luôn xuất hiện với thị giá có vẻ đắt khi so sánh với một công ty phát triển chậm hơn. Đây là vẻ đẹp của các công ty phát triển siêu tốc: những công ty này phát triển nhanh đến mức Phố Wall không thể coi trọng chúng một cách thật hợp lý, nên chúng không được định giá đúng, và đó là một lợi thế lớn cho những nhà đầu tư tìm ra chúng. Miễn là công ty có thể duy trì đáng kể sự mở rộng doanh số bán hàng và EPS, giá cổ phiếu sẽ theo sau - có thể không ngay lập tức, nhưng giá cổ phiếu sẽ tăng theo đà tăng trưởng EPS theo thời gian. Trong trường hợp nhanh hơn thì một công ty có sự tăng trưởng EPS sẽ kéo giá cổ phiếu sẽ tăng theo ngay sau đó.
    Đừng để bị lừa; có nhiều rủi ro trong các công ty tăng trưởng cao. Phố Wall có thể trừng phạt một công ty phát triển nhanh nếu thu nhập chậm lại ngay cả khi số tiền là rất nhỏ nhưng lại liên quan đến sự kỳ vọng của giới đầu tư. Các công ty tăng trưởng cao sống và chết vì kỳ vọng thu nhập. Các công ty này phải liên tục đánh bại các dự báo đã được giới đầu tư chấp thuận và kỳ vọng. Là một công ty báo cáo tốt hơn so với thu nhập dự kiến, giá cổ phiếu sẽ tăng để đánh bại chính mình trong thời gian tiếp theo. Cuối cùng, giá tăng quá cao và công ty bị bỏ lại. Tuy nhiên, miễn là công ty có thể mang lại thu nhập cao và quản lý kỳ vọng tốt, giá cổ phiếu có thể tăng cao và trải qua sự tăng mạnh P/E lên nhiều lần. Mục tiêu của tôi là xác định và đầu tư vào các công ty dẫn đầu tương đối sớm trong giai đoạn tăng trưởng khi lợi nhuận đang tăng tốc.

    Các cổ phiếu sát thủ

    Những công ty xuất hiện và hoàn toàn thống trị một ngành nghề, có một lợi thế cạnh tranh rõ ràng và bền vững mà các công ty khác trong cùng ngành gần như không thể có được. Những công ty dẫn đầu này được gọi là công ty sát thủ. Một công ty sát thủ là một công ty có thương hiệu và vị thế trên thị trường mạnh đến nỗi sẽ rất khó khăn để cạnh tranh với nó ngay cả khi bạn có nguồn vốn không giới hạn. Một ví dụ tốt là eBay, trang đấu giá trực tuyến mang đến cho nó một lợi thế áp đảo vì người mua và người bán muốn tham gia vào thị trường lớn nhất với nhiều người tham gia nhất. Hãy xem xét Apple, nó chiếm ưu thế về không gian, thiết lập xu hướng thịnh hành với công nghệ tiên tiến và các sản phẩm thật sự độc đáo. Các công viên giải trí của Disney chắc chắn được xếp hạng là một công ty sát thủ với sự cạnh tranh đáng gờm. Vì vậy, một công ty như Walmart, khi đã có số má trong lĩnh vực bán lẻ, thì nhiều cửa hàng trong khối bán lẻ rất khó để có thể cạnh tranh với gã khổng lồ này.

    Những công ty dạng khuôn làm bánh

    Khi một hãng buôn tạo ra một công thức thành công trong một cửa hàng và sau đó lặp lại nó nhiều lần trong các trung tâm mua sắm và tại các địa điểm trên khắp đất nước hoặc trên toàn thế giới, thì gọi đó là một công ty kiểu khuôn làm bánh. Hãy nghĩ về McDonald's, Walmart, Starbucks, Taco Bell, The Gap, Home Depot, Starbucks, Chili's, Cracker Barrel, Limited, Dick's Sporting Goods, Wendy, Outback Steakhouse và Costco Wholesale, đó là những ví dụ tuyệt vời về việc triển khai thành công mô hình kinh doanh dạng khuôn làm bánh.
    Như bạn có thể thấy, có nhiều cái tên đã đạt được thành công với mô hình kinh doanh dạng khuôn làm bánh trong lĩnh vực bán lẻ (ở VN có MWG, PNJ). Với khái niệm này, khi một công ty mở rộng sang các thị trường mới, họ nhanh chóng mở các cửa hàng mới (đặc biệt nếu các cửa hàng này cũng nhanh chóng có doanh số bán hàng tốt) thì thu nhập của công ty có thể tăng trưởng với tốc độ bền vững. Loại công ty này là một trong số các công ty dễ phát hiện, dễ giám sát và dễ đầu tư nhất trong giai đoạn tăng trưởng cao của chúng. Thu nhập của các công ty này tăng lên trong một thời gian đủ dài để bạn có thể xác định tăng trưởng thu nhập "trên báo cáo" trong khi họ vẫn có nhiều không gian để tăng trưởng trong tương lai.

    Những điểm cần xem xét khi đầu tư vào công ty mô hình Khuôn làm bánh

    ....
    ...

