Cuối tuần xin phép DD cho các đệ tử Phật được nghe các bài giảng và phim về Đạo Phật !

Chủ đề trong 'Giao Lưu' bởi phongthuyBDS, 01/01/1970.

3675 người đang online, trong đó có 273 thành viên. 07:59 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 2 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 2)
Chủ đề này đã có 158724 lượt đọc và 2008 bài trả lời
  1. Hoa_Sim

    Hoa_Sim Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    27/11/2010
    Đã được thích:
    23.967
    [​IMG]

    Sư tử, cọp, chó vui đùa với nhau !

    [​IMG]

    Mèo ôm chuột ngủ !

    [​IMG]

    Chó , mèo, chuột lang, thỏ con... chung sống hòa bình !
    Trong thiên nhiên, bản năng sinh tồn khiến mèo ăn chuột, chó săn thỏ, sư tử và cọp ăn thịt những con khác kể cả to hơn chúng( trâu bò nai... ).
    Dưới bàn tay chăm sóc huấn luyện của người, chúng trở nên thân thiện với nhau và mất dần bản năng hiếu sát !
    Tại sao loài người không thể sống với nhau trong hòa bình như thế ?
    Tất cả vì lòng tham và ích kỷ !
    Chiến tranh giữa các quốc gia, công ty này thôn tính công ty khác, lừa đảo giữa người với người, tham nhũng, cướp giật... tất cả là do lòng tham mà ra !
    Bởi vì con người coi cái tôi hơn tất cả !
    Nếu mọi người đều học tập và thực hành đúng theo lời dạy của Bác Hồ , kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân thì xã hội sẽ không cần nhà tù vì sẽ không còn tội phạm !

    Xem những tấm hình động này thì đau xót thấy rằng thật ra con người không bằng con vật !
  2. tulacoiphuc

    tulacoiphuc Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    06/11/2013
    Đã được thích:
    2.618
    Mô Phật ,xin cho con tu được như hạnh của Đất,nước,gió lửa ạ!
    [​IMG]
    Kính chúc các bạn của Tu những ngày cuối tuần và Quốc Khánh 2014 thật nhiều ấn tượng ,
    nhiều ý nghĩa cho cả Đạo và đời ạ !
  3. Binh Yen

    Binh Yen Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2014
    Đã được thích:
    173.001
    Rộng mở tâm hồn đón nhận tất cả

    Trong đời sống thường nhật, bị áp lực thời gian, bất mãn với hàng loạt gánh nặng gia đình và công việc, mỗi ngày, chúng ta đều cảm thấy bế tắc, thậm chí tuyệt vọng. Vì tin rằng tu tập nghĩa là phải có thời gian để chuyên nhất quán tưởng, lễ lạy, thực hiên các nghi lễ cúng dường hay tâm linh khác, v.v…, chúng ta càng tin tưởng mình còn thiếu thiện duyên. Ta vẫn tự nhủ, "Làm sao mình có thể trở thành một hành giả chân chính nếu không có thời gian để thực hành?" Tuy nhiên, đây là một cách hiểu về việc thực hành Phật pháp hoàn toàn thiếu thực tế, sai lầm.

    Chúng ta hãy kiểm nghiệm lại pháp tu Lục độ Ba La Mật, mang ý nghĩa sáu phương pháp hoàn hảo gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ - tất cả đều cần thiết để thành tựu Phật quả. Bất kỳ sự thực hành nào trong số sáu phương pháp này đều đòi hỏi chúng ta phải liên hệ và tương tác với mọi người.
    Nói cách khác, để có thể thực hành Lục độ Ba la mật một cách sâu sắc, chúng ta cần những mâu thuẫn và xung đột trong chính cuộc sống đời thường. Nếu chỉ ngồi yên nơi tịnh thất và cho rằng mình đang tràn đầy tình yêu thương cùng các phẩm chất tích cực như vị tha, bao dung, nhẫn nhục thì đó là điều quá dễ dàng bởi ta chẳng gặp phải bất kỳ thách thức nào. Nhưng khi xả thất, ta gặp gỡ rất nhiều người trong đời sống thực tế, những người không đối tốt với ta, không làm theo những điều ta mong muốn, ta sẽ nhìn thấy mình rõ hơn và bắt đầu hiểu thế nào là thực hành Phật pháp chân chính.

    Chúng ta có thể áp dụng hai cách tiếp cận cơ bản trong quá trình tu tập của mình. Thứ nhất, ta cần học cách sống tỉnh thức mỗi ngày - đây là điều cốt yếu. Thứ hai là học cách rộng mở tâm hồn thông qua thực hành Lục độ ba la mật đặc biệt là hạnh bố thí và nhẫn nhục. Nếu tâm hồn chúng ta khép chặt, dù trì tụng bao nhiêu chân ngôn, thực hiện bao nhiêu lễ lạy, thụ nhận bao nhiêu quán đỉnh, tầm đọc bao nhiêu kinh sách cũng đều vô nghĩa. Nếu sự hành trì không giúp ta thay đổi một cách đúng đắn, tích cực thì điều đó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì.

