Trao đổi, chia sẻ về các Tôn Giáo, Minh Triết Thiêng Liêng

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi Duoi_Chan_Thay, 16/06/2016.

7838 người đang online, trong đó có 1043 thành viên. 10:28 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
Chủ đề này đã có 30790 lượt đọc và 212 bài trả lời
  1. traderdoclap

    traderdoclap Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    08/08/2015
    Đã được thích:
    1.640
    Nói chính xác thì Đạo là sự sống bác ạ.
    Nhiều tài liệu gọi là sự sống nhất như, năng lượng vũ trụ, năng lượng tình yêu thương, phật tính, thượng đế tính hay cái một tối thượng...cũng đều trỏ vào ĐẠO.
    Người giác ngộ hay tỉnh thức đơn giản chính là người nhận biết được về đạo, phật tính hay thượng đế tính...đó thôi.
    Nói thì đơn giản là vậy nhưng để thực hành được là vô cùng khó.
    Bởi chúng ta đều đang sống trong một thế giới mơ, nếu không có người ở thế giới thực đánh thức thì không có cách nào thức tỉnh được.
    Duoi_Chan_Thayokeck16 thích bài này.
    okeck16 đã loan bài này
  2. okeck16

    okeck16 Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    17/02/2015
    Đã được thích:
    5.256
    Đúng vậy bác à, thật lý thú khi đàm đạo cùng bác ! :-bd:)

    Những người đánh thức rất quan trọng , họ cho tiếng gọi , cho định hướng cho tất cả những gì họ có thể cho .... nhưng họ ko thể hành động hộ cho những người mơ kia được, người mê phải tự ra khỏi cơn mê của mình , có lâu đến bao nhiêu cũng vậy thôi... Ví như ta ko thể ăn hộ , ốm hộ, hay sống hộ chết hộ được....

    Đạo là sự sống ! Và các cuộc sống nhỏ- các bản thể hay con người ta đã mang trong mình chất sống này, bản lai diện mục này là cội rễ của sự sống và ko có năng lượng nào có thể hủy diệt nó.... Nhưng các bản thể chưa nhận ra điều đó ,người ta cứ rơi vào cái mơ của riêng họ , do tâm trí họ tạo ra chứ ko ai khác...
    Và mỗi lúc em đi ngang qua đâu đó , thấy những người đang tầm cầu giải thoát phía ngoài bản thể họ ... thấy những người theo Đạo 1 cách hình thức ... thấy những con người nố lực phi thường như những chiến binh để tầm cầu Đạo ... Tất cả những cách đi hình thức thật lãng phí thời gian quí báu của đời họ .Thật ra họ chưa biết là họ đang chọn con đường dài quá .Em thấy tiếc cho con đường tu Đạo mà họ đã chọn ! =((
    Bác thấy sao ??
    Duoi_Chan_Thaytraderdoclap thích bài này.
  3. traderdoclap

    traderdoclap Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    08/08/2015
    Đã được thích:
    1.640
    Đúng vậy bác ạ.
    Chúng ta không bao giờ tìm được chân lý, được đạo ở bên ngoài.
    Mà phải quay vào bên trong.
    Khi chúng ta tìm được chính mình, hiểu được bản thân mình thì hóa ra chúng ta hiểu biết được cả vũ trụ này.
    Nói thế nhưng cũng không phủ nhận đc tác dụng của việc đi ra bên ngoài bác ạ. Vì đi ra bên ngoài sẽ giúp con người hiểu được sự thất bại của tâm trí, của các giấc mơ. Giúp cho họ trải nghiệm sự đau khổ. Và đó là động lực để cho con người quay vào bên trong.
    Việc trở về với đạo, trở về với cội nguồn là đương nhiên vì đó là ý chí của tạo hóa, của sự tồn tại. Sớm hay muộn con người cũng sẽ phải trở về ngôi nhà thực sự của mình thôi.
    Nhưng việc chọn trở về sớm hay muộn thì lại tùy thuộc vào mỗi người.
    Tạo hóa rất từ bi, ngài luôn cho con người quyền tự do lựa chọn.

    Nói thêm chút về người đánh thức.
    Đóng góp lớn nhất là họ tạo cho mình cảm hứng.
    Còn có thức tỉnh được hay không lại do bản thân của từng người. Người đó có thực sự muốn thức tỉnh hay không.
    Chứ gặp người không muốn thức tỉnh thì cũng chẳng khác gì câu chuyện thượng đế đứng đợi ở ngoài cửa mà mình không mở cửa ra để gặp ngài.
    Thiền tông có câu rất hay: Tâm bình thường là đạo.
    Đạo là phải là trạng thái tự nhiên, bản chất nhất của một người bình thường chứ chẳng cần bất cứ nỗ lực nào cả. Tiếc rằng vì tâm trí điên khùng mà con người đánh mất đạo. Như vậy thì cũng chẳng hơn con vật là bao nhiêu.
    Và khi chưa tìm thấy đạo thì ta chưa thực sự được sống.
    okeck16Duoi_Chan_Thay thích bài này.
  4. Duoi_Chan_Thay

    Duoi_Chan_Thay Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2016
    Đã được thích:
    144
    Đây là các hướng dẫn chính yếu của Con Đường Tinh thần Cao siêu và không bao giờ có thể bị loại bỏ. Các Qui luật đưa ra lộ trình để họ có thể tiến lên trên Con Đường Chí nguyện đầy thách thức, đến con đường Đệ tử thực sự, và phục vụ trong Đạo viện của Chân sư.

    Điều quan trọng cần lưu ý về các Qui luật này, là chúng tiêu biểu cho yêu cầu áp dụng Luật Tập thể và sự sống tập thể. Khi người môn sinh bắt đầu vượt cao hơn cuộc sống với nguyện vọng tinh thần của mình hướng về “Đạo viện” của các Chân sư, thì y cần từ bỏ lề luật và sự tự quản của riêng mình và tuân thủ luật tập thể lớn lao hơn - đây có thể gọi là luật về “Tính duy nhất hoặc Tính toàn thể”. Thế nhưng, không bao giờ tính toàn vẹn hay danh dự thực sự của mỗi người bị xem thường - điều không được công nhận là tính vị kỷ của cái phi ngã. Bấy giờ con Đường mà y tiến bước là CON ĐƯỜNG DUY NHẤT và, dù nó nhỏ hẹp, toàn thể nhân loại đều tiến lên trên con đường này.

    Trên “con đường nhỏ hẹp như lưỡi dao cạo” này, hành giả học cách tiến bước theo giới luật và thận trọng, với hạnh vô dục mà y cùng thể nghiệm với các bạn đồng môn

    QUI LUẬT CỦA ĐƯỜNG ĐẠO

    Đoạn 1. Mỗi người tiến trên Đường đạo trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật, tỏa chiếu trên Đường bởi những Vị hướng đạo hiểu biết. Bấy giờ hành giả không thể che giấu điều gì, và đến mỗi khúc quanh trên Đường Đạo y phải đối diện với chính mình.