    (đang tiếp tục dịch)
    MaiSieuPhongtoni11 thích bài này.
  5. khucngoctuyen2015

    khucngoctuyen2015 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/07/2015
    Đã được thích:
    11.393
    thanks bác
  6. nvtunggli

    nvtunggli Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    20/11/2015
    Đã được thích:
    908
    CHƯƠNG 5 ( tiếp theo)
    CỔ PHIẾU SIÊU HẠNG VÀ CÁC GIAI ĐOẠN CỦA NÓ


    Giống như mọi cổ phiếu, cổ phiếu siêu hạng phải trải qua các giai đoạn rõ ràng. Trong suốt sự nghiệp kinh doanh của tôi, tôi rất quan tâm đến việc nghiên cứu chu kỳ và sự thay đổi chu kỳ giá của cổ phiếu. Đặc biệt, trong việc kiểm tra lịch sửgiá của các cổ phiếu mạnh mẽ nhất dẫn dắt thị trường qua nhiều chu kỳ, tôi có thể thấy rõ cách chúng trải qua các giai đoạn khác nhau. Một cổ phiếu sẽ giao dịch đi ngang trong một thời gian và sau đó tăng lên nhanh chóng. Cuối cùng,đà tăng của cổ phiếu sẽ chậm lại và biến động mạnh hơn khinó đang được phân phối và ở tại vùng đỉnh. Sau khi qua khỏi đỉnh nó bắt đầu suy giảm.Thỉnh thoảng, sau khi sụt giảm, cổ phiếu có lúc tăng về nền giá cơ sở trước đó. Chu kỳ để một cổ phiếu trải qua tất cả bốn giai đoạn này có thể mất một vài năm. Những gì tôi tìm thấy thông qua nghiên cứu của tôi về sự tăng giá của cổ phiếu siêu hạng đều đạt được mức tăng lớn nhất trong giai đoạn 2 chu kỳ giá của nó.

    Thật thú vị khi nghiên cứu các giai đoạn hình thành giá của cổ phiếutrong tầm nhìn xa, điều đó không giúp tôi xác định khinào cổ phiếu ở giai đoạn 2 tối ưu xuất hiện trên màn hình radar của tôi. Hơn nữa, tôi luôn tự hỏi, điều gì tạo ra lợi nhuận ở giai đoạn 2? Săn tìm chìa khóa để xác định những cổ phiếu đang ở giai đoạn 2, tôi vẽ và lờ đi các yếu tố cơ bản của cổ phiếu siêu hạng để xem chúng có tương quan như thế nào với biến động giá. Mục tiêu của tôi là để xem liệu có bất kỳ nguyên nhân và tác động nào trong chuyển động giá từ giai đoạn này đến giai đoạn khác hay không và nếu có thì đó là gì.


    SỰ HÌNH THÀNH GIÁ CỔ PHIẾU: BỐN GIAI ĐOẠN

    Nghiên cứu của tôi về những cổ phiếu đem lại chiến thắng lớn trên thị trườngđã cho tôi một cái nhìn sâu sắc về bốn giai đoạn của một chu kỳ cổ phiếu: Giai đoạn tích lũy chuyển sang tăng trưởng, đạt đỉnh và sau đó giảm. Ngoài việc tập trung vào giá cổ phiếu, tôi đã hỏi điều gì đang xảy ra để kích hoạt từng giai đoạn này. Từ quan điểm cơ bản, nguyên nhân hầu như luôn liên quan đến thu nhậpcủa cổ phiếu: từ việc hiệu quảlợi nhuận mờ nhạt đến bất ngờ tăng trưởng mạnh, tiếp theo sự tăng trưởng giảm dần và sau đó thất vọng. Những thay đổi cơ bản này thúc đẩy các nhà đầu tư là các thể chế lớn vào và ra khỏi cổ phiếu, các giai đoạn có thể dễ dàngnhận ra bởi khối lượng giao dịch lớn đột biến xảy ra trong cả giai đoạn tăng trưởng và sự suy giảm tiếp theo. Tôi xác định bốn giai đoạn này dựa trên những gì đang xảy ra với hành động giá cổ phiếu:

    1. Giai Đoạn 1: Pha Thờ Ơ: Củngcố

    2. Giai Đoạn 2: Pha Tăng Giá: Tăngtốc.

    3. Giai đoạn 3: Pha Đạt Đỉnh: Phânphối.

    4. Giai Đoạn 4: Pha Giảm Giá: Buôngxuôi


    GIAI ĐOẠN 1 - PHA THỜ Ơ: CỦNGCỐ


    Giai đoạn 1 được xem như không có gì đáng chú ý đang xảy ra. Cổ phiếu đang trong giai đoạnbỏ mặc; chỉ có vài nhà đầu tư chơi lớn đang chú ý đến cổ phiếu, hoặc ít nhất, thị trường vẫn chưa quan tâm đến cổ phiếu của công ty. Trong giai đoạn 1, thu nhập, doanh thu và lợi nhuận của công ty có thể chưa rõ ràng hoặc thất thường cùng với giá cổ phiếu của công ty. Cũng có thể triển vọng chưa chắc chắn đối với công ty hoặc ngành công nghiệp của mình. Không có tác động tích cực nào để cổ phiếu thoát ra khỏi tình trạng ảm đạm của nó và thu hút khối lượng lớn các thể chế tham gia để đẩy giá cổ phiếu vào một xu hướng tăng giai đoạn 2.

