Tiền đang chảy vào đâu "Nghịch lý mà lại đúng "

Chủ đề trong 'Thị trường chứng khoán' bởi linhcdb, 17/03/2020.

6592 người đang online, trong đó có 332 thành viên. 17:33 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 536636 lượt đọc và 2929 bài trả lời
  1. Chungsds

    Chungsds Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/04/2020
    Đã được thích:
    45
    Này thì 5-6x à cụ!
  2. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.665
    Từng mốc đã qua 28 thì có 32 rồi tính tiếp :))

    Tuy nhiên, tình hình cho thấy triển vọng khác của ngành cảng biển. Dù dịch bệnh còn diễn biến phức tạp nhưng theo Cục Hàng hải Việt Nam, 9 tháng đầu năm 2020, tổng sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam đạt gần 519 triệu tấn, tăng 7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, lượng hàng container thông qua cảng đạt hơn 15,9 triệu TEU, tăng 12% so với cùng kỳ. Nhìn vào tín hiệu khởi sắc từ số liệu vĩ mô, Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) kỳ vọng triển vọng tích cực trong những tháng cuối năm của thông lượng container tại khu vực Cái Mép và TP.HCM tiếp tục được duy trì. Bên cạnh đó, nhập khẩu khả quan hơn từ Trung Quốc trong thời gian tới dự kiến là động lực tăng trưởng cho các cảng tại khu vực Hải Phòng.

    Đà tăng này không quá khó hiểu khi xuất nhập khẩu của cả nước thời gian qua khá thuận lợi. Theo số liệu do Tổng cục Hải quan vừa công bố, tổng trị giá xuất nhập khẩu cả nước trong tháng 9 đạt 51,37 tỉ USD, tăng 1,9% so với tháng trước. Qua đó, đưa tổng giá trị xuất nhập khẩu trong 9 tháng đạt 388,62 tỉ USD, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, cán cân thương mại của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2020 thặng dư ở mức cao nhất từ trước tới nay, với con số xuất siêu lên đến 16,52 tỉ USD, tăng 127% so với cùng kỳ năm 2019 (cùng kỳ đạt 7,27 tỉ USD).

    [​IMG]
    Cả nước hiện có 3 cụm cảng chính, trong đó cụm cảng phía Nam đóng góp tỉ trọng lớn nhất và tăng trưởng mạnh nhất. Hệ thống cảng Việt Nam bao gồm 3 cụm cảng chính là cụm cảng Hải Phòng - Cái Lân ở phía Bắc, cụm cảng Đà Nẵng và Quy Nhơn ở miền Trung và cụm cảng Cát Lái - Cái Mép ở khu vực phía Nam.

    Nhìn chung, trong 3 năm gần đây, tổng lượng hàng hóa qua các cảng biển trên cả nước tăng trưởng tích cực và được giới chuyên gia đánh giá là do tác động của chiến tranh thương mại và các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam ký kết. Tính chung giai đoạn 2017-2019, tổng lượng hàng thông qua các cảng Việt Nam tăng trưởng 23%, đạt gần 334 triệu mét tấn (Metric ton - MT).

    Trong đó, khu vực các cảng miền Trung tuy chiếm tỉ trọng nhỏ nhất nhưng có mức tăng cao nhất với lượng hàng tăng 32%, với động lực đến từ tăng mạnh hàng xuất khẩu tại một số cảng như Cam Ranh (+140%), Quy Nhơn (+53%), Quảng Ngãi (+49%) hay như cảng Cửa Việt ở Quảng Trị (+300% và dự kiến đầu tư thêm 400 tỉ đồng để nâng cấp luồng tàu vào cảng).

    Đặc biệt, khu vực cảng miền Nam vốn chiếm hơn 60% lượng hàng cả nước tiếp tục chứng kiến mức tăng trưởng cao thứ nhì 27% trong 3 năm qua. Đặc biệt, động lực nổi bật lại đến từ hàng hóa nội địa với mức tăng tới 74% từ 16,7 triệu MT lên hơn 30 triệu MT hàng hóa lưu thông. Nhiều cảng chứng kiến mức tăng gần gấp đôi trong giai đoạn này, cụ thể như cảng Đồng Nai (+63%), cảng Bình Dương (+71%), hay các cảng khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu (+121%). Tất nhiên, không thể không nhắc đến các cảng khu vực Cái Mép chiếm 70% thị phần nơi đây, cũng tăng trưởng từ 50-70% tổng lượng hàng hóa lưu thông nội địa.