    Đoạn 2. Trên Đường Đạo, những điều che giấu được phô bày. Mỗi người thấy và biết điều quấy của mình. Thế nhưng, sự phô bày đó không khiến họ lùi bước, bài bác lẫn nhau, hoặc chao đảo trên Đường Đạo. Đường Đạo trở nên sáng tỏ.

    Đoạn 3. Trên Đường Đạo hành giả không đi lang thang một mình. Không có gì hấp tấp, hay vội vàng. Và cũng không có thời gian bỏ phí. Hiểu được điều này, mỗi khách hành hương dấn bước tiến lên, và thấy quanh mình có các bạn đồng hành. Một số tiến phía trước; y theo sau. Một số đi sau; y dẫn lối. Y không tiến bước một mình.

    Đoạn 4. Khách hành hương phải tránh ba điều. Đội mũ trùm đầu, hoặc dùng mạng che mặt không cho người khác thấy; mang theo bình nước chỉ đủ cho mình dùng; vác trên vai chiếc gậy không có móc để cầm giữ.

    Đoạn 5. Mỗi Khách hành hương trên Đường đạo phải mang theo những gì y cần: một bầu lửa, để sưởi ấm các bạn đồng hành; một ngọn đèn với những tia sáng chiếu ra từ tâm của mình và cho các bạn đồng hành thấy bản tính sự sống ẩn tàng nơi mình; một túi vàng, y không vung vãi trên Đường, mà để chia sẻ cho người khác; một chiếc bình niêm kín, trong đó y mang theo toàn cả tâm nguyện của mình để đặt dưới chân Đấng đang chờ chào đón y ở cửa Đạo – một chiếc bình niêm kín.

    Đoạn 6. Khi dấn bước trên Đường, Khách hành hương phải có tai nghe tỏ rõ, bàn tay giúp đỡ, chiếc lưỡi im lặng, tâm hồn tự chủ, tiếng nói vàng, chân nhanh nhẹn, mắt rộng mở đón nhận ánh sáng. Y biết mình không độc hành.
    traderdoclap thích bài này.
  5. Duoi_Chan_Thay

    Duoi_Chan_Thay Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2016
    Đã được thích:
    144
    Sau đây là các câu hỏi, và kính mời các huynh, tỉ ta cùng bàn luận, trao đổi cho vui nha

    Qui tắc của Đường Đạo (Luật Tập thể) – Đoạn 1.

    Mỗi người tiến trên Đường đạo trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật,tỏa chiếu trên Đường bởi những Vị hướng đạo hiểu biết.
    Bấy giờ hành giả không thể che giấu điều gì, và
    đến mỗi khúc quanh trên Đường Đạo y phải đối diện với chính mình.


    Câu 1: Mỗi người tiến trên Đường đạo trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật,

    · Đường Đạo là gì, và vì sao “trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật”?

    · Khó khăn nguy hiểm nào chờ đón những kẻ cố bước đi trong bóng tối?

    · Bạn dành bao nhiêu thời gian trong ánh sáng, hoặc trong bóng tối?

    Câu 2: (Ánh sáng ấy) tỏa chiếu trên Đường bởi những Vị hướng đạo hiểu biết.

    · Ai là những Người hiểu biết?

    · Vì sao họ hướng dẫn và ánh sáng họ chiếu rọi có tính chất thế nào?

    Câu 3: Bấy giờ hành giả không thể che giấu điều gì, và đến mỗi khúc quanh trên Đường Đạo y phải đối diện với chính mình.

    · Bạn có nghĩ rằng ở đây có liên quan đến Luật Nghiệp quả không, và nếu có thì bằng cách nào?

    · Trong đời bạn đã có tình huống nào nhiều thử thách hay không khi, do các hành động của mình, bạn phải “đối diện” với chính mình và đó là điều rất khó khăn?

    Trọn cả Đoạn 1

    · Giả sử rằng chính linh hồn của bạn liên tục hướng dẫn bạn đến ngày hôm nay và soi sáng đường đi của bạn. Hiện nay, khi phải đối diện với chính mình, bạn nghĩ linh hồn của bạn muốn bạn nhận thức điều gì về chính mình?
    traderdoclap thích bài này.
  6. traderdoclap

    traderdoclap Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    08/08/2015
    Đã được thích:
    1.640
    Mấy câu của bạn hỏi thì nói bằng lời khá khó mà phải bằng kinh nghiệm, trải nghiệm riêng của từng người. Chắc chắn là có nhiều điểm không giống nhau đâu.
    Mình chỉ trả lời bạn được đôi chút về kinh nghiệm của bản thân thôi nhé.

    1. Đạo là sự sống, là tình yêu thương, là nhận biết thông tuệ. Theo Phật hay thầy Lão tử và các bậc thầy xưa thì là cái Không: vô hạn và trống rỗng. Nhưng thực ra có 1 biểu lộ khác của Đạo là ánh sáng chói như tia sét vậy, đó chính là ánh sáng của bản thể. Nên có thể hiểu đường Đạo là con đường của ánh sáng cũng không sai. Và các bậc thầy minh triết dậy chúng ta chỉ theo và tin duy nhất vào ánh sáng, đó là để chúng ta không chấp vào hình tướng rồi lại đi vào ma cảnh, ảo tưởng.

    2. Vị hướng đạo hiểu biết thì chắc chắn là vị Phật, bồ tát, chân sư...hay ít ra là bậc A La Hán bởi vì chỉ từ A La Hán trở lên mới có thể gọi là giác ngộ, giải thoát và biểu lộ được ánh sáng của bản thể.

    3. Quay về với đạo hiểu theo nghĩa khác là tìm lại chính mình và phải chiến thắng chính mình, chính bản ngã của mình và đây quả thực là điều khó khăn nhất. Nếu không có ánh sáng của bậc thầy chiếu rọi thì có thể khẳng định 99,99% không bao giờ chúng ta chiến thắng được chính mình cả.
    Duoi_Chan_Thay thích bài này.
  7. Duoi_Chan_Thay

    Duoi_Chan_Thay Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2016
    Đã được thích:
    144
    Cảm ơn bác đã chia sẻ
    Trước tiên, tôi cũng muốn nói là những gì dưới đây cũng chỉ mang tính cá nhân, nó có thể đúng, có thể không đúng với tùy mỗi người, mỗi quan niệm khác nhau.
    QUI LUẬT CỦA ĐƯỜNG ĐẠO

    Đoạn 1. Mỗi người tiến trên Đường đạo trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật, tỏa chiếu trên Đường bởi những Vị hướng đạo hiểu biết. Bấy giờ hành giả không thể che giấu điều gì, và đến mỗi khúc quanh trên Đường Đạo y phải đối diện với chính mình.

    Câu 1: Mỗi người tiến trên Đường đạo trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật,

    + Đường Đạo là gì, và vì sao “trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật”?
    Ánh sáng, bóng tối là cặp đối lập
    Bên cạnh đó ta có các cặp đối lập như đen - trắng, chính - tà
    Đường đạo: Con đường tiến hóa đi lên (ngược lại là tiến hóa giáng hạ), Đạo chỉ là phương tiện giúp nhân loại hoàn thành thiên ý (vạn vật đều biến đổi không ngừng, không ngừng tiến hóa).
    Ánh sáng thanh thiên bạch nhật muốn nói rằng, khi 1 người đang đi vào nẻo đạo và cụ thể ở đây là đi theo chánh đạo. Đi theo ánh sáng của đấng cao cả sinh ra vạn hữu.