    Giai đoạn 1 có thể kéo dài rất lâu, từ vài tháng đến vài năm. Giai đoạn 1cũng có thể được gây ra bởi một thị trường chung ảm đạm. Trong giai đoạn thị trường chung suy giảm, ngay cả những cổ phiếu có nền tảng cơ bản tốt cũng có thể đi ngang trong thời gian dài hoặc thậm chí suy giảm cùng với thị trường chung. Bạn nên tránhmua trong giai đoạn 1 vì nó không có gì hấp dẫn; thậm chí nếucác yếu tố cơ bản của công ty trông hấp dẫn, bạn cũng nên chờ đợi và chỉ tham gia mua vào ở giai đoạn 2.

    Hãy nhớ Định luật đầu tiên của Newton, luật quán tính. Một đối tượng chuyển động có xu hướngđi theo quán tính của nó. Nếu cổ phiếu của bạn bị mắt kẹt không biết khi nào tăng giá, hãy đoán xem đến khi nào có điều gì đó quan trọng làm giá thay đổi. Bạn sẽ không đạt được thành tích siêu hạng bằng cách ngồi chờ ôm đống hàng giảm giá đó. Để quay vòng đồng vốn nhanh và đạt được thành tích giao dịch siêu hạng, điều quan trọng là bạn tránh mua vào ở giai đoạn 1 và học cách phát hiện khi nào cổ phiếu vào xu hướng tăng mạnh trong giai đoạn 2.

    ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI ĐOẠN 1

    - Trong giai đoạn 1, giá cổ phiếu sẽ chuyển động đi ngangvới biên độ hẹp dần, không có sự biến động lớn tăng giá hoặc giảm giá.

    -Giá cổ phiếu sẽ dao động quanh đường trung bìnhdi động 200 ngày (hoặc 40 tuần). Trong dao động này, đường giá đi lình xình không có xu hướng thực sự,dù là lên hay xuống. Gia đoạn này có thể kéo dài trong nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm.

    - Thông thường, nền tảng giá ở giai đoạn này diễn ra sau khi giá cổ phiếu suy giảm trong giai đoạn 4 trong vài tháng trở lên.

    - Khối lượng giao dịch trong giai đoạn này tương đối thấp so với khối lượng giao dịch trong đợt suy giảm ở giai đoạn 4 trước đó.
    --- Gộp bài viết, 28/10/2018, Bài cũ: 28/10/2018 ---
    ......còn nữa, sẽ dịch và cập nhật tiếp. Bác nào dịch được phần nào thì up lên trên này cho anh em tham khảo..
    Last edited: 28/10/2018
    MaiSieuPhongtoni11 thích bài này.
  7. khucngoctuyen2015

    khucngoctuyen2015 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/07/2015
    Đã được thích:
    11.393
    Chương 6 (tiếp theo)

    Các đối thủ cạnh tranh hàng đầu: đừng rời mắt khỏi các công ty loại này

    Thông thường chỉ có một, hai, hoặc có thể ba công ty thực sự dẫn đầu một nhóm ngành công nghiệp. Nếu tôi yêu cầu bạn đặt tên cho công ty số một và số hai trong lĩnh vực nước giải khát, bạn gần như chắc chắn sẽ nói Coca-Cola và Pepsi. Nếu tôi hỏi bạn công ty số ba là công ty nào, bạn có thể trả lời nhanh không? Có lẽ là Công ty Cà phê Starbucks và Dunkin 'Donuts? Hãy nhớ rằng chúng ta đang tìm kiếm những mẫu siêu cổ phiếu tiếp theo, đó là những Starbucks, Apple, Google trong tương lai. Năm 1981, MCI Communications đã thách thức công ty dẫn đầu vượt trội thị trường là AT & T. MCI đã ra báo cáo thu nhập tăng mạnh và giá cổ phiếu đã tăng trong 17 tuần và đạt mức cao mới vào ngày 2 tháng 4 năm 1981, nhưng đó mới chỉ là khởi đầu. Trong vòng 22 tháng tiếp theo, cổ phiếu của MCI tăng 500%.

    Một đối thủ cạnh tranh hàng đầu có thể không phải là công ty cao cấp trong một nhóm ngành công nghiệp hoặc thậm chí không có sản phẩm cao cấp so với các công ty dẫn đầu thị trường thực sự; thay vào đó, nó xuất hiện đúng nơi vào đúng thời điểm. Mặc dù nó có thể nằm trong cùng ngành cong nghiệp đang phát triển nhanh với tư cách là công ty dẫn đầu thị trường, nhưng các sản phẩm hoặc cửa hàng của công ty có thể kém phổ biến hơn hoặc theo cách nào đó kém hơn so với các công ty dẫn đầu. Những công ty “đối thủ cạnh tranh” này cũng có thể tạo ra tỷ lệ tăng trưởng thu nhập cao và nhà đầ tư sở hữu nó sẽ được tận hưởng mức tăng giá rất lớn, mặc dù thấp hơn so với các công ty dẫn đầu. Mặc dù vậy, công ty có vị trí số hai trong một ngành công nghiệp thậm chí có thể lấy thị phần của công ty dẫn đầu và trong một số trường hợp nó chiếm lấy vị trí số một. Khi đó Giá cổ phiếu của các đối thủ cạnh tranh hàng đầu có thể tái hiện lại sự tăng giá như ở công ty dần đầu, trong khi giá cổ phiếu các công ty dẫn đầu bị giảm bớt.