    Vì hay đồng hóa bản thân với đủ mọi cảm xúc, tư tưởng, thiên kiến và định kiến nên chúng ta không còn chỗ cho chính mình để có thể nhìn mọi thứ một cách chân xác trong mọi hoàn cảnh. Đắm chìm trong "vũng lầy" vô minh ấy, ta thường có những lựa chọn sai lầm trong hầu hết mọi tình huống. Giống như bị quăng quật, quay cuồng giữa cơn bão biển, cuộc sống cũng tương tự vậy, chúng ta phải học cách giữ định tâm giữa những bão tố của đời thường. Cách tốt nhất là tỉnh thức và rộng mở tâm hồn đón nhận khoảnh khắc hiện tại. Như vậy được gọi là chánh niệm. Bậc Đại thành tựu giả Milarepa từng nói rằng càng trải qua bão tố thăng trầm của hạnh phúc và khổ đau, càng có cơ hội tu tập và thành tựu giác ngộ trong cuộc đời.

    Chúng ta hãy tìm hiểu về ý nghĩa thực sự của tỉnh thức. Thông thường, khi chúng ta nghĩ rằng mình đang trong giây phút hiện tại, thực ra đó là lúc chúng ta đang diễn giải hiện tại, chúng ta suy tưởng về hiện tại thay vì thực sự ở trong khoảnh khắc thuần túy đó. Chúng ta có thể tự nhủ "Phải rồi, mình sẽ chánh niệm", ta ngồi và nghĩ “Đúng rồi, mình đang chánh niệm đây”. Nhưng như vậy không phải là chánh niệm, chẳng qua là chúng ta đang nghĩ về chánh niệm mà thôi. Trong khoảnh khắc chánh niệm thực sự, thậm chí khái niệm về chánh niệm cũng không tồn tại. Chánh niệm chỉ đơn giản là sự tỉnh thức trực tiếp, rộng mở. Vì tâm bị che mờ và lớp lớp vọng tưởng nên hiện tại không thể hiển lộ đối với chúng ta. Chúng ta có thể cho rằng mình luôn tỉnh thức, thông thái và khôn ngoan nhưng thực ra phần lớn thời gian chúng ta hành xử như một cái máy. Bấm nút và nhận kết quả. Tâm đầy ắp những suy tưởng về quá khứ hoặc tương lai, kẹt mắc giữa những vọng tưởng, mơ mộng, những câu chuyện được thêu dệt, những ý kiến, những bình phẩm và phán xét – như vậy quá khó có thể buông bỏ những vọng niệm này để chỉ chú tâm vào những gì đang thực sự diễn ra. Vì thế, chúng ta cần thức tinh chính mình khỏi cơn mê. Khoảnh khắc mà ta đạt được tỉnh thức - dù cho đó chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi - ta có thể nhận ra mình đã mê mờ. Trong trải nghiệm của tâm tỉnh thức rộng mở, mọi thứ đều trở nên sáng rõ. Mọi thứ đều thay đổi, đều được chuyển hóa. Ta nhận ra rằng không chỉ bản thân mình mê mờ mà hầu hết những người khác cũng vẫn còn đang vô minh như vậy.

    Đức Phật, vô cùng thực tế và thiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại. Ngài bắt đầu với những khai thị về thân - cấp độ thô lậu nhất - bởi thân là trải nghiệm mà tất cả chúng ta đều dễ dàng nhận thấy. Trong lúc sống với thân này, phần lớn thời gian chúng ta không ý thức được về nó, chúng ta hoàn toàn tách biệt với thân. Vì vậy, bước đầu tiên là quay về với hiện tại của thân, chẳng hạn, khi ngồi ta biết mình đang ngồi; khi đứng ta biết mình đang đứng, khi đi ta biết mình đang đi; khi nằm ta biết mình nằm. Chỉ đơn giản như vậy. Chúng ta có thể so sánh việc này như là thức giấc. Nhưng tâm chúng ta chỉ có thể tỉnh thức trong chốc lát rồi lại tiếp tục mê mờ. Thật lạ lùng là tâm luôn muốn “ngủ”! Do vậy, chúng ta cần nhắc nhở mình trở về với hiện tại bởi đó là khoảng thời gian duy nhất ta thực sự sở hữu. Tất cả những thứ khác đều chỉ là sự phóng chiếu của tâm.

    Cách khác để rộng mở tâm hồn trong khoảnh khắc hiện tại là dùng hơi thở. Hơi thở là yều tố liên hệ giữa thân và tâm. Sân hận, sợ hãi, an lạc hay bất kỳ cảm xúc nào mà ta có đều được thể hiện qua hơi thở. Theo truyền thống Phật giáo, hơi thở được ví như con tuấn mã trong khi tâm là người kỵ sĩ. Dù cho thông thường, hít thở là một quá tình tự động, chúng ta hoàn toàn có thể tỉnh thức trong tiến trình này. Và nếu ta có thể thực sự kết nối với hơi thở, hòa nhập vào trong hơi thở, không vọng niệm gì về việc hòa nhập hay kết nối này thì như vậy nghĩa là ta đang thực sự ở trong hiện tại. Bởi hơi thở chính là hiện tại, nó ở ngay đây, trong chính khoảnh khắc này. Khi bạn bị căng thẳng và stress, cách giải tỏa vô cùng thiện xảo là điều phục tâm nương theo hơi thở vào ra. Điều này đặc biệt hữu ích khi ta phải xếp hàng chờ đợi hay đang lái xe. Khi phải dừng trước đèn đỏ, ta có thể nóng ruột nhưng nếu suy ngẫm rằng "đây chính là cơ hội tuyệt vời để thực hành", sau đó, ta xoay sự chú ý của mình về hơi thở, tình huống sẽ thay đổi ngay lập tức. Chúng ta sẽ hoan hỷ với viêc chờ đợi này!
    Sự thực hành tu tập còn có một cấp độ khác đó là tỉnh giác nhận thức tâm của chính mình. Đây là cấp độ quan trọng nhất đồng thời khó khăn nhất để thực chứng bởi nó cũng là cấp độ vi tế nhất. Tất cả những Đại thành tựu giả yogi trong quá khứ đều cho rằng cốt tủy của việc thực hành là luôn quán sát tâm tại mọi thời điểm. Đây dĩ nhiên là căn bản của việc thực hành tu tập về tâm. Nhưng thế nào là giữ tâm tỉnh giác, sáng suốt? Ví dụ kinh điển là hình ảnh một người ngồi bên bờ sông quan sát dòng nước đang chảy trôi. Ví dụ khác nói về một người chăn cừu khéo léo, thiện xảo chăn dắt bầy cừu của mình.