    [​IMG]
    Cảng Cái Mép.
    Theo ông Trương Tấn Lộc, Trưởng phòng Marketing, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, nhu cầu tàu có sức chở từ 18.000-23.000 TEU dự kiến vào các cảng nước sâu (Cái Mép, Lạch Huyện) tăng lên sẽ thúc đẩy phát triển những tuyến tàu lớn hơn để gom hàng hay phân phối từ/đi các thị trường nội địa như TP.HCM, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Hải Phòng, thậm chí là những nước ASEAN và một số địa phận của Trung Quốc tiếp giáp Việt Nam.

    Điều đáng nói là lượng hàng hóa chỉ tăng mạnh ở khu vực gần cảng nước sâu và gần cửa biển, các doanh nghiệp cảng biển ở khu vực thượng nguồn tuy còn công suất nhưng cũng không thu hút được hàng hóa về cảng. Ở cụm cảng Hải Phòng, cảng nước sâu Lạch Huyện đi vào hoạt động cuối năm 2018 với 2 bến cảng, có công suất thiết kế 1,1 triệu TEU, tương đương 22% tổng sản lượng cụm cảng Hải Phòng năm 2018. Trong thời gian tới, Cảng Hải Phòng sẽ tiếp tục xây dựng bến số 3-4 khu vực Lạch Huyện với công suất 1,1 triệu TEU, dự kiến bến số 3 sẽ đi vào hoạt động vào năm 2022.

    [​IMG]
    Động lực tăng trưởng ngành cảng biển các năm sau vẫn sẽ là dòng vốn FDI vào các khu công nghiệp. Theo VDSC, Việt Nam đã được hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Thực tế cho thấy, động lực cho xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm 2020 đến từ sự tăng trưởng đột biến, bất thường của các mặt hàng máy móc, máy vi tính và linh kiện với điểm đến chủ yếu là thị trường Mỹ.

    Ngoài ra, nhóm hàng thủy sản, phần lớn được vận chuyển bằng container lạnh, có tín hiệu khởi sắc cũng nhờ thị trường Mỹ. Ngoài ra, tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ từ Việt Nam năm 2019 tăng 29% so với cùng kỳ trong khi Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc giảm 16%, phần nào phản ánh ảnh hưởng tích cực từ căng thẳng thương mại Mỹ - Trung tới Việt Nam. Trong bối cảnh chiến tranh thương mại vẫn còn không chắc chắn, Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định như EVFTA, thành tích kiểm soát dịch tốt sẽ là động lực cho các công ty dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam nhiều hơn.

    Ông Don Lam, Tổng Giám đốc VinaCapital, nhận định: “Khoảng 20% năng lực sản xuất sẽ được chuyển dịch khỏi Trung Quốc sang các nước khác trong năm tới”. Để nắm bắt cơ hội này, theo ông Don Lam, Chính phủ cần nhanh chóng cải thiện những hạn chế để Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn trong việc thu hút thêm nguồn lực FDI. Một trong số đó là đẩy nhanh tiến độ cải thiện cơ sở hạ tầng do chi phí hậu cần của Việt Nam vẫn luôn nằm trong top cao nhất khu vực. Trong đó, chiến lược xây dựng cảng nước sâu bên cạnh các khu công nghiệp sẽ giúp Việt Nam giải quyết bài toán về nhập khẩu nguyên vật liệu và xuất khẩu thành phẩm.

    Thế trận cảng nước sâu
    Ông Hồ Kim Lân, Tổng Thư ký Hiệp hội Cảng biển Việt Nam, cho rằng hiện nay, ngoài cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (Lạch Huyện), cảng biển Việt Nam dần lạc hậu với xu thế container hóa của thế giới bởi tình trạng phân mảnh, các bến cảng thiếu sự liên thông. Theo Cục Hàng hải Việt Nam, căn cứ quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, nguồn vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng cảng biển khoảng 100.000 tỉ đồng. Dự báo đến năm 2030, với lượng hàng hóa gấp 2 lần như hiện nay, nhu cầu về vốn đầu tư cũng cần tương ứng.