    Từ năm 1990 đến năm 2000, giá cổ phiếu của Home Depot tăng 3,700 phần trăm, nhiều hơn 40 phần trăm so với tỷ lệ tăng lợi nhuận gộp hàng năm. Trong thời gian đó, cổ phiếu của Lowe chỉ tăng 1.000 phần trăm, chỉ bằng khoảng một phần tư thị giá của Home Depot. Sau đó, từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 1 năm 2004, giá cổ phiếu Lowe đã tăng hơn 100% trong khi giá cổ phiếu của Home Depot thực sự giảm, thấp hơn 40% so với mức cao nhất của nó. Dẫn đến kết quả là trong vòng 14 năm, công ty Lowe tăng giá 2,900 % và Home Depot chỉ tăng 1.800 %. Home Depot đã trở thành công ty dẫn đầu trong hơn một thập kỷ, và các nhà đầu tư đã nhìn thấy tiềm năng của nó, và vấn đề giá giảm 40% chỉ xuất hiện khi họ lên tàu. Đáng ra họ đã có khoản lãi rất lớn nếu lên tàu Lowe thay vì đu đọt Home depot.

    Luôn theo dõi hai hoặc ba cổ phiếu dẫn đầu trong một nhóm ngành. Nhà cung cấp dịch vụ truy cập trực tuyến America Online là công ty dẫn đầu đạo rõ ràng trên thị trường Internet cho đến khi công cụ tìm kiếm Yahoo ra đời và giành lấy vị trí dẫn đầu. Google, một đối thủ cạnh tranh của Yahoo, sau đó được phổ biến và bây giờ GG được coi là mạnh số một trong các công cụ tìm kiếm. Một đối thủ cạnh tranh của các cong ty dẫn đầu thị trường có thể cung cấp một cơ hội đầu tư lớn, đặc biệt là nếu nó nằm trong một nhóm ngành công nghiệp đang phát triển mạnh mẽ. Giống như một tay đua luôn bám theo công ty dẫn đầu, chỉ chờ đợi đúng thời điểm để vượt qua kẻ dẫn đầu, một đối thủ cạnh tranh hàng đầu có thể bám theo sát gót một công ty dẫn đầu thị trường và cuối cùng giành được thị phần. Bạn nên tập trung vào hai hoặc ba cổ phiếu hàng đầu trong một nhóm: các công ty dẫn đầu về EPS, doanh thu, lợi nhuận và sức mạnh giá tương đối. Điều này đặc biệt đúng nếu nhóm ngành là một ngành dẫn đầu trong một thị trường tăng trưởng.

    Câu chuyện về cuộc chiến của Netflix Goes Public và Blockbuster Tops

    Không phải ngẫu nhiên mà chỉ trong vòng 15 phiên giao dịch cổ phiếu Netflix Goes Public có thể vĩnh viễn đá văng Blockbuster Video ra khỏi vị trí đứng đầu. Tất cả đều có nguyên do của nó. Khả năng cạnh tranh đã đưa nó lên vị trí dẫn đầu, Netflix Goes Public cung cấp một giải pháp thuận tiện hơn cho các doanh nghiệp cho thuê phim. Giá cổ phiếu của Blockbuster đang dẫn đầu vào thời điểm mà Netflix xuất hiện, tuy nhiên gần như toàn bộ số tiền từ cổ phiếu của Blockbuster đã bị rút ra và đổ hết vào đối thủ cạnh tranh mới của nó là Netflix. Tôi có thể thấy rõ câu chuyện này đang diễn ra trong khu phố tôi ở vì các cửa hàng cho thuê video đã lần lượt bị đóng cửa, và ngành công nghiệp cho thuê video bị loại bỏ khỏi thị trường.

    Khi thị trường thoát đáy vào 2009, Blockbuster đã gặp trở ngại trong việc phục hồi theo thị trường do bị tụt giảm doanh số bán hàng, cổ phiếu Blockbuster giao dịch ở mức rất thấp 0.13 đô la. Đây là một mức tụt giảm kinh hoàng so với mức cao nhất của nó là 18,00 đô la! Trong khi đó, vào ngày 18 tháng 3 năm 2009, chỉ bảy ngày sau khi Nasdaq Composite chạm đáy, và chỉ 10 ngày sau khi chỉ số Dowjone chạm đáy, Netfix đã vụt lên mức giá cao nhất nó từng đạt đến. Và chỉ 17 ngày giao dịch sau đó, giá cổ phiếu của Netflix tiếp tục tăng thêm 20%. Doanh số bán hàng của Netflix đã tăng tốc nhanh chóng trong ba quý trước tương ứng là 11 %, 16 % và 19 %. Thu nhập thậm chí còn tăng trưởng ấn tượng hơn, lần lượt tăng 36%, 38% và 58%. Vào tháng 10 năm 2009, tôi đã mua cổ phần Netflix. Các chỉ số thu nhập, doanh thu, lợi nhuận, lợi tức trên vốn chủ sở hữu và mức nợ của Netflix đều vượt trội so với Blockbuster. Netflix được giao dịch ở mức PE=32 trong khi Blockbuster giao dịch ở mức PE=2. Cổ phiếu nào thực sự là cổ phiếu “rẻ”? Từ thời điểm mà Netflix được chào bán ra công chúng, giá cổ phiếu đã tăng hơn 3.400%. Trong cùng thời gian, giá cổ phiếu của Blockbuster đã mất 99% giá trị.