    + Khó khăn nguy hiểm nào chờ đón những kẻ cố bước đi trong bóng tối?
    Điều này không cần nói nhiều chúng ta cũng biết rằng bước đi trong bóng tối sẽ khó khăn, gian nan, chậm chạm, vừa đi vừa dò từng bước.
    Bóng tối còn chỉ người vô minh, người chưa để ý cũng như chưa muốn quan tâm tới việc diệt tham sân si, .... người đi theo con đường tả đạo, ....

    + Bạn dành bao nhiêu thời gian trong ánh sáng, hoặc trong bóng tối?
    Với tôi, phần lớn quá trình tiến hóa tính từ kiếp người thú đầu tiên đến nay là sự chìm vào trong bóng tối.
    Giai đoạn này tôi mới biết lắng nghe tiếng nói của linh hồn, biết hướng đến các đấng cao cả, đấng sinh thành vạn hữu, ....

    Câu 2: (Ánh sáng ấy) tỏa chiếu trên Đường bởi những Vị hướng đạo hiểu biết.

    + Ai là những Người hiểu biết?

    Đó là Linh hồn của chính chúng ta, là 1 thể với vô lượng kiếp tái sinh, là kho tri thức đã thu thập được qua vô lượng kiếp tái sinh.
    Là "Mảnh tinh hoa" đã kiên nhẫn hướng dẫn, kiên nhẫn chuyển tải tiếng nói xuống cho chúng ta từ kiếp người thú
    Linh hồn kiên nhẫn hướng dẫn chúng ta, chỉ đến khi chúng ta đạt mức độ tiến hóa tâm thức nhất định nào đó, chúng ta đã bớt đi nhiều cái tham sân si, ... Lúc đó "Đức thày" mới xuất hiện
    Những người chưa "sẵn sàng" thì rất khó mà gặp được ngài.

    Và như vậy, những "người" hướng dẫn ở đây là Linh hồn, chân sư, chân thần, .... cả các vị huynh đệ ánh sáng, cả những đạo đồ nữa, .... Tùy vào mức tiến hóa mỗi người mà có sự khác nhau.

    + Vì sao họ hướng dẫn và ánh sáng họ chiếu rọi có tính chất thế nào?
    Có những người cả kiếp không được sự chú ý của Linh hồn (Ví dụ như những người mất linh hồn)
    Bản thân Linh hồn, giống như 1 bông hoa sen với 2 mặt (ở đây chỉ là sự mô tả ý niệm, ta không nên hiểu theo từ cụ thể)
    1 mặt hướng lên trên, đấng cao cả hơn mình (Vạn vật tiến hóa không ngừng, không biết đâu là điểm dừng)
    1 mặt nhìn xuống phàm ngã của mỗi người, khi phàm ngã biết hướng về Linh hồn của mình
    Lúc đó linh hồn chuyển tải nhiều hơn "ánh sáng", "tiếng nói" tới phàm nhân
    Người môn sinh cần lắng nghe tiếng nói này, ánh sáng này để đến một lúc nào đó cuộc sống của người môn sinh ở tại cõi hồng trần được biểu lộ đầy đủ sự "mỹ lệ" của Linh hồn, sự vô kỷ, minh triết, bác ái, tình thương yêu của Linh hồn.

    Câu 3: Bấy giờ hành giả không thể che giấu điều gì, và đến mỗi khúc quanh trên Đường Đạo y phải đối diện với chính mình.

    Những người môn sinh với nhau, những người theo huyền môn với nhau, không thể che dấu được điều gì với nhau cả
    có điều, biết mà có nói ra hay không mà thôi, lời được nói ra có đáng yêu, có ích lợi gì tốt đẹp cho người khác hay không.

    Những điều quấy của người khác, cũng là điều quấy của mình khi xưa, vậy có gì mà phải phê phán chỉ trích?
    Mỗi con người chúng ta, chưa thể diệt sạch tham sân si
    Người đi trên đường đạo nếu lơ là, mất kiểm soát rất dễ rơi vào sự gian dối 1 cách rất tinh vi, dễ rơi vào tính kiêu ngạo, tự cao trí tuệ, dễ rơi vào sự chỉ trích phê phán, chê bai người khác. Thật không nên chút nào bởi đó là điều mà phàm ngã làm chứ linh hồn không bao giờ làm vậy
    Mỗi khúc quanh ở đây, đó là những khó khăn, gian nan vất vả, những thử thách để rồi mỗi chúng ta vượt qua nó, rút kinh nghiệm được và đó cũng đã là khai ngộ rồi
    Nhiều lần như thế, người môn sinh đạt được những hiểu biết nhiều hơn, tiến tới những "Khúc quanh" lớn hơn, mỗi khúc quanh đó như đánh dấu 1 giai đoạn khai ngộ lớn lao của người đệ tử đi trên đường đạo. Y phải đối diện với chính mình và tự mình vượt qua, không ai vượt qua hoặc làm thay được y. Đức thày có mặt ở đó đi chăng nữa cũng chỉ là người hướng dẫn và chỉ đường dùm y mà thôi.
    ---
    Trên đây là vài ý của cá nhân tôi, mỗi một lời giáo huấn có rất nhiều cách hiểu khác nhau, tâm thức ta ở đâu thì ta hiểu ở đó, nghĩa cạn, nghĩa sâu, ... hiểu sao thì hiểu, không ai có thể nói rằng những điều tôi nói là không thể sai chạy, ... Phải không các bác
    Kính mời các bác cho nhận xét, bình luận ạ
    Last edited: 17/01/2017
  8. Duoi_Chan_Thay

    Duoi_Chan_Thay Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2016
    Đã được thích:
    144
    Cấu Tạo Con Người – Phần 16 – Cái Trí là Kẻ Giết Hại Sự Thật
    Cái Trí là kẻ Giết Sự Thật, vậy Đệ tử hãy tiêu diệt kẻ giết sự thật đó” là câu nói thường được trích dẫn nhiều trong quyển Tiếng Nói Vô Thanh của bà Blavatsky. Tuy nhiên, ta không nên hiểu câu nói trên theo nghĩa đen và bài bác việc phát triển trí tuệ. Phát triển trí tuệ là một tiến trình tự nhiên trong công cuộc tiến hóa của nhân loại, và con người phải đi từ đức tin tới sự hiểu biết, từ phân cực cảm xúc đến phân cực trí tuệ, từ con đường của nhà thần bí (mystic) đến con đường của nhà huyền bí học (occultist). Tuy nhiên trên con đường phát triển trí tuệ đó, có những giai đoạn hạ trí phát triển quá mạnh sẽ dẫn đến tác hại không lường nếu người học đạo không nhận diện ra và điều chỉnh nó, mà một trong những tác hại của nó lạc bước vào con đường tả đạo, như Chân sư DK cảnh báo chúng ta như sau trong quyển A Treatise on Cosmic Fire:

    (CF 455) Nhà Huyền linh học thật sự là một nhà khoa học và một người sùng tín, và khi mà hai điều này không hòa hợp vào nhau, chúng ta có nhà thần bí học (the mystic) và con người có nguy cơ thiên về hắc đạo, bị chi phối bởi trí năng (intellect) chứ không phải bởi lòng vị tha;

    Nhà Huyền Linh học thật sự phải vừa là một nhà khoa học, nghĩa là có thể trí phát triển mạnh, và một người sùng tín, nghĩa là phương diện thứ hai—phương diện Bác Ái—cũng phát triển trong y. Nếu chỉ có khía cạnh bác ái thỉ chỉ là nhà thần bí, nhưng nếu chỉ có phương diện trí tuệ thì con người có nguy cơ thiên về hắc đạo vì y thiếu lòng vị tha. Có lẽ cuộc sống cho chúng ta rất nhiều ví dụ về điều này.

    Một nguy cơ khác của thể trí phát triển quá mạnh là sự kiêu căng. Kiêu căng là biểu hiện của một linh hồn còn non trẻ. Những bậc thánh nhân, những người tiến hóa cao vô cùng khiêm tốn, và càng tiến hóa cao các vị càng khiêm tốn hơn. Trong 12 kỳ công của Hercule, kỳ công thứ 8 cung Hổ Cáp là giết con thủy quái chín đầu, câu nói mà vị Thầy ban cho Hercules bí quyết để giết chết con thủy quái đó là “chúng ta cao lên bằng cách quì xuống, chúng ta chiến thắng bằng cách qui phục; chúng ta đạt được bằng cách từ bỏ.” Thật chí lý biết bao câu nói đó, càng khiêm tốn thì chúng ta càng cao lên, và chỉ thông qua khiêm tốn mà chúng ta mới nhanh tiến bước trên đường đạo. Sau đây là trích đoạn (trích trong Luận về Huyền Linh Học Chánh đạo trang 80), Chân sư DK nói về những trở ngại mà một hạ trí phát triển quá mạnh có thể gây ra trên con đường huyền linh học.

    ***********

    Một trở ngại khác [trong huyền linh học] có thể được nhận thấy trong sự phát triển mạnh mẽ của trí cụ thể. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng sự phát triển này phải không hề bị coi như là một sự tổn hại. Tất cả diễn ra đúng theo diễn trình tiến hóa,và sau này, khi phương Đông và phương Tây đã đạt đến một mức độ hiểu biết và tương tác hoàn hảo hơn, sự ảnh hưởng lẫn nhau của hai bên sẽ đem lại lợi ích cho nhau: Đông Phương sẽ được hưởng lợi từ sự kích thích trí tuệ có được nhờ những rung động trí tuệ mạnh mẽ của người anh em phương Tây, trong khi Tây Phương sẽ thu được nhiều điều từ cách lập luận trừutượng của phương Đông, và, thông qua nỗ lực để nắm bắt những gì mà giống dân phụ thứ nhất của căn chủng Aryan đã hiểu rõ một cách dễ dàng, người Tây Phương sẽ giao tiếp được với thượng trí của mình, và nhờ đó tạo được cầu nối giữa thượng trí và hạ trí dễ dàng hơn nhiều. Hai loại người đều cần lẫn nhau, và ảnh hưởng của họ lên nhau hướng đến sự tổng hợp cuối cùng.

    Hạ trí tự bản thân nó có thể cung cấp cơ hội cho một luận đề rất dài, nhưng ở đây chỉ cần nêu ra một vài cách thức mà nó gây cản trở cho những giống dân vốn tiêu biểu cho nó nhiều nhất là đủ.

    a/ Do hoạt động mãnh liệt và hành động bị kích thích,nó ngăn cản nguồn cảm hứng từ trên cao tuôn xuống. Nó hoạt động như một bức màn tối ngăn chận sự giác ngộ cao siêu.Chỉ nhờ sự vững vàng và sự yên tĩnh ổn định mà sự giác ngộ mới có thể thẩm thấu, xuyên qua các thể cao, đến được bộ não vật chất và nhờ thế sẵn sàng cho việc phụng sự thực tế.

    b/ Sự minh triết của Tam Thượng Thể (Triad) tồn tại là để cho phàm ngã sử dụng, nhưng nó bị chận lại bởi những sự thắc mắc, tìm tòi của hạ trí.Khi ngọn lửa của thể trí cháy quá mãnh liệt, nó tạo nên một luồng chống lại với dòng giáng lưu cao siêu, và buộc ngọn lửa dưới thấp vào lại nơi trú ẩn.Chỉ khi nào ba luồng hỏa gặp nhau, nhờ sự điều chỉnh của ngọn lửa trí tuệ ở giữa, ánh sáng đầy đủ mới có thể đạt được,và toàn bộ cơ thể mới tràn đầy ánh sáng, ngọn lửa từ bên trên – tức ánh sáng của Tam Thượng Thể − ngọn lửa của phàm ngã – tức kundalini – và ngọn lửa của trí tuệ, − tức manas vũ trụ − phải gặp nhau trên bàn thờ. Trong sự hiệp nhất của chúng dẫn đến việc thiêu rụi tất cả những gì cản trở và sự giải thoát được hoàn thành.

    c/Bằng sự phân biện – một năng lực của thể trí cụ thể– các thể thấp được huấn luyện thuật phân biệt ảo tưởng với trung tâm của thực tại; cái chân với cái giả; ngã với phi ngã.Vì vậy, tiếp theo đó là một giai đoạn phải được vượt qua, trong đó sự chú ý của Chân Ngã (Ego) nhất thiết được tập trung vào phàm ngã và các hiện thể của nó, và trong đó, sự rung động của Tam Thượng Thể, các định luật liên quan đến sự tiến hóa đại-thiên-địa, và việc chinh phục lửa cho việc sử dụng của Thiêng Liêng (Divine), phải tạm thời hoãn lại.Khi con người nhanh chóng nhìn thấy sự thật trong tất cả những gì mà y tiếp xúc, và tự động chọn sự thật hoặc điều chân, lúc đó y học tiếp bài học về hành động trong niềm vui, và con đường toàn phúc sẽ mở ra trước mắt y.Khi điều này xảy ra, con đường huyền bí học trở nên khả dĩ cho y, vìhạ trí đã được sử dụng đúng mục đích của nó, và đã trở thành khí cụ của y chớ không còn là chủ của y nữa, nó là kẻ giải thích chứ không phải là kẻ ngăn trở nữa.