    [​IMG]
    Cảng Hải Phòng.
    Nhiều dự báo cho thấy ngành cảng biển sẽ bị ảnh hưởng lớn trong thời gian tới khi mà kinh tế toàn cầu bước vào đợt suy thoái lớn. Bên cạnh đó, việc xuất hiện hàng loạt cảng mới trên diện rộng dẫn tới thực trạng thừa cung khiến cạnh tranh ngày càng mạnh hơn, đặc biệt tại khu vực cảng trọng điểm là cụm cảng Hải Phòng và cụm cảng Cái Mép - Thị Vải. Tại Hải Phòng, 2 cảng mới đã đi vào hoạt động gồm cảng MIPEC và cảng Vinalines Đình Vũ với công suất mới có thể chiếm tới 15% công suất hiện tại của Hải Phòng. Điều này khiến cho các doanh nghiệp hoạt động tại khu vực trên sẽ tiếp tục suy giảm cả doanh thu và lợi nhuận, biên lợi nhuận mỏng.

    Trong thời gian tới, xuất nhập khẩu vẫn tăng, lượng hàng lưu thông đường biển vẫn khả thi nhưng sẽ có sự phân bố thị phần rõ nét hơn. Nhiều doanh nghiệp EU cũng đề xuất, xu hướng vận tải biển bằng container trên thế giới là xu hướng trong tương lai, các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam nên thực hiện đóng mới container dung tích lớn từ 15.000-20.000 TEU.

    [​IMG]
    Để theo sát được xu hướng của thế giới, các cảng biển của Việt Nam cần tập trung tăng cường năng lực khai thác để có thể đón nhiều tàu container lớn.

    Thực tế, tăng trưởng trọng tải tàu cao hơn so với tăng trưởng lượt tàu cho thấy xu hướng chuyển dần qua các tàu trọng tải lớn, cũng là xu hướng của cảng nước sâu.

    Theo đó, Việt Nam cũng đang tập trung định hướng phát triển cảng nước sâu vì với các cảng này, hãng tàu có thể đưa tàu mẹ có trọng tải lớn vào giúp giảm chi phí vận hành tàu, từ đó, sẽ có mức cước vận chuyển tốt hơn cho chủ hàng.

    Hiện cả nước chỉ có khoảng 10 cảng đủ điều kiện tiếp nhận tàu trọng tải cỡ trung bình thế giới. 2 cảng nước sâu là Lạch Huyện (Hải Phòng) và Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu) là 2 khu vực cảng được Chính phủ quy hoạch là hệ thống cảng trung chuyển, có thể tiếp nhận tàu mẹ lên đến 150.000 DWT nhằm thu hút hàng hóa từ các nước châu Âu, châu Mỹ và đây là hai cụm cảng sẽ nhận được sự tác động mạnh mẽ khi hiệp định này có hiệu lực.

    Bộ Giao thông Vận tải đang yêu cầu các cơ quan liên quan hoàn thiện dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 54/2018 về các vấn đề như tiếp tục tăng có lộ trình đối với giá dịch vụ xếp dỡ container; sửa đổi, bổ sung biểu khung giá dịch vụ hoa tiêu hàng hải, sử dụng cầu bến, phao, neo và dịch vụ lai dắt cho phù hợp với thực tế. Hiện nay, đang có làn sóng dịch chuyển đầu tư vào Việt Nam, đã đến lúc, các doanh nghiệp đầu tư cảng biển cần phải nâng cao năng lực hoạt động của các cảng lên gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi để hút hàng hóa đến.

    [​IMG]
    “Điều này không chỉ tạo tâm lý an tâm đối với những tập đoàn nước ngoài muốn đầu tư lâu dài, mở rộng hoạt động tại Việt Nam mà còn thu hút các nhà đầu tư khác”, ông Lê Quang Trung, Phó Tổng Giám đốc Vinalines, đề xuất.