    Các công ty được các tổ chức yêu thích

    Các công ty được các tổ chức yêu thích, còn được gọi là các công ty chất lượng hoặc các cổ phiếu tăng trưởng, nhưng đừng để những tiêu đề đó gây ấn tượng với bạn quá nhiều. Đây là những công ty đã trưởng thành, và chúng chắc chắn không có gì bí mật. Các công ty này thường có lịch sử tốt về doanh thu và mức tăng cổ tức đồng nhất và chúng thường thu hút vốn của các tổ chức bảo thủ do lịch sử đã chứng minh về khả năng tăng thu nhập, mở rộng lợi nhuận và tạo giá trị cho cổ đông. Tăng trưởng thu nhập của loại này nói chung là ở mức độ từ thấp đến trung bình. Các công ty này được coi là những công ty có nhiều khả năng sẽ không bị loại bỏ khỏi thị trường. Ví dụ một vài cái tên như Coca-Cola, Johnson & Johnson, và General Electric. Mặc dù tất cả những điều này nghe thì có vẻ cũng hay hay, nhưng có một vấn đề là loại công ty này thường lớn và chậm chạp khi chúng đạt đến trạng thái được các tổ chức yêu thích. Mặc dù thu nhập của chúng được coi là nhất quán và có chất lượng cao, nhưng thường thì tốc độ tăng trưởng chậm và các công ty này được theo dõi rộng rãi nên có rất ít dư địa để tăng giá nhanh.

    Ở một số giai đọn thị trường, các cổ phiếu này có thể có lợi và hoạt động khá tốt. Tuy nhiên, bạn sẽ không có khả năng có được một mức tăng giá thần tốc khi đầu tư vào General Electric hoặc Procter & Gamble. Đôi khi việc quản lý kém, một số sai lầm trong chiến lược, hoặc một sự điều chỉnh mạnh trong thị trường gấu sẽ khiến một số công ty này giảm xuống một cách dứt khoát. Khi các cổ phiếu phục hồi, chúng có thể tạo ra một bước tăng giá tốt sau giai đoạn điều chỉnh.

    Các công ty quay đầu thoát khỏi khó khăn

    Có thể đầu tư vào Các doanh nghiệp lớn khi mà các công ty đó thoát khó khăn và trở lại vị thế của nó. Khi theo đuổi loại công ty này, bạn nên tìm kiếm các công ty có kết quả kinh doanh tăng rất mạnh trong hai hoặc ba quý gần đây nhất. Bạn cần phải tìm thấy ít nhất thu nhập tăng mạnh 25-50%, càng cao càng tốt, đủ để nâng EPS 4 quý đến gần hoặc cao hơn mức cao nhất cũ của nó. Khi nhìn vào các công ty này hãy tự hỏi:

    Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh cốt lõi có đang phục hồi hay không và chúng đang phục hồi về đỉnh hay gần đỉnh?
    Các kết quả kinh doanh chỉ dựa trên cắt giảm chi phí?
    Công ty đang làm gì để tăng thu nhập ngoài cắt giảm chi phí, có cải tiến năng suất và cắt giảm các hoạt động gây thua lỗ?
    Công ty có bao nhiêu tiền mặt? Mặc dù công ty có thể tiêu hết tiền mặt, nhưng bạn có thể cố gắng đánh giá tỷ lệ chi tiêu tiền mặt và khả năng gánh nợ để có được một ý tưởng xem trong công ty có thể kéo dài hoạt động trong bao lâu khi đang gặp khó khăn. Công ty có bao nhiêu nợ? Nợ ngân hàng là loại nợ tồi tệ nhất và ít thuận lợi hơn nợ trái phiếu. Công ty có thể hoạt động trong bao lâu trước khi nó giải quyết được các vấn đề của nó?

    Điều quan trọng là phải theo dõi câu chuyện và xác định xem liệu công ty đang sống lại này có thể hoạt tốt hơn, tệ hơn, hay như mong đợi. Nếu công ty hoạt động tệ hơn dự kiến thường là lý do để xem xét bán cổ phiếu. Tôi tìm kiếm khả năng tăng trưởng nhanh trong hai quý gần đây nhất, còn tốc độ tăng trưởng trong ba năm và một năm thì thường là âm hoặc tăng trưởng rất chậm. Những câu hỏi quan trọng nhất trước khi mua cổ phiếu là: Cổ phiếu có hoạt động tốt trên thị trường không? Các chỉ số cơ bản có mạnh không? Điều quan trọng là phải nhìn thấy kết quả gần đây nhất: tăng trưởng 100% trở lên trong hai hoặc ba quý gần nhất và tăng trưởng mạnh so với tốc độ tăng trưởng giai đoạn trước đó.

    Hãy nhớ rằng, cổ phiếu không nhất thiết phải nằm trong 1 loại danh mục mãi mãi. Đây là lý do tại sao điều quan trọng là phải hiểu được động lực đang diễn ra liên quan đến sản phẩm và dịch vụ của công ty và tiềm năng tăng trưởng doanh thu của nó. Ví dụ Apple Computer từ một công ty thoát khó khăn trở thành một cổ phiếu tăng trưởng và sau đó trở thành cổ phiếu được các tổ chức yêu thích. Từ năm 2001 đến năm 2003, doanh thu và lợi nhuận bị áp lực nặng nề, dẫn đến thu nhập không ổn định và trở thành cổ phiếu giảm; giá cổ phiếu của Apple đã giảm hơn 80% từ mức cao nhất của nó. Mọi thứ trở nên ảm đạm đến nỗi khi Michael Dell (sáng lập hãng sản xuất máy tính đối thủ Dell Inc.) được hỏi ông sẽ làm gì nếu ông điều hành Apple, ông nói ông sẽ “đóng cửa và trả lại tiền cho các cổ đông”. Tuy nhiên, một sản phẩm mới có thể mang lại một sức sống mới cho một công ty không hoạt động. Việc phát hàng iPod vào năm 2001 và iTunes vào năm 2003 thúc đẩy một bước ngoặt lớn nhất trong lịch sử doanh nghiệp. Từ năm 2003 đến năm 2011, tỷ suất lợi nhuận ròng của Apple hàng năm chỉ từ 1,2% tăng một cách ấn tượng lên 23,9%. Trong thời gian đó, doanh thu tăng trưởng trung bình 39 % mỗi năm. Với việc mở rộng nhanh chóng lợi nhuận và doanh thu, làm thu nhập tăng vọt trung bình 114% mỗi năm. Từ mức giá thấp năm 2003, giá cổ phiếu của Apple đã tăng hơn 10.000%; 73% của sự tăng trưởng phi thường đó đến từ các sản phẩm mới ra mắt.
  8. nvtunggli

