Tấn công tiền tệ liệu có xảy ra với VNĐ? (tác giả Giáng Lê)

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi futureprecedor, 02/06/2008.

8523 người đang online, trong đó có 768 thành viên. 17:07 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 8627 lượt đọc và 102 bài trả lời
  1. corebanking

    corebanking Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/02/2008
    Đã được thích:
    0
    Đang định làm một topic riêng nhưng bị ông bignob khóa, bực hết cả mình. Hay là ông ấy sợ mình làm rối lòng dân bằng sự thật ????
    -------------------------------------------------------------------------------------
    Khủng hoảng tài chính Đông Á (tiếp)


    Diễn biến

    Thái Lan

    Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.

    Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.

    Philippines

    Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.

    Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.

    Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống.

    Hong Kong

    Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ).

    Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.

    Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.

    Hàn Quốc

    Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.

    Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.

    Malaysia

    Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.[8]

    Indonesia

    Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.

    Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.

    Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.

    Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.

    Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.

  2. thangacc

    thangacc Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/09/2006
    Đã được thích:
    0
    Tôi nghĩ cách tấn công theo kiểu này dễ xảy ra hơn (dễ thôi chưa chắc chắn).

    Việc vay VNĐ từ hệ thống ngân hàng thương mại, mua USD từ hệ thống NHTM và chuyển USD từ ngân hàng TM ra nước ngoài(các điều kiện 1, 2, 4) thực ra rất dễ thực hiện, nhất là trong bối cảnh giữa năm 2006 đến cuối năm 2007, khi mà chính phủ ồ ạt triển khai các dự án. Tôi lấy ví dụ như sau:

    - Trước hết, anh rót vốn đầu tư vào 1 dự án, tạo tài sản để thế chấp, sau đó anh thế chấp chính dự án cùng những tài sản đã có của anh vào ngân hàng và vay VNĐ để nhập khẩu máy móc thiết bị (mà anh bảo là) để thực hiện dự án đó (thế là có VNĐ (ĐK 1)), rõ ràng là khi nhập khẩu anh phải thanh toán ra nước ngoài = USD từ đó anh làm hợp đồng ngoại hối mua USD để thanh toán các máy móc thiết bị cho nước ngoài (đây vừa là mua USD (ĐK 2) vừa chuyển được USD ra nước ngoài (ĐK 4). Vấn đề là ở chỗ giá trị 1 cái máy anh mua có thể là 10.000 USD nhưng anh có thể khai giá nó 100.000 USD (máy thì không có thuế NK, mà giá trị cao càng dễ cho anh trốn thuế thu nhập về sau ->càng có lợi), thế là USD anh đã chuyển được ra nước ngoài hợp pháp và cái công ty bán máy cho anh thực chất chính là công ty của anh ở nước ngoài.

    Trong điều kiện VN năm năm 06 và 07 thì việc vay vốn ngân hàng rất dễ dàng chứ không bị kiểm soát như bây giờ, VNĐ lúc đó cũng rất dồi dào và có 1 điều tôi khẳng định được là việc cho vay của ngân hàng không bị phụ thuộc nhiều vào tài sản thế chấp, anh có 10 tỷ đồng tài sản thế chấp nhưng anh có thể vay được 100 tỷ, miễn là có tài sản thế chấp (có tài sản thế chấp chứ không phải là có đủ tài sản thế chấp cho khoản vay)

    - ĐK thứ 5 thì rõ ràng quá rồi, chúng ta rõ ràng đang thực hiện chính sách neo tỷ giá khiến VNĐ bị đánh giá cao hơn nhiều giá trị thực.

    - ĐK 3, một tỷ trọng lớn vốn đầu tư nước ngoài vào nước sở tại là vốn đầu tư ngắn hạn; cái này tôi chưa chắc nên không dám phân tích. Bác nào rành về cái này thử phân tích thử xem liệu có không thể như trang web của Quốc hội nói không?

    Kết luận: 5 điều kiện đưa ra thì có 4 là có thể thực hiện được rồi, có thể nó đã được thực hiện rồi, rất nguy hiểm. Bây giờ nếu muốn chắc chắn VNĐ không bị tấn công theo cách này chỉ có thể là khi NHNN công bố họ nắm rõ tất cả VNĐ hiện đang nằm ở đâu? Ở khâu nào? Mà hình như hiện nay có 1 lượng lớn tiền mặt NHNN đang không biết nó nằm ở đâu thì phải.
  3. corebanking

    corebanking Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/02/2008
    Đã được thích:
    0
    Bây giờ thì bác locphat đã hiểu ý của em bên kia rồi nhớ, đừng có trách người kẻo lại trách mình trước bác ạ
  4. giaiphapnao

    giaiphapnao Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2007
    Đã được thích:
    0

    cái màu vàng này hình như hơi đúng, VND sao giờ khan hiếm thế kô biết,
  5. leader001

    leader001 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/07/2007
    Đã được thích:
    2
    Nhằm rộng đường dư luận, góp thêm tiếng nói đa chiều, các bác cùng đọc bài sau nhé !

    http://vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id=52d634f1742a45

    Tiền đang ở đâu?