    Gemadept đang khẩn trương hoàn thành những công đoạn cuối cùng để đưa cảng nước sâu lớn nhất Việt Nam (Cảng Gemalink) đi vào vận hành chạy thử vào cuối năm 2020 và bắt đầu khai thác từ đầu năm 2021, trực tiếp kết nối hàng hóa của đất nước đến với thị trường thế giới. Gần đây, các nhà đầu tư của Liên minh châu Âu bày tỏ mong muốn đầu tư dự án logistics cảng biển trị giá gần 1 tỉ USD ở Việt Nam. Vị trí xây dựng dự án mà các nhà đầu tư nước ngoài đang có ý định đầu tư là tại trung tâm logistics Cái Mép Hạ (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).

    Các nhà đầu tư cho hay dự án có thể đón tàu container trọng tải lớn, thúc đẩy các hoạt động vận tải đường thủy nội địa, chở hàng hóa, nông sản từ đồng bằng sông Cửu Long tới Cái Mép Hạ và ra thế giới. Sự hình thành các cảng nước sâu chính là hạt nhân cho sự phát triển những trung tâm logistics, mạng lưới ICD vệ tinh, kho bãi liền kề, cụm công nghiệp và các dịch vụ chuỗi...
    Hanale thích bài này.
  3. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.665
    FMC rực rỡ bầu trời hoa. lạ thật lúc giá rẻ chia sẻ để vào thì NĐT chê, giờ lại cắm đầu húc. Trong khi GMD đang giá tốt để múc thì lại chê để bữa sau break lại đua tiếp à :D
  4. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.665
    như vậy cái mũ này không còn phù hợp nữa, theo ace nó sẽ thay bằng mốc nào nhể =))
    P.s: HQ tiếp tục bơm doping vào TT chúng ta :D
    https://www.bloomberg.com/company/p...source=****&utm_medium=****&utm_campaign=****

  5. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.665
    Đầu tư công sẽ giúp thuận lợi hạ tầng kết nối, số hóa DN sẽ là chìa khóa cho logistics. Lợi thế các FTA sẽ đem lại nhiều thứ cho các doanh nghiệp logistics :)

    Làm thế nào để ngành Logictics có thể hưởng lợi từ EVFTA?

    Với tốc độ phát triển hàng năm đạt 16-20%, dự kiến Hiệp định EVFTA sẽ tác động đáng kể đến triển vọng thị trường trong nước. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để ngành Logictics của Việt Nam có thể hưởng lợi từ EVFTA?

    Hiện nay, Việt Nam có gần 1.500 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Logistics. Bên cạnh những cơ hội, doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới từ EVFTA như: đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn, quy trình kiểm soát quốc tế. Để thích ứng với tình hình mới, các DN cần có cái nhìn sâu rộng hơn về tác động mà EVFTA mang lại.

    Bà Trịnh Thu Hiền, Trưởng Phòng Xuất xứ hàng hóa, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương cho biết: "Trước đây, với các FTA mà chúng ta từng tham gia, cơ sở xét xuất xứ liên quan đến các tiêu chí về hàm lượng giá trị khu vực. Nhưng theo cách tính của EVFTA, giá trị của các loại nguyên vật liệu không có xuất xứ được phép sử dụng làm ra hàng hóa mà sau đó hàng hóa được coi là có xuất xứ".

    Còn theo quan điểm của ông Nguyễn Cảnh Cường - Tham tán Thương mại Việt Nam tại Vương Quốc Anh, ngành Logistics là ngành đòi hỏi phải có điều kiện vật chất không nhỏ, đặc biệt khiHiệp định EVFTA đã có hiệu lực. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp trong ngành Logistics đang chuẩn bị những gì?

    "Dư địa để tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả cho ngành Logistics Việt Nam là rất lớn. Nếu Việt Nam muốn rút ngắn khoảng cách với các nước châu Âu trong lĩnh vực Logistics về mặt quản trị hay chăm sóc khách hàng thì việc tiếp cận các phương pháp của họ sẽ giúp các doanh nghiệp nước ta rút ngắn được hàng chục năm phát triển trong ngành Logistics", ông Nguyễn Cảnh Cường cho biết.

    Các hoạt động logistics tập trung vào giao nhận, vận tải nội địa, khai thác cảng biển và cảng hàng không, kho bãi, quản lý hàng và vận tải quốc tế. Trong đó vận tải là lĩnh vực dịch vụ quan trọng nhất trong hệ thống logistics Việt Nam.