    nvtunggli Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    20/11/2015
    Đã được thích:
    908
    Chương 5 (tiếp theo)
    ĐỪNG CỐ GẮNG BẮT ĐÁY

    Tôi có thể cho bạn biết từ kinh nghiệm cố bắt cá đáy ao - cố gắngmua một cổ phiếu tại đáy hoặc ở gần đáy sẽ làm cho ta bực bội mà không có kết quảtốt. Ngay cả khi bạn đủ may mắn để chọn mua chính xác tại đáy thì lợi nhuận đem lại cũng không đáng kể vì bạn phải chờ đợi giá cổ phiếu tăng mất nhiều tháng và trong một số trường hợp phải mất nhiều năm, bởi vì khi bạn mua một cổ phiếu gầndưới đáy, nó đang ở giai đoạn 4 hoặc giai đoạn 1 của chu kỳ giá, theo định nghĩa ở trên thì còn lâu nó mới vào giai đoạn tăng gía.

    Mục tiêu của tôi không phải là mua cổ phiếu ở mức giá thấp nhất hoặc rẻ nhất màlà mua tại mứcgiá “đúng”, lúc này cổ phiếu đã sẵn sàng để di chuyển lên cao hơn đáng kể. Cố gắng chọn đáy là không cần thiết và lãng phí thời gian; bỏ lỡ cáccơ hội lớn của bạn. Để đạt được thành tích siêu hạng, bạn cần phải tối đa hóa hiệu ứng của lãi kép; do đó, điều quan trọng là tập trung vào các cổ phiếu di chuyển nhanh chóng sau khi bạn mua chúng. Bạn phải tập trung vào các cổ phiếu di chuyển theo xu hướng giao dịch của bạn. Để thực hiện điều này, bạn nên chờ giai đoạn 2 tăng giá hình thành trước khi bạn đầu tư.
    MaiSieuPhongtoni11 thích bài này.
  9. khucngoctuyen2015

    khucngoctuyen2015 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    24/07/2015
    Đã được thích:
    11.393
    Tiếp chương 6

    CÁC CỔ PHIẾU CHU KỲ

    Mua một cổ phiếu chu kỳ sau vài năm đạt lợi nhuận kỷ lục, khi tỷ lệ P/E từ mức cao giảm xuống mức thấp là phương pháp đầu tư đã được thực tế chứng minh sẽ làm cho bạn cháy 50% tài khoản trong một khoảng thời gian ngắn.

    (Peter Lynch)

    Một công ty chu kỳ là một công ty nhạy cảm với sự biến đông của nền kinh tế hoặc nhạy cảm với sự biến động của giá hàng hóa. Ví dụ như các công ty sản xuất ô tô, các công ty sản xuất thép, các cổ phiếu sản xuất giấy và các công ty hóa chất. Thật thú vị, cổ phiếu chu kỳ có chu kỳ P/E nghịch đảo, có nghĩa là chúng thường có tỷ lệ P/E cao khi chúng bắt đầu bước vào thời kỳ tăng giá và chúng có P/E thấp ở gần cuối chu kỳ tăng giá. Các nhà đầu tư tăng trưởng có thể trở nên bối rối khi cố gắng áp dụng mô hình tăng trưởng EPS vào quá trình lựa chọn các cổ phiếu chu kỳ, và kết quả là các cổ phiếu họ chọn không đáp ứng kỳ vọng tăng giá như khi chọn một công ty sở hữu chuỗi bán lẻ hay một công ty công nghệ sẵn sàng tăng trưởng cao trong nhiều quý tiếp theo, hoặc thậm chí là tiếp tục tăng trưởng trong nhiều năm. Đây là lý do tôi đặt chúng vào một danh mục riêng và áp dụng cách tiếp cận hơi khác so với các loại cổ phiếu có triển vọng tăng trưởng bền vững.

    Inventories and supply and demand are important variables in analyzing the dynamics of cyclical stocks. When the P/E ratios of cyclical stocks are very low after earnings have been on the rise for many months or several years, it’s often a sign that they’re near the end of their up cycle. When P/Es are superhigh and you’ve heard nothing but doom and gloom about the company or industry for an extended period, the bottom may be near.