    Mười lăm giờ chiều thứ Ba, ngày 26/2/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có công điện khẩn gửi chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc các ngân hàng thương mại về việc điều chỉnh lãi suất huy động vốn.

    Theo đó lãi suất tiết kiệm của các ngân hàng phải đảm bảo dương so với lạm phát nhưng không được quá trần 12%/năm. Việc ấn định trần lãi suất huy động là nhằm chấm dứt tình trạng tiền chạy lòng vòng từ ngân hàng này qua ngân hàng khác, nơi có lãi suất tiền gửi cao hơn. Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các ngân hàng quốc doanh, nếu trúng thầu tiền đồng trên thị trường mở, thì khi cho các ngân hàng khác vay lại, chỉ được cộng thêm lãi suất tối đa là 1 điểm phần trăm/năm.

    Tuy nhiên, ngay khi nhận được công điện, các ngân hàng lập tức lên kế hoạch huy động vốn mới bằng cách áp dụng triệt để các hình thức tiết kiệm dự thưởng, gửi tiền có tặng quà. Thậm chí có ngân hàng tặng quà cho khách hàng bằng vàng, bằng tiền và nhận ngay khi gửi tiền. Như thế trần lãi suất có nguy cơ trở nên vô hiệu hóa bởi thực tế lãi suất tiết kiệm vẫn cao hơn mức trần. Các ngân hàng nói họ đang rất cần vốn để đảm bảo dự trữ bắt buộc, để chuẩn bị mua tín phiếu bắt buộc và nếu điều chỉnh lãi suất thấp, vốn sẽ không chảy vào két ngân hàng nhiều như mong đợi.

    Ngân hàng thiếu tiền, chuyện tưởng chừng vô lý ấy đang tồn tại. Vậy tiền đang ở đâu và chuyện gì đã thực sự diễn ra đằng sau cơn ?osốt? lãi suất vừa rồi?

    Đầu năm 2008 Bộ Tài chính đề nghị Ngân hàng Nhà nước đổi một số lượng lớn ngoại tệ ra tiền đồng để chi ngân sách. Ngân hàng Nhà nước chỉ đáp ứng được 10% số ngoại tệ đưa ra vì theo kế hoạch lượng tiền mà cơ quan này phải hút vào để kiềm chế lạm phát trong quí 1/2008 hoàn toàn không nhỏ. Trong bối cảnh đó Bộ Tài chính buộc phải rút tiền đồng gửi ở một số ngân hàng quốc doanh.

    Việc rút ngay một lúc lượng tiền lớn đã khiến ít nhất một ngân hàng quốc doanh lớn trở tay không kịp. Ngân hàng này liền tất toán các khoản tài trợ liên ngân hàng dành cho các ngân hàng cổ phần, đồng thời ?ocầu cứu? Ngân hàng Nhà nước qua kênh thị trường mở (may mắn là ngân hàng này nắm giữ nhiều trái phiếu, đủ để giao dịch trên thị trường mở).

    Bị rút các khoản vay bất ngờ, dù là ngắn hạn, nhiều ngân hàng cổ phần lâm vào tình trạng khó khăn. Cùng lúc đó Ngân hàng Nhà nước tăng cường độ hút tiền về, dự trữ bắt buộc được nâng lên và vốn huy động sau Tết lại giảm. Các ngân hàng bắt đầu vay mượn lẫn nhau, đẩy lãi suất lên.

    Việc sử dụng ngoại tệ chi thay ngân sách lần này không phải là lần đầu, nhưng nó là giọt nước làm tràn ly. Theo các chuyên gia lâu năm trong giới tài chính, năm 2007 khi ngoại tệ từ nhiều nguồn dồn dập chảy vào Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính đã dùng một khối lượng ngoại tệ đáng kể mua được để chi thay ngân sách (thực chất là chi cho những khoản mục mà đáng lẽ ngân sách phải chi, nhưng không thể chi vì bị thâm hụt) trong đó có việc sử dụng ngoại tệ để cấp vốn cho các ngân hàng quốc doanh.

    Việc cấp vốn được thực hiện bằng tiền đồng in ra tương ứng, không phải bằng tiền ngân sách như những năm trước. (Nhờ việc cấp vốn này tình hình tài chính của các ngân hàng quốc doanh được cải thiện và nó giúp các ngân hàng tăng tiềm lực tài chính trước khi cổ phần hóa). Đây quả là điều nguy hiểm bởi dùng ngoại tệ cấp vốn cho ngân hàng quốc doanh đã thực sự tạo ra cung tiền lớn hơn nhiều.