    Thiền định cũng bao gồm cách thức cứng nhắc và cách thức thiện xảo. Theo cách cứng nhắc, hành giả thiền định bằng cách cột chặt tâm mình đề giữ cho nó tỉnh thức, khiến tâm không có lối thoát và trở nên bí bách, căng thẳng. Bạn có thể thấy rằng, khi thiền giả quá gắng sức dồn ép tâm, hậu quả là họ thường bị xáo trộn các nguồn năng lượng bên trong cơ thể - người Tây Tạng gọi đó là "loong”. Khi đó, hành giả thường trở nên bực bội, muốn gào thét. Điều chúng ta cần là tâm thật sự thư giãn, tĩnh tại. Tâm cần trở nên rộng mở, sắc bén và tỉnh giác. Điều đó hoàn toàn khác với trạng thái hôn trầm (tức tâm mê mờ, ngủ gật) hay vọng tưởng (tâm lăng xăng, xao động). Nó cũng không có nghĩa là mọi thứ phải căng thẳng và mọi niệm hiện khởi phải gò ép theo một thứ tự hình thành nhất định. Một cách vô cùng đơn giản, tâm cần được rộng mở và sáng rõ.

    Thực tại duy nhất mà ta có được chính là những gì đang diễn ra, ngay tại đây và ngay lúc này. Nếu ta phóng tâm với những mộng tưởng, ký ức, hy vọng và sợ hãi, chúng ta sẽ bỏ lỡ mất thực tại này và toàn bộ cuộc sống của ta chẳng khác gì giấc ngủ của mê mờ triền miên. Chúng ta làm sao có thể biết mình thực sự là ai khi mà mình không bao giờ ở trong thực tại?

    (ST)
    --- Gộp bài viết, 30/08/2014, Bài cũ: 30/08/2014 ---
    Em chúc cả nhà có một kỳ nghỉ lễ an lạc và hạnh phúc ạ !Chúng ta hãy luôn cố gắng thực hành theo lời dạy của Đức Phật nhé!

    [​IMG]
    CatBuiTinhXa, Hoa_SimphongthuyBDS thích bài này.
  4. Binh Yen

    Binh Yen Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2014
    Đã được thích:
    173.001
    [​IMG]
    Cho con biết khiêm hạ
    Biết tôn trọng mọi người
    Tự thấy mình nhỏ thôi
    Việc tu còn kém cỏi
    Biết san sẻ cúng dường
    Biết giúp đở yêu thương
    Đến những người khốn khó
    Xin cho con bình thản
    Trước nghịch cảnh cuộc đời
    Dù bị mắn bằng lời
    Hay bằng điều mưu hại
    Xin tâm con sung sướng
    Khi thấy người thành công
    Hoặc gây tạo phước lành
    Như chính con làm được
    Cho con biết im lặng
    Không nói lỗi của người
    Chỉ lặng lẽ dùng lời
    Cầu cho người hết lỗi .

    NAM MO BON SU THÍCH CA MAU NI PHAT
    CatBuiTinhXa, Hoa_SimphongthuyBDS thích bài này.
  5. phongthuyBDS

    phongthuyBDS Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/02/2008
    Đã được thích:
    4.036
    Hay quá ,Bình Yên quá ...=D>=D>
    CatBuiTinhXa, Hoa_SimBinh Yen thích bài này.
  6. tulacoiphuc

    tulacoiphuc Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    06/11/2013
    Đã được thích:
    2.618
    Thich Thuong Tue
    Giảng giải về Thập Nhị Nhân Duyên Trong Đạo Phật !
    [​IMG]