    Với các cổ phiếu chu kỳ, có một mẹo là xác định liệu chu kỳ tiếp theo có xảy ra sớm hơn hay muộn hơn bình thường. Hàng tồn kho, nguồn cung và nhu cầu sản phẩm là những biến số quan trọng trong việc phân tích động thái của các cổ phiếu chu kỳ. Khi tỷ lệ P/E của các cổ phiếu chu kỳ giảm xuống rất thấp do lợi nhuận đã tăng mạnh trong nhiều tháng hoặc vài năm, thì đây thường là dấu hiệu cho thấy chúng ở gần cuối chu kỳ tăng trưởng. Còn khi mà cổ phiếu đang có mức P/E siêu cao và bạn không hề nghe thấy gì ngoài việc nhà đầu tư đang phải chịu đựng trước tương lại u ám của công ty hoặc của ngành công nghiệp trong một thời gian dài thì đáy có thể đang ở gần đây.

    Tại đáy của cổ phiếu chu kỳ:

    1. EPS đang tuột dốc.

    2. Công ty không trả cổ tức

    3. Tỷ lệ P / E cao.

    4. Tin tức nói chung là xấu.

    Ở đỉnh của một cổ phiếu chu kỳ:

    1. EPS đang tăng lên.

    2. Cổ tức đang được nâng lên.

    3. P / E thấp.

    4. Tin tức nói chung là tốt.

    Hãy Tránh xa các công ty tụt hậu

    Một công ty tụt hậu là một cổ phiếu cùng nhóm với các công ty dẫn đầu thị trường nhưng có hiệu suất tăng giá thấp hơn và trong hầu hết các trường hợp chúng có tốc độ tăng trưởng EPS và tăng trưởng doanh thu thấp. Những cổ phiếu này có thể có giai đọan thể hiện tốt thường là trong thời gian rất ngắn khi chúng cố gắng bắt kịp các công ty dẫn đầu ở gần cuối của chu kỳ hoặc tăng nóng trong thời gian ngắn khi các công ty dẫn đầu đã tăng tốc. Tuy nhiên, mức tăng giá ở các cổ phiếu tụt hậu thường mờ nhạt so với mức tăng giá của các công ty dẫn đầu thực sự.

    Độ trễ thường xuất hiện ở cổ phiếu tụt hậu nên giá của chúng tương đối rẻ so với các công ty dẫn đầu và thu hút các nhà đầu tư không có kỹ năng. Đừng để bản thân bị cám dỗ bởi một cổ phiếu có P/E tương đối thấp hoặc một cổ phiếu không được định giá cao như những công ty dẫn đầu trong ngành công nghiệp. Luôn có một lý do giải thích cho việc một cổ phiếu giao dịch ở mức P/E cao và một cổ phiếu khác giao dịch ở mức P/E thấp. Như tôi đã nói nhiều lần, công ty dẫn đầu ngành công nghiệp có vẻ đắt nhưng thực ra lại đang rẻ và các công ty tụt hậu có vẻ đang rẻ thực ra là một lựa chọn đắt đỏ hơn vì khả năng sinh lời của nó thua xa công ty dẫn đầu khiến bạn phải trả thêm một khoản chi phí cơ hội không hề nhỏ.

    Qua nhiều năm, có nhiều người nghĩ rằng mua Wild Oats, một đối thủ nhỏ hơn của Whole Foods, là cách tốt hơn để đầu tư vào xu hướng thực phẩm sạch vì chỉ số P/E thấp hơn. Nhưng có một lý do chính đáng cho mức P/E thấp của Wild Oats là nó thất bại trong việc tạo ra sự tăng trưởng lợi nhuận. Các nhà đầu tư tập trung vào cổ phiếu có lợi nhuận tăng trưởng đã kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách sở hữu Whole Foods mặc dù nó được cho là đắt hơn Wild Oats.

    Whole Foods hiếm khi giao dịch dưới mức P/E 30 trong giai đoạn tăng trưởng ấn tượng của nó. Trên thực tế, không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều nhà đầu tư bán Whole Foods và chuyển sang một công ty bán lẻ ở mức P/E cao như vậy, nhưng nếu họ hiểu được cơ hội tăng trưởng thì P/E cao sẽ không có vấn đề gì nhiều. Chìa khóa cho Whole Foods là khả năng tăng trưởng EPS ở mức cao, trung bình hơn 20%. Bằng cách đó, cổ phiếu đã trả cho các nhà đầu tư một phần thưởng lớn.


    Figure 6.3 Whole Foods (WFMI) vs. Nasdaq Composite Index 1993–2005

    From 2000 through 2005, the stock price for Whole Foods increased eightfold. In the same period, the Nasdaq Composite fell more than 50 percent
  10. nvtunggli

    nvtunggli Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    20/11/2015
    Đã được thích:
    908
    Tiếp chương 5:

    SỰ CHUYỂN TIẾP TỪ GIAI ĐOẠN 1 SANG GIAI ĐOẠN 2



    Giai đoạn 2 thường bắt đầu với ít hoặc không có cảnh báo; không có thông báo hoặc tin tức về công ty. Tuy nhiên, một điều chắc chắn xảy ra trong giai đoạn 2 được thể hiện qua khối lượng tăng đáng kể khi cổ phiếu đang có lượng cầu vào lớn cùng với giá tăng theo ngày và tuần, và khối lượng sẽ giảm nhẹ khi cổ phiếu điều chỉnh giảm sau đó. Thông thường cổ phiếu phải tăng đột biến từ nền giá với mức tăng ít nhất 25-30% so với mức thấp nhất trong 52 tuần trước khi bạn kết luận rằng giai đoạn 2 đang được tiến hành và cân nhắc mua.