    d/ Trí cụ thể còn cản trở theo một cách khác bất thường hơn, và là cách mà người môn sinh không hiểu được khi lần đầu cố gắng đặt chân trên con đường gai góc của sự phát triển huyền bí.Khi hạ trí bất trị và chi phối hoàn toàn phàm ngã, người chí nguyện không thể hợp tác với các sự sống (lives) khác và các dòng tiến hóa khác nhau, cho đến khi lòng bác ái thay thế trí cụ thể(mặc dù y có thể, về mặt lý thuyết, hiểu được các định luật chi phối sự tiến hóa của Thiên Cơ, và sự phát triển của các thực thể thái dương khác ngoài Huyền Giai của chính y).Thể trí chia rẻ, còn lòng bác ái thì thu hút. Thể trí tạo ra một rào cản giữa một người và mỗi thiên thần khẩn cầu (suppliant deva).Lòng bác ái phá tan mọi rào cản, và dung hợp các nhóm khác nhau trong sự hợp nhất. Thể trí đẩy ra bằng một rung động mạnh mẽ dữ dội, vứt bỏ tất cả những gì được tiếp xúc, giống như một bánh xe thải ra ngoài tất cả những gì cản trở chu vi xoay tít của nó. Lòng bác ái tập hợp tất cả vào chính nó, và mang mọi thứ theo với nó, gắn kết các đơn vị riêng biệt thành một tổng thể đồng đều hợp nhất. Thể trí xua đẩy do sức nóng mãnh liệt của nó, làm khô héo và đốt cháy những gì đến gần nó. Lòng bác ái xoa dịu và chữa lành nhờ sự tương tự giữa nhiệt của nó với nhiệt của những gì mà nó tiếp xúc, và hòa lẫn sự ấm áp và ngọn lửa của nó với sự ấm áp và ngọn lửa của các sự sống đang tiến hóa khác. Cuối cùng, thể trí đập vỡ và phá hủy trong khi lòng bác ái tạo ra sự kết hợp và hàn gắn.

    Mọi thay đổi trong cuộc sống con người, đều lệ thuộc vào các định luật bất di bất dịch, nếu ta có thể thừa nhận một phát biểu nghịch lý như vậy. Trong nỗ lực để tìm ra những định luật này, để thích ứng với chúng, nhà huyền linh học bắt đầu hóa giải nghiệp quả, và như thế không còn nhuộm màu cảm dục quang. Cho đến nay, phương pháp duy nhất mà nhiều người quan tâm có thể thấu hiểu được các định luật này là thông qua việc nghiên cứu chặt chẽ những thăng trầm của đời sống hằng ngày khi trải qua một thời gian dài nhiều năm. Ví dụ, qua các đặc điểm nổi bật của một chu kỳ mười năm khi đối chiếu với giai đoạn tương tự trước đó hoặc tiếp theo mà một đạo sinh có thể ước chừng khuynh hướng của các sự việc và tự hướng mình theo đó. Khi người môn sinh đạt đến trình độ tiến hóa mà y có thể đối chiếu các kiếp sống trước đây và đạt được sự hiểu biết về sắc thái cơ bản của chu kỳ sống trước kia của mình, bấy giờ y có được sự tiến bộ nhanh chóng thông qua việc điều chỉnh cuộc sống theo định luật. Khi người đạo sinh cũng thấu hiểu, thấy và biết rõ sắc thái của các kiếp sống sau này, bấy giờ Nghiệp Quả (như được biết đến trong ba cõi thấp) chấm dứt, và vị Chân sư am hiểu tất cả nhân và quả chi phối và điều chỉnh vận thể thấp của Ngài.

    http://www.minhtrietmoi.org/Wordpress/cau-tao-con-nguoi-phan-16-cai-tri-la-ke-giet-hai-su/
    vuinheban thích bài này.
  9. Duoi_Chan_Thay

    Duoi_Chan_Thay Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2016
    Đã được thích:
    144
    Bộ phim mới xuất bản rất hay, đáng xem với tất cả mọi người đang đi tìm lời giải đáp cho cuộc đời hoặc cho xã hội:


    Lưu ý: để xem được sub tiếng Việt (google dịch) vào phần setting của youtube rồi chọn sub dịch sang Vietnamese.

  10. Duoi_Chan_Thay

    Duoi_Chan_Thay Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2016
    Đã được thích:
    144
    Lễ Đức Phật hiện (Lễ Wesak 2017)


    Hằng năm, vào ngày rằm tháng 4 Âm Lịch, vào đúng giờ trăng tròn ở một thung lũng nằm trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, Đức Phật sẽ hiện ra trong cuộc lễ được cử hành để đón tiếp Ngài.

    Giờ trăng tròn tại địa điểm này vào ngày rằm tháng tư năm 2017 tính theo giờ Việt nam là 04:43 – sáng ngày 11/05.

    Các bạn có đạo tâm có thể tổ chức ngồi thiền trong khoảng thời gian này (khoảng trước nửa tiếng và sau nửa tiếng), nghĩ đến diễn tiến buổi lễ, giữ tâm thanh tịnh nhưng tích cực. Các bạn có khả năng hơn có thể sử dụng thể cảm dục để đến nơi hành lễ.

    Sau là các phần trích được viết bởi ông Leadbeater và bà Bailey mô tả về cuộc lễ và bài viết của Chân Sư D.K giải thích ý nghĩa huyền bí của cuộc lễ.

    − Trong quyển “Chân Sư và Thánh Đạo” do ông Nguyễn Hữu Kiệt dịch, ông Leadbeater mô tả cuộc lễ như sau:

    “Ngày Đức Phật xuất hiện mỗi năm một lần để ban ân huệ cho thế gian nhằm vào ngày rằm tháng năm, bên Ấn Độ và Tích Lan gọi là ngày Wesak, thường vào tháng năm dương lịch. Ngày đó cũng là ngày kỷ niệm những dịp quan trọng xảy ra trong kiếp sống cuối cùng của Đức Phật ở cõi trần, tức ngày sinh, ngày thành đạo và ngày tịch diệt của Ngài.

    “Vào dịp này, ngoài ý nghĩa về phương diện huyền bí vô cùng quan trọng của nó, có một cuộc lễ được cử hành ở thế gian, trong cuộc lễ ấy, Đức Phật hiện ra trước mặt một số đông người hành hương. Những người này có thấy được Ngài hay không, thì tôi không biết chắc; nhưng họ đều cúi lạy theo những vị Chơn Tiên và các đệ tử, những vị này đều thấy Đức Phật hiện ra thật sự. Hình như ít nhất cũng có vài người hành hương được nhìn thấy Ngài, vì cuộc lễ này được những người Phật tử ở vùng Trung Á biết rõ. Người ta nhắc nhở đến cuộc lễ đó như sự xuất hiện hình bóng hay sự phản ảnh của Đức Phật, và sự mô tả cuộc lễ theo tục truyền có phần khá đúng…

    NƠI HÀNH LỄ

    “Địa điểm được chọn để hành lễ là một vùng cao nguyên nhỏ có những đồi thấp bao bọc chung quanh, ở phía bắc dãy Hi Mã Lạp Sơn cách biên giới xứ Népal không xa, và có lẽ độ chừng 400 dặm phía tây thành phố Lhasa bên Tây Tạng. Đó là một khoảnh đất bằng phẳng, hình chữ nhựt, độ chừng một dặm rưỡi bề dài và bề ngang thì ngắn hơn. Khoảng đất thoai thoải từ hướng nam lên hướng bắc, hầu hết trống trải và có đá, mặc dù rải rác có cỏ dại và bụi cây. Một dòng suối chảy qua ở góc phía tây vùng cao nguyên, và lên phía bắc thì nó chảy vào một thung lũng có rừng thông bao phủ, sau cùng nó đổ vào một cái hồ cách đó một quãng vài dặm. Vùng chung quanh có vẻ hoang vu hẻo lánh, không có người ở, và không có một nhà nào trừ ra cái tháp cổ đã điêu tàn với vài ba cái chòi rải rác trên sườn một ngọn đồi ở về phía đông.