    Vì vậy, ông Nguyễn Tuấn Vinh, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Công ty Cổ phần vận tải và Thương mại đường sắt đề xuất: "Thách thức lớn nhất của vận tải Logistics Việt Nam là do khó khăn về cơ sở hạ tầng. Đây là khó khăn chung khiến các doanh nghiệp lo lắng. Tiếp đó là khó khăn về quy mô doanh nghiệp, quy mô vốn, trình độ quản lý và đặc biệt là các chi phí “mềm”. Hiện nay các doanh nghiệp Logistics nước ngoài rất lớn. Họ có đủ công nghệ, kinh nghiệm và quy mô để có thể cạnh tranh, gây khó khăn cho doanh nghiệp nước ta".

    Bên cạnh đó, nhận thức của doanh nghiệp nước ta về chi phí Logistics, về dịch vụ thuê ngoài còn thấp. Nếu khắc phục được những hạn chế nêu trên, đặc biệt là đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ và tăng tính kết nối của phương tiện thì sẽ giảm chi phí vận tải; nâng cao được chất lượng dịch vụ logistics.

    Giảm chi phí logistics đồng nghĩa với việc thúc đẩy cho sự phát triển của hàng hóa xuất nhập khẩu, đẩy mạnh phát triển kinh tế quốc gia.
  6. hihaha2016

    hihaha2016 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/07/2016
    Đã được thích:
    36
    Ý là sao, múc GMD và PLC tất tay phải không?
    Để cắm nhà :D
  7. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.665
    =)) MÚC HÚC XÚC :x
  8. minhpq_invest

    minhpq_invest Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    03/11/2020
    Đã được thích:
    55
    GMD DHC PLC FMC giờ tham gia thì vùng giá nào hợp lý để MÚC HÚC XÚC các em này hả bác
  9. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.665
    Như vậy đúng như dự đoán phiên qua DHC lập đỉnh lịch sử nay viết tiếp lịch sử =))
    FMC với tin tức siêu tôm cũng thiết lập đỉnh lịch sử. Vậy với tin này thì GMD mai có break đỉnh 52W không ta :))
    Với đất nước có độ mở kinh tế lớn, GDP phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu thì logistics đóng vai trò then chốt của mắt xích đó. Khi các bộ ngành đã nhìn thấy, thành quả sẽ nhanh thôi =))

    Tạo "bước nhảy" cho dịch vụ logistics
    Uyên Hương/BNEWS/TTXVN 14:16' - 26/11/2020


    BNEWS Các doanh nghiệp tăng cường áp dụng thành tựu của cuộc CMCN 4.0 trong các dịch vụ logistics như: ứng dụng công nghệ blockchain; ứng dụng công nghệ in 3D nhằm giảm thiểu thời gian lưu kho và sản xuất.
    [​IMG]Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ phát biểu. Ảnh: Uyên Hương/BNEWS/TTXVN
    Sáng 26/11, tại Hà Nội đã khai mạc Diễn đàn Logistics Việt Nam 2020 do Bộ Công Thương tổ chức.

    Đây là sự kiện lớn thường niên về ngành dịch vụ logistics, thu hút sự quan tâm của hơn 50 tổ chức quốc tế, hơn 500 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics, sản xuất, xuất nhập khẩu và các bộ ngành liên quan. Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ và Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng tham dự.

    * Những đột phá chiến lược

    Tại Diễn đàn, Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ đánh giá cao việc Bộ Công Thương đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) cùng các bộ, ngành, địa phương tổ chức Diễn đàn Logistics Việt Nam thường niên lần thứ 8 và coi đây cũng là dịp để các doanh nhân, các nhà khoa học, các chuyên gia quốc tế và trong nước trao đổi, thảo luận về phương hướng, giải pháp thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics.

    Theo Bí thư Thành uỷ Hà Nội Vương Đình Huệ, Việt Nam triển khai Chiến lược phát triển giai đoạn 2021 - 2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 trong bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước có nhiều biến động, dịch bệnh COVID-19 còn diễn biến phức tạp, nhiều dự báo căng thẳng địa chính trị, chiến tranh thương mại, chủ nghĩa bảo hộ, suy thoái kinh tế - thương mại toàn cầu, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ...

