Tấn công tiền tệ liệu có xảy ra với VNĐ? (tác giả Giáng Lê)

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi futureprecedor, 02/06/2008.

8523 người đang online, trong đó có 768 thành viên. 17:08 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 8627 lượt đọc và 102 bài trả lời
  1. giaiphapnao

    giaiphapnao Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2007
    Đã được thích:
    0

    bài viết mang tính tham khảo nhưng khá hay, chúng ta hãy chờ xem thực tế sẽ ntn,
  2. tio361

    tio361 Super Moderator Thành viên ban quản trị

    Tham gia ngày:
    25/04/2006
    Đã được thích:
    2.680
    ko phải tự nhiên mà cứ trung bình 1,62 ngày VinaShin cho ra đời một công ty con đâu. Có kế hoạch cả đấy.
  3. aliaka

    aliaka Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/05/2008
    Đã được thích:
    9
    Có liên quan gì đến "kỹ thuật quân sự" không cụ Tio? http://www10.ttvnol.com/forum/f_319/1055308.ttvn keke...
  4. thangacc

    thangacc Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/09/2006
    Đã được thích:
    0
    Đúng là điều này không thể xảy ra hoặc rất khó xảy ra ở VN. Nếu Hedge funds ký hợp đồng mua ngoại tệ có thời hạn, thì họ tương ứng sẽ là nhà nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào VN, mà như thế nghĩa là họ cũng phải có đại diện tại VN mới đứng ra nhập khẩu được (vì thế mới ký được hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn), mà nếu thế thì rất dễ tìm ra họ là ai --> quá nguy hiểm (vì rất dễ cho họ vào tù.)

    Thứ 2 là hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn của các ngân hàng VN đang giao dịch thì đa phần họ ký lại hợp đồng mua ngoại tệ với một đối tác nước ngoài và thu về phần chênh lệch gọi là phí thôi (cái này giống như tái bảo hiểm), chứ ngân hàng VN thì chắc chắn không dám tự ôm hợp đồng kỳ hạn, nghĩa là không phát sinh nhu cầu mua ngoại tệ của ngân hàng TM VN khi thấy cầu ngoại tệ tăng, mà như vậy có phá giá được thì ngân hàng cũng không bị ảnh hưởng vì hợp đồng forward.

    Tóm lại là tôi cũng nghĩ cách tấn công 1 không thể xảy ra được với điều kiện VN hiện nay.

    Nhưng thực tế rõ ràng VNĐ đang bị mất giá nhiều so với USD, điều này có thể do chúng ta đang tự làm mất giá đồng tiền của mình.
  5. leader001

    leader001 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/07/2007
    Đã được thích:
    2
    Hành động bán trái phiếu mua USD đẩy giá trên thị trường tự do tăng thì sao
  6. locphat6899

    locphat6899 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Đã được thích:
    206
    Đọc kỹ hướng dẫn trước khi dùng.Cẩn thận tàu hỏa nhập ma
  7. aliaka

    aliaka Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/05/2008
    Đã được thích:
    9
    Ê locphat, buồn quá, mở topic chửi lộn chơi đi mày!
  8. daiviet999

    daiviet999 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/10/2002
    Đã được thích:
    0
    Bác phát biểu nước đôi vậy là nói để cho nó có hay là bác am hiểu NH vậy chứ ? Trước đây các NH nịnh bọn Tổng cty bỏ mẹ mà nó coi có ra gì đâu. Giờ khi "quân lệnh" ban ra, dù anh em chiến hữu cũng phải từ từ đợi tao tí chứ đừng nói là khệnh. Tới đây nó còn đi kiểm tra lại các khoản đã cho vay và giám sát chặt các khoản cho vay theo tiêu chí : "mới hắt hơi sổ mũi tuy chưa cúm nhưng cứ tống thuốc vào đề phòng trước". tuy mệt mỏi 1 tí nhưng ko có nguy cơ chết bất đắc kỳ tử. Đồng thời bảo toàn lực lượng để đề phòng bọn NHTMCP bắt tay với NH ngoại để "lật thuyền". Tớ nghe nói nhiều thằng NHCP đã đẩy LS lên 16% rồi và nếu nó cứ thích chơi trò LS thì các NHQD sẽ đẩy lên sát nút ép cho bằng chết. Hiện nay các NHCP chỉ có giải pháp tốt nhất là chịu lỗ và chịu thoả hiệp rồi vay lại của NH lớn để tồn tại qua giai đoạn khó khăn sau này sẽ lấy lại sau. Nếu tăng LS thì chẳng nhẽ mấy NH lớn nó ngồi nhìn hay sao, nó chưa tăng cao ngay vì nó ko cần vốn nhiều thế, nó chỉ giữ chân khách và tăng sức ép mà thôi.
  9. daiviet999

    daiviet999 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/10/2002
    Đã được thích:
    0
    Tôi thấy các LĐ nhà mình xử sự ko hay ho chút nào. Trước đây cụ S.Hùng phát biểu vậy đã làm cho bao người lâm vào cảnh khốn khó rồi, giờ lại đến cái ông phó TĐ này nữa.

    Sao ko để cho người đại diện phát biểu có phải hơn ko. Người đại diện nói ra là ý chí tập thể, trọng lượng hơn hẳn mấy ông Thống đốc và phó TĐ và họ sẽ ko thể nói cái kiểu "xúi trẻ con ăn *** gà sáp" được. 1 ông phó TĐ phát biểu chỉ là 1 cá nhân và quan điểm của ông ta nhưng người dân ít học và ít hiểu vấn đề quản lý, T/C, ... sẽ tin sái cổ và hì hục làm theo mà nền KT có phải là do các ông ấy quyết và điều chỉnh hoàn toàn theo ý muốn được đâu. Về nhà mắng con ko khéo nó còn cãi lem lẻm ấy chứ thì làm sao bảo cả nền KT nó nghe lời các ông ấy được.
  10. corebanking

    corebanking Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/02/2008
    Đã được thích:
    0
    Thế có ai đọc qua cái này chưa ???
    ==================================================
    Khủng hoảng tài chính Đông Á
    Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ Đông Á.

    Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.

    Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.

    [sửa] Nguyên nhân

    [sửa] Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém

    Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.

    Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.[1]

    Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó còn ở MIT), cho đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông Á".[2] Ông ta cho rằng: Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là do kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng suất lao động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên ở một mức độ rất nhỏ, hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có thể mang lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi như một nhà tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính ông ta cũng đã từng phát biểu rằng ông ta không dự đoán cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được chiều sâu của nó.

    [sửa] Các dòng vốn nước ngoài kéo vào

    Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.[3]

    Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.)

    [sửa] Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới

    Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ.

    [sửa] Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt

    Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.

    Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á.[4] Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.[5]

    Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.

    Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN. Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông quan một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của ASEAN trong giai đoạn này.[6] Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chínhAPEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như Tuyên bố chung, các bên đã không thể nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng hoảng có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.

    Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.[7]

Chia sẻ trang này