    “Về phía nam, có một tảng đá lớn màu xám dựng đứng như bàn thờ, độ bốn thước bề dài và hai thước bề ngang, nhô lên khỏi mặt đất chừng một thước.
    (hình “địa điểm hành lễ”)

    “Vài ngày trước khi hành lễ, người ta thấy dọc hai bên bờ suối, dưới chân những ngọn đồi chung quanh có những ngọn lều được dựng lên mỗi lúc càng nhiều. Những túp lều này có một hình dáng lạ lùng, phần nhiều màu đen, và chốn hoang vu cô tịch này bỗng nhiên trở nên sinh động với những ngọn lửa trại của những người đi hành hương đốt lên. Họ là những bộ lạc lưu động từ miền Trung Á và có người từ miền bắc xa xôi đến đây. Vào ngày trước đêm trăng tròn, họ đều tắm gội sạch sẽ, và thay quần áo mới để chuẩn bị hành lễ.

    “Vài giờ trước khi hành lễ, họ tựu họp ở chỗ góc phía bắc vùng cao nguyên, họ ngồi xuống đất một cách lẳng lặng có trật tự và chừa một khoảng trống trước chỗ tảng đá lớn làm bàn thờ. Theo thông lệ, thì vài vị sư trưởng (lamas) có mặt, mượn cơ hội này để thuyết pháp cho dân chúng. Độ một giờ trước khi trăng tròn, những vị khách dự lễ bắt đầu đến bằng thể vía của các Ngài, trong số đó có những nhân viên Quần Tiên Hội (tức Đại Đoàn Chưởng Giáo). Vài Vị trong số đó hiện hình cho những người hành hương thấy rõ, và những người này liền cúi lạy các Ngài. Trong dịp này những đấng Chơn Sư, có vài Vị cấp đẳng cao hơn nữa cũng nói chuyện thân mật với các vị đệ tử và với những người khác đang có mặt tại chỗ. Trong khi đó những người khác có phận sự chưng dọn bàn thờ trên tảng đá lớn để chuẩn bị cuộc lễ. Họ đặt lên đó những bông hoa đẹp đẽ nhứt và ở bốn góc thì để những tràng hoa sen. Giữa bàn thờ, có đặt một chén bằng vàng đựng đầy nước và ngay trước mặt có chừa một khoảng trống giữa các đóa hoa.

    CUỘC HÀNH LỄ

    “Độ nửa giờ trước khi trăng tròn, lúc đức Văn Minh Đại Đế vừa ra hiệu thì nhân viên Quần Tiên Hội qui tụ lại chỗ khoảng trống chính giữa vùng cao nguyên, ở phía bắc tảng đá lớn dựng làm bàn thờ. Các Ngài sắp hàng theo ba vòng tròn lớn, tất cả đều day mặt vào trong, vòng phía ngoài gồm những nhân viên trẻ tuổi trong Quần Tiên Hội, còn vòng ở phía trong là những Đấng cao hơn.

    “Vài đoạn kinh Phật được ngâm lên bằng tiếng Nam Phạn (Pali); khi giọng ngâm vừa dứt, thì Đức Di Lạc Bồ Tát hiện ra ở trung tâm vòng tròn và cầm nơi tay một cây thần trượng (cây gậy phép). Cây thần trượng này là bửu vật để thu thần lực của đức Hành Tinh Chơn Quân (hay Hành Tinh Thượng Đế, vị chủ quản của dãy hành tinh địa cầu) và được Ngài truyền từ điển kể từ hằng mấy triệu năm về trước, khi Ngài bắt đầu chuyển động luồng sóng sinh hoạt của nhân loại trên dãy hành tinh chúng ta hiện nay. Chúng tôi nghe nói cây gậy phép này thể hiện cho sự tập trung thần thức của đức Chơn Quân, và nó được thuyên chuyển từ bầu hành tinh này sang bầu hành tinh khác mỗi khi Ngài chuyển di thần thức của Ngài vào một bầu thế giới nhứt định. Nói một cách khác, hễ cây gậy phép này ở nơi nào, thì nơi đó đương thời là trung tâm điểm của sân trường tiến hóa của vạn vật, khi nó rời khỏi bầu hành tinh của chúng ta để chuyển qua bầu thế giới khác, thì quả địa cầu này sẽ đắm chìm trong giấc ngủ triền miên, không còn sinh hoạt nữa.

    “Việc nó có được thuyên chuyển qua những bầu thế giới vô hình (những thế giới cấu tạo bằng những chất thanh khí, nhẹ hơn vật chất hồng trần) hay không, thì chúng tôi không được biết. Chúng tôi cũng không biết rõ cách sử dụng cây gậy phép này ra sao về vai trò của nó trong việc giữ gìn kho thần lực của thế giới. Lúc bình thường, nó được giao cho Đức Ngọc Đế gìn giữ tại Shamballa và theo chỗ chúng tôi được biết thì cuộc lễ Wesak là cơ hội duy nhứt mà nó rời khỏi tay Ngài.
    (hình “thần trượng”)

    “Cây gậy hình dáng giống cây đoản côn, làm bằng chất kim khí rất hiếm gọi là «Orichalcun» bề dài độ chừng 7 tấc và bề tròn đường kính độ chừng 7 phân; ở hai đầu, mỗi đầu đều có một viên kim cương hình tròn như trái cam và một cái mũi nhọn chụp lên trên. Cây gậy phép này luôn luôn tỏa ra một hào quang sáng rực như ánh lửa. Điều đáng ghi nhận là chỉ có một mình Đức Di Lạc Bồ Tát sử dụng cây gậy phép trong suốt cuộc lễ.