    Nam Mô A Di Đà Phật! Phật tử nick là TulacoiPhuc PT hỏi Thầy về “SỰ VẬN HÀNH CỦA MƯỜI HAI CHI PHẦN DUYÊN KHỞI”, hôm nay Thầy trả lời như vầy:
    1. THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN (DUYÊN KHỞI) LÀ SỰ THẬT:
    Sứ mạng của Đức Phật nhằm vào sự giải thoát chúng sinh ra khỏi Khổ Đau Phiền Não bằng cách Tận Diệt Nguồn Gốc của chúng, và vạch ra Con Đường để cho những ai muốn, có thể chấm dứt cả sanh lẫn tử. Kể từ khi con người biết tư duy về chính mình và thế giới, thật là điều hiển nhiên, đó cũng là lúc con người bắt đầu xa lìa chính mình và thế giới. Thực tại không nằm trong những câu hỏi và những tư tưởng triết lý. Nếu có thì tất cả những cái người ta nghĩ ra chỉ là Sản Phẩm Của Lý Trí, Lý Niệm, một thứ bánh vẽ hoàn toàn không giải quyết gì cho cái đói hiện tại, nói đúng hơn, không giải quyết được nổi Đau Khổ của con người.
    “Nước biển mênh mông chỉ thuần một vị, đó là vị mặn; cũng vậy, giáo pháp của Như Lai vô lượng, nhưng chỉ thuần một vị, đó là vị Giải Thoát”.
    Lời tuyên bố ấy của Đức Phật như là một pháp ấn màu nhiệm mà bất kỳ cái gì không hướng đến Giải Thoát, Giác Ngộ đều không phải là Pháp của Đức Phật; chúng chỉ là ngôn ngữ được xây dựng trên những khái niệm trừu tượng của ý thức rỗng suông. Thế giới này thường trú hay không thường trú, Hữu Biên hay Vô Biên, thì không dính dáng gì đến sự thoát ly mọi thống khổ cuộc đời, vấn đề sinh mạng và thân thể là một hay là khác, thì cũng chỉ dẫn dắt con người vào rừng nhất dị mà thôi. Như Lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết, cũng chẳng cần thiết đối với một thực tại đang vận hành bất tuyệt ngay trong đương niệm hiện tiền, mà ý niệm của con người trùng trùng dậy khởi, từ một ý niệm này sang qua ý niệm khác. Tất cả đều nằm trong lẫn quẩn đi tìm cái chân lý ảo huyền, chạy từ cái hữu hạn này đến cái hữu hạn khác, nào có vượt ra ngoài nhu cầu của sự sống. Không sống bằng cái ngắn ngủi tạm bợ thì cũng cố xây cái trường tồn miên viễn, cả hai nào khác? Cho nên, không phải thường xuyên đặt câu hỏi trước cuộc đời: rằng Thế Giới Này Thường Còn Hay Vô Thường, Động Hay Tỉnh. Tất cả những ý niệm ấy cũng không ngoài tâm thức mà trong Mười Hai Chi Phần Duyên Khởi, nó như một trục vành xoay chuyển, sự liên tục xao động của dòng Tâm Thức, bắt nguồn từ Vô Minh tạo thành vọng động mà Hành duyên xúc, Xúc duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập... cho đến cuối cùng nhận lấy Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não. Đó là một Chân Lý đích thực mà Đức Thế Tôn đã nhận chân cái thực thể của chúng là khổ đau, chẳng qua con người đã vội quên rằng mình đang đuổi bắt cái bóng mờ ảo ảnh của Dục Vọng.
    Thực chất của cuộc đời là khổ đau, Đức Phật sau khi liễu tri ghi nhận sâu sắc về khổ đau. Bằng thái độ phủ nhận tất cả những gì thuộc về Vọng Tưởng, không liên hệ đến mục tiêu của đời sống phạm hạnh, thì hành giả cũng đừng bám vúi theo cái bóng hư giả thường tình, vì vậy mà Đức Phật đã nói về không gian và thời gian của thế giới hiện tượng, thế giới Hoa Nghiêm lại được Ngời Sáng Trong Lịch Sử Nhân Loại, đưa chúng sanh thoát khỏi cảnh Sanh, Lão, Bệnh, Tử bằng sự trực nhận của Trí Tuệ. Nếu ai hỏi tất cả những đạo lý nằm ở đâu? Xin thưa rằng chúng ở trong từng câu chữ của Kinh Điển Phật Giáo. Bởi vì tất cả các Tông Phái dù tướng, dù tánh, dù mật hay dù hiển cũng đều dựa trên nền tảng của giáo lý Duyên Sinh (Thập Nhị Nhân Duyên); do Duyên Sinh nên tất cả các Pháp được thi thiết, hiện hữu và sự hiện hữu ấy chỉ là một tràng Nhân Duyên Sinh Diệt.
    Con người đến với cuộc đời là ngẫu nhiên và ra đi cũng là một ngẫu nhiên. Thế nhưng, không có một cái gì là ngẫu nhiên sinh ra như một phi lý cả. Bởi lẽ, CÁI NÀY SANH, THÌ CÁI KIA SANH, CÁI NÀY DIỆT NÊN CÁI KIA DIỆT, không có cái nào là tự hữu của chính nó. Con người chính nó là con người phải hiểu sự thật của chính mình và biết làm thế nào để đạt đến hạnh phúc trong hiện tại và tại đây. Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú số 160 như vầy:
    “Mình là chủ nhân của chính mình, không ai khác là chủ nhân của mình. Người khéo tự chế ngự mình sẽ thấy được vị chủ nhân khó tìm thấy”.
    Và Pháp Cú số 36 như vầy:
    “Người trí tuệ giữ gìn tâm mình, vì cái tâm khó thấy, rất tế nhị, nó chạy theo các dục: cái tâm được khéo giữ gìn đem lại an lạc, hạnh phúc”.
    Nếu một người không thể nhận ra mối tương hệ giữa các hiện hữu, thì cũng không thể nhận ra sự thật của con người và cuộc đời, Vô Minh sẽ gây ra sự thật của con người và cuộc đời người ấy lắm rối ren, như gây ra sự ô nhiễm môi sinh. Trong trường hợp đó, Phật Giáo cần giúp con người hiểu rõ sự thật của mọi hiện hữu để bảo vệ con người và môi sinh.
    Giáo lý Duyên Khởi của Phật Giáo có thể là những lý thuyết giáo dục bảo vệ con người và môi sinh, khiến đưa con người nhận rõ sự thật Duyên Khởi mà Đức Phật chứng ngộ sẽ chỉ rõ con đường đi ra khỏi khủng khoảng ấy, con đường của sự vận hành của Tư Duy Vô Ngã, hay sự vận hành của Trí Tuệ dẫn đến sự chấm dứt Vô Minh.
    Sự vận hành của Trí Tuệ giúp con người thức tỉnh quay về chính mình. Nhưng tại đây, khi trở về với chính mình con người còn đối mặt với các vấn đề nóng bỏng gây ra do mâu thuẩn giữa các mệnh lệnh của Tư Duy và Dục Vọng, như là sự mâu thuẩn giữa Bản Năng và Siêu Ngã.
    2. Ý NGHĨA CỦA DUYÊN KHỞI
    Khi CÁI NÀY CÓ MẶT, CÁI KIA CÓ MẶT; “Cái này” được gọi là “nhân” của cái kia. Nói khác đi, “nhân” của một Pháp là nhân tố chính quyết định sự có mặt của Pháp ấy. Ví như hạt xoài là “nhân” của cây xoài. Theo lời dạy của Đức Phật, hạt xoài gọi là nhân chính (Paccaya hay Hetu); các nhân tố khác tạo nên cây xoài được gọi là “duyên” (Nidāna hay Paccaya). Trong tiếng Pāli, cái nhân chính được gọi là “Hetu”; “Samudaya” các nhân khác thì gọi là “Paccaya” “Midāna”. Cả hai nhân chính và các nhân khác đều được gọi chung là “Nidāna”. Đức Phật dạy:
    “Do duyên Vô Minh, Hành sinh; do duyên Hành, Thức sinh; do duyên Thức, Danh sắc sinh; do duyên Danh sắc, Lục nhập sinh; do duyên Lục nhập, Xúc sinh; do duyên Xúc, Thọ sinh; do duyên Thọ, Ái sinh; do duyên Ái, Thủ sinh; do duyên Thủ, Hữu sinh; do duyên Hữu, Sinh sinh; do duyên Sinh, Lão tử sinh; do duyên Lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh, như vậy là sự khởi của toàn bộ khổ Uẩn này. Này các Tỳ kheo, đây gọi là “Duyên Khởi”.
    Nhưng từ sự tan biến và chấm dứt hoàn toàn Vô Minh, Hành chấm dứt; từ sự chấm dứt của Hành, Thức diệt; do Thức diệt mà Danh sắc diệt,...; do Sinh diệt, mà Lão, tử, sầu, bi, khổ, ưu, não, diệt. Như vậy là sự chấm dứt hoàn toàn khổ Uẩn này”.
    “Này các Tỳ kheo, lý Duyên Khởi là gì? Do duyên Sinh, Lão Tử có mặt. Này các Tỳ kheo, dù chư Như Lai có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, bản chất này của các pháp vẫn thế, vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng đạt nguyên lý Duyên Khởi. Hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt Như Lai tuyên bố, tuyên thuyết, khai triển, khai thị, minh hiển nguyên lý ấy, Ngài dạy do Duyên Sinh mà có Lão, Tử,...; do duyên Vô minh mà có Hành”.
    “Và này các Tỳ kheo, các pháp do duyên mà sinh là gì? Lão, tử là Vô Thường, được tạo thành là do duyên mà sinh và hoại dần là tan rã, là đoạn diệt. Cũng thế, Sinh, Hữu, Thủ,... Hành và Vô Minh. Này các Tỳ kheo, đây gọi là các pháp do Duyên mà sinh”.
    Qua những lời dạy của Đức Phật, chúng ta thấy các Pháp là do duyên mà sinh (hay gọi là các pháp là do Duyên Sinh). Thực sự, chỉ có mặt các duyên sinh ra Pháp nên nó là Vô Ngã. Con người cũng là một hiện hữu “Duyên Sinh” nên Vô Ngã. Những ai thấy rõ sự thật Duyên Khởi nầy thì thấy các Pháp; những ai thấy rõ các Pháp, thì thấy rõ nguyên lý Duyên Khởi, và những ai thấy rõ các Pháp thì thấy chính Đức Như Lai, như Đức Phật dạy:
    “Này Vakkali! Có gì để thấy cái thân hôi hám này của Ta? Ai thấy pháp, này Vakkali, thấy Ta: ai thấy Ta thì thấy pháp”.
    Và:
    “Điều nầy đã được Như Lai dạy: Ai thấy Duyên Khởi thì thấy pháp, ai thấy pháp thì thấy Duyên Khởi. Những pháp này do duyên tạo ra: đó là Năm Thủ Uẩn. Bất cứ sự ham muốn dục lạc, ưa thích, nắm giữ nào đối với Năm Thủ Uẩn đều là sự sinh khởi của khổ đau. Bất cứ sự chế ngự Tham Ai, Chấp Thủ, sự từ bỏ tham và chấp nào đối với Năm Thủ Uẩn đều là sự đoạn diệt khổ đau. Cho đến như thế này, này các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo đã làm được nhiều”.
    Qua lời dạy này của Đức Phật chúng ta thấy có ba điểm rất quan trọng.
    1) Sự thật của các pháp của Duyên Khởi và của Như Lai chỉ là một. Nói khác đi, chỉ có một sự thật tối hậu cho vạn hữu trong vũ trụ này.
    2) Con người chỉ là Năm Thủ Uẩn, chúng do duyên mà sinh nên vô ngã. Như thế, lý thuyết về Nhân tính của Phật giáo hẳn là phát sinh từ hai giáo lý trên.
    3) Sự đau khổ và hạnh phúc của con người chính là sự sinh khởi hay chấm dứt tham ái với Năm Thủ Uẩn, điều phát hiện này rất hữu ích đối với các nhà giáo dục trong việc mở ra một hướng giáo dục vì hạnh phúc của con người.
    Có một điểm khác nữa còn được chú ý: ý nghĩa “Thấy sắc” Duyên Khởi là ý nghĩa kết quả của sự chế ngự lòng Tham Ai và Chấp Thủ. Năm Thủ Uẩn đòi hỏi một sự giáo dục, huấn luyện và tu tập Tâm Thức. Nói cách khác, nó đòi hỏi một đường hướng giáo dục của Phật Giáo.
    3. Ý NGHĨA MƯỜI HAI CHI PHẦN DUYÊN KHỞI:
    Trước tiên, ý nghĩa của từng chi phần của Duyên Khởi chúng ta cần được nắm vững, đó là: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ai, Thủ, Hữu, Sinh và Lão –Tử – Sầu – Bi – Khổ – Ưu - Não.
    Trong một số bản kinh, Đức Phật giới thiệu Duyên Khởi dưới dạng thức tám chi phần, chín, mười chi phần như sau:
    “Như vậy, này Ananda, Danh sắc duyên thức và Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên xúc, Xúc duyên thọ, Thọ duyên ái, Ái duyên thủ, Thủ duyên hữu, Hữu duyên sinh, Sinh duyên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy toàn bộ khổ uẩn này sinh khởi”.
    Trích dẫn trên chỉ đề cập tám chi phần Duyên Khởi. Phần trích dẫn tiếp theo đề cập Mười Hai Chi Phần:
    “Này các Tỳ kheo, rồi Bồ Tát Tì Bà Thi (Vipassī). Thức này quay về Danh sắc, nó không rời xa. Cho đến như vầy, Sinh, Lão Tử có mặt và ở vào cảnh giới khác và tái sinh, gọi là: Danh sắc duyên Thức và Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sinh, Sinh duyên Lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não và như vậy toàn bộ khổ uẩn sinh khởi”.
    Hình thức ngắn gọn nhất chỉ đề cập năm chi phần được Đức Phật dạy như sau:
    “Này các Tỳ Kheo, sự sinh khởi của khổ là gì? Do căn và trần gặp gỡ, Thức khởi lên; sự gặp gỡ của căn, trần và thức gọi là Xúc; duyên Xúc mà Cảm thọ sinh khởi; do Cảm thọ mà Ái sinh: Này các Tỳ kheo, đây gọi là sự sinh khởi của khổ”.
    Thực ra, tùy theo nơi nào mà Đức Phật cảm thấy trình bày Duyên Khởi dưới dạng thức nào (năm, tám, chín, mười hay mười hai chi phần).
    Sau đây là hình thức Duyên Khởi được trình bày qua hai mươi ba chi phần:
    “Này các Tỳ kheo, vì thế Hành duyên với Vô minh, Thức duyên với Hành, Danh sắc duyên với Thức,..., Khổ duyên với Sinh, khổ sinh Tín, Tín sinh Hỷ, Hỷ sinh Lạc, Lạc sinh khinh an, Khinh an sinh Định, Định sinh Tri kiến như thật, Tri kiến như thật sinh Nhàm chán, Nhàm chán sinh Ly tham, Ly tham sinh Giải thoát, Giải thoát sinh Tri kiến giải thoát”.
    Trong các hình thức trên của Duyên Khởi, qua Kinh Tạng Pali, hình thức của Mười Hai Chi Phần Nhân Duyên được xem là tiêu biểu nhất để khảo sát trong bài này. Tất cả các hình thức Duyên Khởi vừa giới thiệu điều trình bày quá trình tâm thức vận hành từ Vô Minh đến Khổ Đau, hay nhận thức về sự chấm dứt khổ đau, và trình bày sự thật của con người, cuộc đời và mối liên hệ giữa con người và cuộc đời. Bây giờ chúng ta phân tích từng chi phần của Thập Nhị Nhân Duyên:
    1) Vô Minh:
    Thế nào là Vô Minh? Đức Phật định nghĩa như vầy:
    “Không biết khổ, sự sinh khởi của khổ, sự chấm dứt của khổ, con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ, đây lọi làVô minh”.
    Không biết khổ, sự sinh khởi của khổ, v.v..., có nghĩa là không biết rõ Tứ Đế, Nhân Quả và Duyên Khởi, đây gọi là Vô Minh.
    Trong bản kinh “Chánh Tri Kiến” của Trung bộ I, Tôn Giả Xá Lợi Phất nói rằng:
    “Này Chư Hiền giả, khi nào vị Thánh Đệ tử biết rõ các Lậu Hoặc là như vậy, biết rõ sự sinh khởi của các Lậu Hoặc là như vậy, biết sự chấm dứt các Lậu Hoặc là như vậy, thì vị ấy đoạn trừ tất cả thùy miên của tham, xóa tan tất cả thùy miên của sân, nhổ sạch gốc rễ của tất cả thùy miên cái Tri kiến “tôi hiện hữu” (ngã mạn thùy miên) loại trừ hết thẩy Vô Minh, làm cho Minh Trí khởi lên, chấm dứt khổ đau ngay trong hiện tại và tại đây”.
    Trong lời dạy của Tôn giả Xá Lợi Phất nói lên rằng khái niệm “tôi là”, “tôi đã là”, hay “tôi sẽ là” hay khái niệm về Nhân tính rằng: Nhân tính là thế này, thế kia là Vô Minh và chính Vô Minh là suối nguồn của các Tà Kiến, của các Hành và Khổ Đau. Chính sự vận hành của Vô Minh dẫn đến Hành, Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão, Tử...; vì thế mỗi chi phần của Duyên Khởi đều mang nghĩa khổ đau. Cho nên con người và cuộc đời là khổ đau.
    2) Hành:
    Thế nào là các Hành? Đức Phật dạy:
    “Có ba Hành: Thân hành, Khẩu hành, và Ý hành. Đây là ba Hành”
    Lời dạy này có nghĩa là tất cả các hành động của toàn bộ con người gọi là Hành. Theo lời Đức Phật dạy:
    “Này các Tỳ kheo, thế nào là Hành? Đây là sáu chỗ của tư: Sắc tư, Thanh tư, Hương tư, Vị tư, Xúc tư và Pháp tư. Này các Tỳ kheo, đây là Hành”.
    Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp là những gì tạo nên thế giới hiện tượng, và các Hành thì xuất hiện như là các năng lực tâm lý của thế giới do các Hành tạo nên và kết quả của cái mà con người gọi là “ý chí sống, hay ý chí muốn sống. Các Hành còn mang ý nghĩa như được biểu lộ trong lời dạy như sau:
    “Này các Tỳ Kheo, cái chúng ta tự nhiên, tư lường, có thầm ý, cái trở thành đối tượng cho thức tồn tại; khi nào đối tượng có mặt thì thức tồn tại. Do thức ấy tồn tại và phát triển nên Danh Sắc sinh; do Danh sắc, Lục Nhập sinh khởi; do Lục Nhập, Xúc sinh khởi; do Xúc,... Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não sinh khởi. Như vậy là sự sinh khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
    Ngay cả khi không có tư niệm, không có tư lường, nếu có thầm ý đến hiện hữu (sự vật) sự việc ấy trở thành đối tượng của Thức. Nhưng nếu không có tư niệm, không có tư lường, cũng không có thầm ý đến sự vật, thì sẽ không có đối tượng cho Thức tồn tại, sẽ không có sự tồn tại của Thức. Thức không có tồn tại hay phát triển, thì sẽ không có sự sinh khởi của Danh Sắc, như vậy là sự chấm dứt của Lục Nhập,... của Xúc,... của Ái,... của Thủ,... của Hữu,... của sầu, bi, khổ, ưu, Não. Như vậy là sự chấm dứt toàn bộ của khổ uẩn này”.
    Như vậy, Hành là Nghiệp Lực của con người, là nguyên nhân của khổ đau ở đời, và là nguyên nhân của sự Tái Sinh.
    3) Thức:
    Thế nào là Thức? Đức Phật dạy:
    “Có sáu nhóm thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức”.
    Thức được giải thích rằng:
    “Này các Tỳ kheo, tại sao gọi là Thức? Rõ biết, này các Tỳ Kheo, nên gọi là Thức. Rõ biết gì? Rõ biết chua, đắng, cay, ngọt, mặn, lạt, rõ biết chất kiềm... không phải chất kiềm, rõ biết mặn, không phải nặm. Rõ biết, này các Tỳ Kheo, nên gọi là Thức”.
    Các nhà chú giải kinh cắt nghĩa từ “Thức” như sau:
    - Thức có nghĩa là tưởng tri - biết và không có phản ứng tâm lý.
    - Thức có nghĩa là thức tri – phân biệt.
    - Thức có nghĩa là hiểu biết – quyết định.
    Biết về “Sáu Trần” như Đức Phật xác định, là suối nguồn của Kiến Thức, lòng đắm trước và khổ đau của con người. Nó làm khởi sinh Danh Sắc và các phần tố khác của Duyên Khởi, nó là chủ thể của nhận thức, đối tượng của nhận thức, và nội dung của nhận thức. Nó có mặt trong Thân hành, Khẩu hành và Ý hành.
    4) Danh Sắc:
    Danh sắc là gì? Đức Phật dạy:
    “Thọ, Tưởng, Tư, Xúc và Tác Ý; đây gọi là Danh. Tứ đại và sắc do tứ đại sanh; đây gọi là Sắc. Đây là Danh, đây là Sắc gọi là Danh sắc”.
    Thọ, Tưởng, Tư, Xúc và Tác ý, từ trích dẫn trên, là thuộc Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn. Sắc ấy là Sắc uẩn. Như vậy Danh sắc là Năm Thủ Uẩn .