    Điều này đòi hỏi phải thực sự gắn kết và chủ động thích ứng để cùng nhau vượt qua khó khăn, thách thức; phát huy những thành tựu, kinh nghiệm trong thời gian vừa qua, thực hiện những đột phá chiến lược trong phát triển dịch vụ logistics. Từ đó góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội.

    Nhằm góp phần cắt giảm chi phí và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam trên cơ sở chuyển đổi số, Bí thư Thành uỷ Vương Đình Huệ đã gợi mở một số nội dung gồm: thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) trong lĩnh vực logistics; trong đó, khuyến khích doanh nghiệp logistic đầu tư cho hoạt động R&D thành lập các trung tâm nghiên cứu riêng nhằm phát triển và ứng dụng các công nghệ mới vào các hoạt động logistics và có sự liên hệ chặt chẽ với chương trình phát triển khoa học của Chính phủ cũng như dự án nghiên cứu khoa học của các trường Đại học lớn để tận dụng vốn đầu tư và mạng lưới các chuyên gia.

    Cùng với đó, các doanh nghiệp tăng cường áp dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong các dịch vụ logistics như: ứng dụng công nghệ blockchain trong quản lý chuỗi cung ứng hàng hóa; ứng dụng công nghệ in 3D nhằm giảm thiểu thời gian lưu kho và sản xuất.

    Đồng thời, sử dụng hệ thống quản lý vận tải, kết hợp công nghệ điện toán đám mây và định vị vệ tinh cho phép doanh nghiệp truy xuất vị trí hàng hóa, quản lý phương tiện vận chuyển tại các khu vực hẻo lánh hoặc trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt; ứng dụng công nghệ thực tế ảo và thực tế tăng cường giúp nhận diện nhanh chóng thông tin lô hàng, từ đó đẩy nhanh tốc độ xử lý đơn hàng.

    Ngoài ra, các ngành chức năng xây dựng mạng lưới liên kết các doanh nghiệp logistic đảm bảo sự kết nối giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động logistics thông qua các biện pháp như: phát triển hệ thống logistics 3PL, 4PL gắn với thương mại điện tử.

    Cùng đó, thiết lập hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, các hãng vận tải và ngân hàng để cung cấp thông tin phục vụ quản lý hải quan và thông quan hàng hóa; thúc đẩy hợp tác với các tập đoàn công nghệ cao để hỗ trợ kỹ thuật, đảm bảo an ninh, an toàn thông tin cho cơ quan, doanh nghiệp, các đối tác và khách hàng trong lĩnh vực logistics....

    [​IMG]Quang cảnh diễn đàn. Ảnh: Uyên Hương/BNEWS/TTXVN
    Phát biểu tại Diễn đàn, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu Bộ Công Thương khẩn trương nghiên cứu, xây dựng Đề án kiện toàn bộ máy nhân sự phù hợp cho bộ phận đầu mối giúp việc Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN, Cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại để triển khai nhiệm vụ điều phối và phát triển logistics quốc gia báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời tập trung triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách, chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế; trong đó chú trọng việc nâng cao toàn diện năng lực thực thi các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.

    Bộ Kế hoạch và Đầu tư có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan và Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam khẩn trương xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê logistics, từ đó chỉ rõ “điểm nút” trong chi phí logistics.

    Điều này nhằm tập trung phát huy nội lực, giải phóng các nguồn lực tiềm năng trong xã hội, tận dụng cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế để thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi số tạo ra bước nhảy phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam. Đồng thời, huy động các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế.

    Đặc biệt, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nguồn kinh phí hỗ trợ hàng năm từ ngân sách Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả “Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025” ; nâng cao hiệu quả và chất lượng các hoạt động thông tin tuyên truyền, phổ biến, cập nhật tình hình hội nhập kinh tế quốc tế; tạo sự kiên định và đồng thuận cao trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của Việt Nam.

    Các hiệp hội, doanh nghiệp cũng chủ động và tăng tính ổn định nguồn nguyên vật liệu giảm phụ thuộc nhập khẩu. Bởi hầu hết hạn chế của các ngành là chưa chủ động được nguồn nguyên vật liệu còn phụ thuộc vào nhập khẩu từ nước ngoài khiến hoạt động sản xuất không ổn định, một phần giá thành cao ảnh hưởng bởi tỷ giá, ...