    “Khi Ngài vừa hiện ra ở chính giữa ba vòng tròn, thì tất cả các vị Chơn Sư và các đệ tử đều kính cẩn nghiêng mình để chào Ngài, và một đoạn kinh khác lại được ngâm lên. Sau đó, khi giọng ngâm vẫn vang rền, thì hai vòng tròn cử động và dời chỗ để sắp hàng thành một hình chữ thập và Đức Di Lạc vẫn đứng ở ngay trung tâm. Trong giai đoạn thuyên chuyển kế đó, hình chữ thập đổi lại thành hình tam giác, và Đức Bồ Tát cũng dời chỗ để đứng ở ngay góc trên đầu, gần kế bên bàn thờ bằng đá. Trên bàn thờ, ở chỗ khoảng trống phía trước cái chén bằng vàng, Đức Bồ Tát kính cẩn đặt cây gậy phép, trong khi đó ở phía sau lưng Ngài, những vị đạo đồ đứng ở vòng ngoài bèn đổi chỗ để biến cái vòng thành hình cái hoa có ba cánh, tất cả đều day mặt về phía bàn thờ. Trong giai đoạn kế đó, hình cái hoa đổi thành hình tam giác lộn đầu, làm thành ra hai hình tam giác tréo góc, y như biểu tượng của Hội Thông Thiên Học, nhưng không có con rắn khoanh tròn. Sau cùng, đến lượt hai hình tam giác này đổi thành hình ngôi sao năm góc, Đức Bồ Tát vẫn đứng nguyên chỗ cũ gần bàn thờ và những vị Đế Quân thì đứng ở năm điểm cách khoảng nhau trên ngôi sao.
    (hình “các hình ảnh theo nhịp điệu”)

    “Đến giai đoạn thứ bảy, tức là giai đoạn cuối cùng, thì giọng ngâm dứt hẳn. Sau một lúc im lặng, Đức Di Lạc lại cầm gậy phép trong tay và đưa lên khỏi đầu, Ngài nói một câu giòn giã bằng tiếng Pali: «Bạch Thế Tôn, tất cả đều sẵn sàng. Xin mời Ngài hạ giáng!»

    “Kế đó, Ngài vừa đặt cây gậy phép xuống bàn thờ, thì vừa đúng lúc trăng tròn, Đức Phật liền xuất hiện như một nhân vật khổng lồ lơ lửng trong không gian, ngay ở trên những ngọn đồi phía nam. Những nhân viên Quần Tiên Hội chắp tay vái chào Ngài, còn đám đông những người hành hương ở phía sau thì cúi lạy rạp mình xuống đất, trong khi đó những người khác ngâm lên ba câu kệ tam qui, tức là qui Phật, qui Pháp, qui Tăng.

    “Kế đó, đám đông người đứng dậy và chiêm ngưỡng dung nhan Đức Phật trong khi những nhân viên Quần Tiên Hội ngâm bài kinh Mahamangala Sutta để ban phước lành cho họ:
    (hình “bài kinh Mahamangala Sutta”)

    “Hình ảnh đức Phật hiện trên đỉnh đồi tuy là rất lớn, nhưng giống như tướng mạo của Ngài lúc còn sanh tiền. Ngài ngồi kiết dà, hai bàn tay giao nhau, mình mặc áo cà sa vàng theo lối tăng lữ, cánh tay mặt để trần. Gương mặt Ngài biểu lộ sự trầm tĩnh, quyền lực, minh triết và bác ái đến một mức tuyệt đối thiêng liêng ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, thật là khôn tả. Nước da Ngài màu ngà, những nét trên mặt Ngài rất rõ rệt, một vầng trán rộng, cặp mắt lớn và sáng màu xanh đậm, mũi cao, cặp môi đỏ, nhưng đó chỉ là tạm phác họa thô sơ hình dáng bề ngoài mà thôi, chớ không đủ diễn tả phong độ uy nghi và thần sắc siêu việt của Ngài một cách đầy đủ trọn vẹn. Tóc Ngài màu đen và dợn sóng, không để dài như phong tục Ấn Độ, cũng không hoàn toàn xuống tóc như các vị sư tăng, mà cắt ngắn chí cổ, chưa chấm xuống vai, chẻ ra ở giữa và chải ngược về phía sau. Truyện tích nói khi thái tử Sĩ Đạt Ta rời khỏi cung điện quyết chí đi tìm đạo, Ngài rút gươm cắt tóc ngay vừa khỏi đầu, và từ đó đến sau tóc Ngài vẫn để ngắn như thế.

    “Một khía cạnh đặc biệt nhứt của hình ảnh Đức Phật hiện, là hào quang của Ngài tốt đẹp vô cùng bao bọc chung quanh. Hào quang đó gồm nhiều từng lớp đồng một trung tâm, như những hào quang của các bậc đã tiến hóa cao, và chiếu những màu sắc thật đặc biệt. Hình ảnh Đức Phật được bao bọc trong một vầng ánh sáng vừa chói lòa, vừa trong vắt, chói lòa đến nỗi mắt phàm không thể nhìn lâu, nhưng đồng thời lại trong suốt, làm cho gương mặt Ngài và màu áo hiện rõ hoàn toàn. Phía ngoài là, một vòng màu xanh dương, nối tiếp theo là những vòng màu vàng chói, màu hường, màu trắng bạc và màu đỏ rất đẹp, tất cả những màu sắc này thật ra là những khối tròn, nhưng hiện ra trên nền trời xanh như những vòng tròn cùng một trung tâm. Phía ngoài tất cả, từ những vòng hào quang này bắn ra những tia chớp đủ màu sắc lẫn lộn có cả màu lục và màu tím.

    “Trong những sách khác, chúng tôi có nói đến màu đỏ trong hào quang biểu lộ sự nóng giận. Điều này đúng trong thể vía của người thường; thuộc về bốn cảnh thấp của cõi trung giới. Nhưng ngoài ra, chúng tôi còn nhận thấy trên những cõi cao siêu, một màu đỏ trong sáng và đẹp lộng lẫy, giống như tinh hoa của ngọn lửa, là biểu hiện của một lòng dũng cảm và cương quyết mạnh mẽ phi thường. Màu đỏ này trong hào quang của Đức Phật tự nhiên là biểu lộ những đức tánh kể trên đến một mức tuyệt đích vậy.

    “Khi đoạn kinh Mahamangala Sutta ngâm vừa dứt, Đức Di Lạc cầm lấy cái chén bằng vàng đựng nước trên bàn thờ, và nâng lên khỏi đầu Ngài trong một lúc. Trong khi đó, đám đông ở phía sau cũng đã chuẩn bị sẵn và đem theo những bình đựng nước, liền làm theo Ngài. Khi Ngài đặt cái chén lại chỗ cũ trên bàn thờ, thì một đoạn kinh khác lại được ngâm lên, lời lẽ ca tụng Đức Thích Ca Như Lai.

    “Tiếng ngâm vừa dứt, một nụ cười đầy bác ái nở trên gương mặt Đức Như Lai. Ngài đưa bàn tay mặt lên để ban ân huệ, trong khi đó hàng ngàn cánh hoa rơi xuống như mưa giữa đám dân chúng. Một lần nữa những nhân viên Quần Tiên Hội lại vái chào, đám đông cúi lạy rạp xuống đất, hình ảnh Đức Phật trở nên lu mờ và từ từ biến mất, trong khi đó những người hành hương thốt ra những tiếng kêu vui mừng và ca tụng.

    Những nhân viên Quần Tiên Hội liền theo thứ tự tiến đến bàn thờ, và thay phiên nhau uống hớp nước trong cái chén vàng. Còn dân chúng cũng uống một hớp nước trong bình riêng của họ, và phần còn lại thì họ đem về nhà để dùng làm «nước thánh», có công dụng trừ tà hoặc để chữa bịnh. Kế đó, đám người hành hương phân chia tứ tán sau khi đã trao đổi những lời chúc tụng lẫn nhau, và họ trở về nhà, mang theo kỷ niệm khó quên của cuộc lễ thiêng liêng mà họ vừa tham dự.”