    Trong hình dưới đây, lưu ý rằng đường trung bình động di động 200 ngày của cổ phiếu Amgen từ trạng thái đi ngang chuyển sang xu hướng tăng rõ ràng. Đường trung bình động 150 ngàyvượt lên trên đường trung bình động 200 ngày và cổ phiếu đang giao dịch bên trên cả đường trung bình động 150 ngày và 200 ngày trong giai đoạn tăng giá.

    Lưu ý rằng, khối lượng tăng lên mạnh khi giá tăng, khối lượng giảm xuống khi giá điều chỉnh. Đối với cổ phiếu Amgen, kể từ khi bắt đầu vào giai đoạn 2 rõ ràng, giá cổ phiếu đã tăng hơn 80% so với mức đáy 52 tuần của nó. Đây sẽ là điểm mà tại đó tôi sẽ bắt đầu xem xét một giao dịch mua mới;bất kỳ điểm vào lệnh nào sớm hơn thiếu sự xác nhận cổ phiếu vào giai đoạn 2 được xem là quá sớm, có nghĩa là bạn sẽ có nguy cơ bị mắc kẹt tiền trong đống cổ phiếu không tăng giá. Hầu hết những người nghiệp dư sẽ nghĩ rằng cổ phiếu đang quá cao và họ mong muốn mua nó khi có giá thấp hơn, nhưng điều đó đã muộn. Đó là lý do tại sao hầu hết những người nghiệp dư không kiếm được nhiều tiền trong giao dịch cổ phiếu.


    TIÊU CHÍ CHUYỂN TIẾP

    1. Giácổphiếuphảinằmtrêncảđườngtrungbìnhdiđộng150ngày và đường trung bình di động 200 ngày.

    2. Đường trung bình đi động 150 ngày phải nằm trên đường trung bình di động 200ngày.

    3. Đườngtrungbìnhdiđộng200ngàyđang hướng lên.

    4. Cổ phiếu thiết lập đỉnh sau cao hơn đỉnh trước.

    5. Các tuần tăng giá khối lượng tăng đột biến tương ứng với các tuần giảm giá (điều chỉnh) khối lượng giảm.

    6. Số tuần khối lượng tăng cao hơn số tuần khối lượng giảm.

    GIAI ĐOẠN 2 - PHA TĂNG GIÁ: TĂNGTỐC


    Mặc dù nó có thể đến bất ngờ, giai đoạn 2 trước khi xảy ra cũng có thể được tác động bởi những tin tức bất ngờ như sự thay đổi có tính pháp lý có lợi, triển vọng kinh doanh đầy triển vọng hoặc một CEO mới có tầm nhìn có thể cải thiện triển vọng của công ty. Hoặc có thể đó là công ty mới đột nhiên có một khoản thu nhập lớn bất ngờ bỡi yếu tố vĩ mô ngành có lợi cho công ty.

    Khi gió thay đổi và trở nên rõ ràng ở phía sau bạn, giai đoạn 2 báo hiệu tiềm năng cho con thuyền tiến mạnh về phía trước. Với đà tích luỹ trongthu nhập (hoặc trong một số trường hợp kỳ vọng thu nhập), giá cổ phiếu bắt đầu đẩy lên cao vì nhu cầu tăng đối với cổ phiếu khi các tổ chức lớn tăng quy mô mua vào. Biểu đồ giá và khối lượng hàng ngày và hàng tuần sẽ hiển thị các thanh lớn thể hiện khối lượng lớn bất thường trong các đợt tăng giá, ngược lại khối lượng giảm khi giá điều chỉnh. Những dấu hiệu tăng tốc này luôn xuất hiện trong mọi giai đoạn 2 của cổ phiếu.

    Trong quá trình diễn ra giai đoạn 2, cổ phiếu tăng lên theo mô hình bậc thang đỉnh sau cao hơn đỉnh trước. Giá cổ phiếu có thể tăng gấp đôi hoặc thậm chí gấp ba lần vào thời điểm này; tuy nhiên, đây có thể chỉ là khởi đầu, giá cổ phiếu vẫn có thể tăng đáng kể. Nếu công ty tiếp tụcđem lại thu nhập cao, tốc độ tăng trưởng cao sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư chú ý và mua đểđẩy giá lên cao, đặc biệt nếu công ty đã báo cáomột vài phần lợi nhuận tăng trưởng ấn tượng.


    ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI ĐOẠN 2

    · Giácổphiếuphảinằmtrênđườngtrungbìnhdiđộng200 ngày (40tuần).

    · Đườngtrungbìnhdiđộng200 đang ở xu hướng tăng

    · Đường trung bình đi động 150 ngày (30 tuần) phải nằm trên đường trung bình di động 200ngày (40 tuần).

    · Giácổphiếu đang ở trong xu hướng tăng rõ ràng, được xác định bởi đỉnh sau cao hơn đỉnh trước trong mô hình bậc thang.

    · Đường trung bình động ngắn hạn nằm trên đường trung bình động dài hạn(vídụ: đường trung bình động 50 ngày nằm trên đường trung bình động 150ngày)

    · Khối lượng tăng đột biến vào những ngày giá mạnh và các tuần tăng giá mạnh, ngược lại khối lượng giảm trong quá trình giảm giá bình thường.

    · Có nhiều ngày và nhiều tuần giá và khối lượng trung bìnhtăng hơn so với số ngày và số tuần giá và khối lượng trung bình giảm.
    MaiSieuPhongtoni11 thích bài này.

Chia sẻ trang này