    Đồng thời, các hiệp hội, doanh nghiệp cần quán triệt quan điểm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm tăng thêm phần giá trị gia tăng của các sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu, tránh xuất khẩu các sản phẩm, hàng hóa sơ chế, có khối lượng lớn nhưng giá trị thấp gây ảnh hưởng đến chi phí vận tải, logistics.

    * Triển vọng mới từ các hiệp định

    Báo cáo tại Diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, đại dịch COVID-19 bùng phát từ cuối tháng 1/2020 đã tác động đến hơn 200 nước và vùng lãnh thổ trên toàn cầu.

    Cho đến tháng 7 vừa qua, làn sóng COVID-19 lần thứ hai lần lượt xuất hiện ở nhiều quốc gia lớn với diễn biến phức tạp, lây nhiễm rất nhanh trên phạm vi toàn cầu đã gây ra những tác động nghiêm trọng tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội; trong đó, phải kể đến sự đứt gãy của chuỗi cung ứng, ngừng trệ của hoạt động logistics trên toàn cầu mà cho đến nay vẫn chưa phục hồi lại được hoàn toàn.

    [​IMG]Quang cảnh diễn đàn. Ảnh: Uyên Hương/BNEWS/TTXVN
    Tuy vậy, nhờ sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp trong thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống đại dịch COVID-19, đồng thời tranh thủ cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)... nên đã phục hồi nhanh các hoạt động kinh tế.

    Tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam tiếp tục được ổn định, lạm phát được kiểm soát, cân đối lớn về tài chính và tiền tệ, tín dụng được bảo đảm, mặt bằng lãi suất giảm.

    Điều này đã phần nào phản ánh qua tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 10 tháng đạt 439,8 tỷ USD, tăng 2,62% so với cùng kỳ năm 2019. Trong 10 tháng của năm nay, cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam tiếp tục xuất siêu kỷ lục 18,72 tỷ USD.

    Điểm sáng trong hoạt động thương mại thời gian vừa qua là xu hướng chuyển đổi thói quen mua sắm của người dân, ứng dụng mua sắm trực tuyến nhiều hơn, điều này sẽ kéo theo việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số hóa trong lĩnh vực thương mại và logistics.

    Qua đó, đem lại nhiều lợi ích to lớn cho doanh nghiệp thương mại điện tử, cho hộ kinh doanh cá thể, cá nhân, ... nhờ việc giảm chi phí thuê cửa hàng, chi phí bán hàng trong khi lại mở rộng được thị trường trên môi trường mạng internet.

    Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, bên cạnh những yếu tố tác động tích cực thì việc thực thi các hiệp định thương mại tự do sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh.

    Việc giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước thành viên trong Hiệp định vào Việt Nam gia tăng, tạo sức ép cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước.

    Nguy cơ này đặc biệt phải chú trọng quan tâm đối với nhóm hàng nông sản vốn gắn liền với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong hội nhập kinh tế là nông dân và nông thôn.

    Hơn nữa, các cam kết mở cửa thị trường lĩnh vực dịch vụ logistics trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA không quá xa so với các cam kết của Việt Nam trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và cơ bản là phù hợp với các quy định pháp luật và chính sách hiện hành.

    Riêng đối với dịch vụ logistics, các Hiệp định này có thể tác động tới triển vọng phát triển ở hai góc độ cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực vận tải và phục vụ vận tải.

    Cam kết trong các lĩnh vực ảnh hưởng đến dung lượng thị trường dịch vụ logistics trên các góc độ quy mô do tăng nguồn cầu dịch vụ, chất lượng dịch vụ, nhu cầu mở rộng công suất, đầu tư và thực hiện dịch vụ.

    Trong cả hai khía cạnh này, cơ hội và thách thức đều khá lớn trong bối cảnh doanh nghiệp logistics nội địa có sức cạnh tranh không cao.

    Tại Diễn đàn Logistics Việt Nam 2020, ngoài phiên toàn thể với chủ đề "Cắt giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế", các đại biểu còn tập trung thảo luận xung quan các nội dung như hạ tầng logistics - xu hướng và cơ hội; chuyển đổi số trong logistics./.
  10. linhcdb

    linhcdb Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/01/2008
    Đã được thích:
    12.665

Chia sẻ trang này