    − Phần mô tả của bà A.A. Bailey trong quyển “Tự Truyện chưa hoàn tất” do Trân Châu biên dịch, về cuộc lễ:

    “Sự kiện phi thường này diễn ra hằng năm trong một thung lũng của rặng Hy Mã Lạp Sơn và thực sự xảy ra ở cõi trần chứ không phải là một chuyện thần thoại mơ hồ. Tôi thấy mình (hoàn toàn tỉnh táo) ở trong thung lũng đó, giữa một đám người rất đông nhưng có trật tự − phần lớn là người Á Đông với những người Tây Phương rất rải rác. Tôi biết chính xác chỗ đứng của mình trong đám đông và hiểu ra rằng đó là chỗ đúng đắn của tôi, nó cho thấy vị thế tinh thần của tôi.

    “Thung lũng này rộng, hình bầu dục và lởm chởm đá, bốn bề có núi cao. Đám người tụ tập trong thung lũng, quay mặt về phía Đông, hướng về một lối vào hẹp, hình cổ chai ở cuối thung lũng. Ngay trước lối vào hình phễu này có một tảng đá rộng, nổi lên trên mặt thung lũng như một cái bàn lớn, bên trên có một cái bồn bằng pha lê chứa đầy nước, xem chừng đường kính có đến một mét. Có ba nhân vật đứng trước đám đông và đối diện với tảng đá. Ba vị này hợp thành một tam giác và lạ lùng làm sao, vị ở đỉnh của tam giác tôi thấy dường như là Đức Christ. Tập thể đang chờ đợi chừng như di chuyển liên tục, và khi di chuyển, họ hình thành các biểu tượng chính yếu và rất quen thuộc – như những dạng thập tự khác nhau, vòng tròn với tâm điểm, ngôi sao năm cánh và nhiều loại tam giác tréo nhau. Nó gần giống như một vũ điệu trang nghiêm, nhịp nhàng, rất chậm rãi và rất trang trọng nhưng hoàn toàn im lặng. Bỗng nhiên ba Nhân Vật trước thạch bàn đưa tay các Ngài hướng lên trời. Đám đông lặng yên bất động. Ngoài xa, cuối đường đèo hình phễu, chúng tôi thấy một Nhân Vật trên bầu trời, bay lơ lửng trên lối vào và từ từ đến gần thạch bàn. Bằng một cách nào đó mà trong tâm tôi biết rằng đó chính là Đức Phật. Tôi nhận thức được điều này. Đồng thời tôi biết rằng Đức Christ của chúng ta cũng không kém phần quan trọng. Tôi thoáng thấy sự hợp nhất và Thiên Cơ mà Đức Christ, Đức Phật và tất cả các Chân Sư mãi mãi hiến mình thực hiện…”

    − Trong “Tham Thiền Huyền Linh”, Chân Sư D.K. giải thích ý nghĩa huyền bí của các nghi thức trong cuộc lễ.

    “Các bạn có một thí dụ cho điều này trong lễ Wesak kỳ diệu, rất phổ biến ở Ấn Độ cho đến ngày nay, khi Đại Đoàn Chưởng Giáo tự trở thành một vận hà cho sự truyền dẫn năng lượng và ân huệ từ các cấp độ của Đức Phật. Đức Phật đóng vai trò của một điểm hội tụ cho năng lượng đó, và – đưa nó xuyên qua hào quang của Ngài – rót nó lên khắp nhân loại theo con kênh được cung cấp bởi tập hợp các vị Bồ Tát (Lords), các Chân Sư, các cấp đạo đồ và các đệ tử. Vận hà này được thành lập nhờ sử dụng âm thanh và nhịp điệu được dùng cùng một lúc. Bằng cách xướng lên một câu thần chú nhất định, bằng phương tiện của các chuyển động chậm rãi và nhịp nhàng đi kèm với việc xướng thần chú này, hình phễu được thành hình vươn lên tận vị trí mong muốn. Các hình hình học được tạo nên trong vật chất của cõi cao hơn cõi trần (vốn là kết quả của sự chuyển động theo dạng hình học của nhóm các vị được tập họp nơi trung tâm Hy Mã Lạp Sơn này), các hình này tự hợp thành các con đường tiếp cận kỳ diệu đến trung tâm của ân phước cho dân chúng, thiên thần hay các sinh linh khác, từ bất cứ cảnh giới đặc biệt nào. Với những người có thể thấy cảnh tượng bằng thần nhãn, vẻ mỹ lệ của các dạng hình học này là không thể tin được, và vẻ mỹ lệ đó được tăng thêm bởi các hào quang rực rỡ của các Đấng Cao Cả đang tập họp nơi đó.”

    (*) theoLucistrust.org

    Cầu mong tất cả các bạn nhận được ân phước từ cuộc lễ.

    Bài kinh Mahamangala Sutta

    I

    Cả thiên thần và người

    Đều mong được phước lành

    Bạch Phật dạy chúng con

    Phước nào phước lớn nhứt?

    II

    Không phụng sự kẻ ngu

    Mà phụng sự người hiền

    Trọng vọng người xứng đáng

    Đó là phước lớn nhứt.

    III

    Cư ngụ nơi đất lành

    Đã làm lành kiếp trước

    Lòng suy tưởng việc lành

    Đó ân huệ lớn nhứt.

    IV

    Học rộng hiểu biết nhiều

    Tự chủ và luyện trí

    Miệng nói những điều lành

    Đó là phước lớn nhứt.

    V

    Nuôi dưỡng cha cùng mẹ

    Yêu thương vợ với con

    Theo đuổi nghề nghiệp lành

    Đó là ân huệ lớn nhứt.

    VI

    Ham làm việc bố thí

    Giúp đỡ kẻ bần hàn

    Chỉ mong làm việc phải

    Đó là phước lớn nhứt.

    VII

    Không làm điều tội lỗi

    Không dùng chất rượu mạnh

    Làm lành không tiếc thân

    Đó là ân huệ lớn nhứt.

    VIII

    Kính cẩn và khiêm tốn

    An phận và biết ơn

    Bốn mùa nghe chánh pháp

    Đó là phước lớn nhứt.

    IX

    Chịu cực và kiên nhẫn

    Giao du với bạn hiền

    Luận đàm việc đạo lý

    Đó ân huệ lớn nhứt.

    X

    Tiết độ và trong sạch

    Hiểu biết Tứ Diệu Đế

    Tâm hướng Niết bàn cảnh

    Đó là phước lớn nhứt.

    XI

    Giữa cuộc đời chìm nổi

    Lòng vẫn không xao động

    Yên tịnh, không phiền não

    Đó là huệ lớn nhứt.

    XII

    Ai làm được như thế

    Dù gặp hoàn cảnh nào

    Trong lòng vẫn thanh tịnh

    Người ấy phước lớn nhứt.


    [​IMG]


    [​IMG] [​IMG]

    [​IMG]

Chia sẻ trang này