    Ai cũng biết ngân hàng là định chế tài chính tạo tiền và phương tiện thanh toán nhiều nhất so với các kênh khác. Hơn nữa việc cấp vốn ngoại tệ lại diễn ra ồ ạt, khối lượng lớn, tập trung vào một thời điểm không thuận lợi làm lạm phát tăng cao. Nếu vốn được cấp dàn đều cả năm, thậm chí nhiều năm, vào những thời điểm thích hợp, thì tác động của nó lên cung tiền sẽ không mãnh liệt như thời gian qua.

    Rõ ràng việc sử dụng ngoại tệ để chi thay ngân sách là một sai lầm. Đó là chưa kể nguồn ngoại tệ đó, qua con đường đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách, được giải ngân cho hàng loạt dự án, nhưng không phải tất cả 100% dự án đều hiệu quả. Ngân sách có tiền đồng, ngoại tệ lại chảy vào ngân hàng thương mại và ngân hàng dùng ngoại tệ đó cho vay nhập khẩu. Nghĩa là ngoại tệ lại ra khỏi đất nước.

    Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân, cho dù bị các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) gây sức ép, nhưng đến nay Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa công khai dự trữ ngoại hối quốc gia? Người dân đóng thuế liệu có quyền được hỏi dự trữ ngoại hối bây giờ so với năm ngoái ở tình trạng như thế nào?

    Như vậy từ ngân sách, qua ngân hàng, tiền đã được đưa ra lưu thông và vấn đề là bao nhiêu phần trăm lượng tiền đó thực sự đi vào sản xuất kinh doanh, làm nên tăng trưởng kinh tế? Tiền ra nhưng đã không quay trở lại ngân hàng đủ mức cần thiết vì có những cơ hội kinh doanh mà người ta có thể sử dụng tiền mặt hay phương tiện thanh toán khác như vàng, bất động sản.

    Chính vì thế hút tiền về qua kênh thị trường mở, qua phát hành trái phiếu đã không đủ hiệu quả. Bây giờ để chống lạm phát, thì hút tiền về qua kênh ngân hàng là không đủ, mà cùng với đó là đòi hỏi phải kiểm soát việc chi ngân sách một cách căn cơ, thắt lưng buộc bụng hơn. Lạm phát sẽ chỉ bị đẩy lùi một khi các giải pháp tài chính - ngân hàng được phối hợp ăn ý.
  6. buonbanCP

    buonbanCP Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2007
    Đã được thích:
    960
    Em chả hiểu lắm, tiền đồng thì ở Vn chứ đi đâu
    lạm phát cả thôi
    Hồi trước lương 1 tr chẳng hạn, mua được 10 quả trứng, giờ LP chỉ mua được 5 quả thôi, cảm thấy thiếu tiền
  7. bumchatbum

    bumchatbum Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Đã được thích:
    0
    Tiền đồng đang ở đâu là câu hỏi đau đầu của các bác ở NHNN bây h. Theo em một phần tiền đồng chôn trong vàng cũng nhiều lắm, mỗi năm mấy chục nghìn tỉ bị chôn trong vàng với mục đích chủ yếu là cất trữ.
  8. chuthangbom

    chuthangbom Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/07/2007
    Đã được thích:
    0
    He he, khi nào vnđ được đảm bảo bằng vàng thì NHNN đỡ đau đầu!!!
  9. bumchatbum

    bumchatbum Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Đã được thích:
    0
    Các bác cho em hỏi là để tấn công VNĐ chẳng hạn, các hedge dự đoán dự trữ ngoại hối của VN là 30 tỉ $ thì họ cần bao nhiêu tiền mới tấn công được? (giả sử là các điều kiện khác đáp ứng hết để họ tấn công). Thanks mọi người
  10. thangacc

    thangacc Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/09/2006
    Đã được thích:
    0
    Khe hở để tây nó có thể tấn công VNĐ là việc cho phép ngân hàng TM phát vay bằng VNĐ để mua USD thanh toán các khoản nhập khẩu hàng hóa bằng đồng USD, và việc không hạn chế số lượng USD được phép thanh toán ra nước ngoài, miễn nó đúng là để thanh toán tiền hàng có hợp đồng, có tờ khai là được phép chuyển. Việc không kiểm soát, hoặc kiểm soát không chặt lượng USD chuyển vào VN cũng là 1 phần điều kiện để thực hiện tấn công (USD chuyển ngược vào VN để mua VNĐ thanh toán cho các hợp đồng vay bằng VNĐ)

    Nhưng nếu thế thì NHNN cũng có thể rà soát các khoản phát vay của các NHTM, tìm ra kẻ nào đang vay nhiều VNĐ thì chính là kẻ đang có ý định tấn công VNĐ. Khống chế chúng ngay từ đầu thì sẽ giảm được nguy cơ.

Chia sẻ trang này