    Trong kinh “Đại Duyên”, Trường bộ kinh, Đức Phật đã dạy rằng:
    “Ta đã nói rằng do có Thức mà Danh Sắc sinh. Này Ananda, phải hiểu như thế nào câu nói ấy. Nếu Thức không đi vào trong bào thai của mẹ, thì Danh Sắc có thể được hình thành trong bào thai của mẹ không?
    “Bạch Thế Tôn, không”. Ngài Ananda đáp.
    “Nếu Thức sau khi đi vào trong bào thai của mẹ rồi bị diệt đi, thì Danh Sắc có được sinh ra dưới hình thái này không?
    “Bạch Thế Tôn, không”. Ngài Ananda đáp.
    “Nếu Thức bị đoạn trừ nơi đứa bé, hay nơi đồng nam, đồng nữ, thì Danh Sắc có thể trưởng thành, phát triển, hoàn mãn được không?
    “Bạch Thế Tôn, không”. Ngài Ananda đáp.
    “Này Ananda, do đó như vậy là Nhân, như vậy là Duyên, như vậy là Tập Khởi, như vậy là Nhân Duyên của Danh Sắc, tức là Thức”.
    Trong sự liên hệ của Mười Hai Chi Phần Duyên Khởi, như được trình bày ở trên, sẽ không đúng nói rằng Danh sắc và Thức là giống nhau hay khác nhau, bởi vì cả hai không phải là những thực thể có Ngã Tính Cố Định, chúng chỉ Liên Hệ Mật Thiết Với Nhau: trong Thức có mặt Mười Một Chi Phần, cũng thế, trong Danh Sắc có mặt Mười Một Chi Phần còn lại. Cả hai đều do Vô minh mà Sinh, và cả hai đều đến Khổ Đau.
    5) Lục Nhập:
    Lục nhập là gì? Đức Phật dạy:
    “Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý xứ. Đây gọi là Lục Nhập”. Nói Lục Nhập là nói sự gặp gỡ giữa Sáu Căn và Sáu Trần. Khi sự gặp gỡ xuất hiện thì Thức xuất hiện, như thế Lục Nhập tự nó bao hàm Vô Minh và khổ đau.
    6) Xúc:
    Xúc là gì? Đức Phật dạy.
    “Có sáu Xúc: Nhãn xúc, Nhĩ xúc, Tỉ xúc, Thiệt xúc, Thân xúc và Ý xúc”.
    Xúc chỉ là sự gặp gỡ của ba yếu tố: Căn, Trần và Thức tương ứng với nhau. Đây cũng là ý nghĩa của sự gặp gỡ của Chủ Thể Nhận Thức, Đối Tượng Nhận Thức và Nội Dung Nhận Thức. Như vậy Xúc là sự biểu hiện của Thức, Vô Minh hay Khổ Đau.
    7) Thọ:
    Thọ là gì? Đức Phật dạy:
    “Có sáu Thọ: Thọ phát sinh từ Nhãn xúc, Thọ phát sinh từ Nhĩ xúc, từ Tỉ xúc, từ Thiệt xúc, từ Thân xúc và từ Ý xúc. Đây gọi là Thọ”.
    Có ba thứ Cảm Thọ như thường được giới thiệu trong nhiều kinh, thuộc Kinh Tạng: Cảm Thọ hạnh phúc, Cảm Thọ khổ đau, và Cảm Thọ không hạnh phúc, không khổ đau. Cảm Thọ hạnh phúc thì luôn luôn sản sinh Tham Ái trong lòng người. Cảm Thọ khổ đau thì luôn luôn đem lại Sân Hận. Cảm Thọ không hạnh phúc, không khổ đau thì luôn luôn nuôi dưỡng Si Mê. Như thế, Thọ là suối nguồn nuôi dưỡng Tam Độc: Tham, Sân, Si. Nó thực sự là yếu nhân tạo nên Sinh Tử và Khổ Đau.
    8) Tham Ái:
    Tham Ái là gì: Đức Phật dạy:
    “Có sáu nhóm Ái: Ai sắc, Ai thinh, Ái hương, Ái vị, Ái xúc và Ái pháp. Đây gọi là Ái”.
    Trong kinh “Chánh Tri Kiến (Trung bộ I) Tôn giả Xá Lợi Phất bàn đến ba nhóm Ái như sau:
    “Này Chư Hiền, thế nào là sự sinh khởi của Khổ Đau? Chính Ái hướng đến một đời sống khác, đi cùng với Hỷ và Tham, tìm kiếm Hỷ Lạc tại chỗ này chỗ kia, đó là Dục Ái, Hữu Ái và Vô Hữu Ái. Này Chư Hiền Giả, đây gọi là nguồn gốc của Khổ Đau”.
    Khát Ai các Lạc Thú có nghĩa là Khát Ái vị ngọt của Sắc, Thinh, Hương, Vị và Xúc. Đấy là Dục Lạc.
    Khát Ái Hiện Hữu (hay Hữu Ái) là sự Khát Ái có mặt và tồn tại ở một cảnh giới tốt đẹp, hạnh phúc hơn và tinh tế hơn.
    Khát Ai Không Hiện Hữu (hay Vô Hữu Ái) là sự khát ái sự không có mặt, không hiện hữu, bởi vì do nhàm chán hiện hữu.
    Như chúng ta có thể kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày, con người sinh ra để sống theo Dục Vọng, Hạnh Phúc và Lạc Thú từ Sáu Trần. Chẳng may, mọi vật, mọi lạc thú đều Vô Thường qua từng Sát Na sinh diệt, và mọi sự việc này khiến con người sầu khổ và khiến Dục Vọng bốc cháy. Dục Vọng càng bốc cháy thì Khổ Đau lại càng nhiều... điều này thổ lộ Tham Ái, chính là căn gốc của Khổ Đau, nó chính là Khổ Đau.
    9) Chấp Thủ:
    Chấp Thủ là gì? Đức Phật dạy:
    “Có bốn Chấp Thủ: Dục Thủ, Kiến Thủ, Giới Cấm Thủ và Ngã Luận Thủ. Đây gọi là Chấp Thủ”.
    Sự thật khổ đau của cuộc đời đã khiến con người nắm giữ Lòng Ham Muốn, nắm giữ các Đối Tượng Ham Muốn xem đấy là con đường tìm kiếm hạnh phúc. Rồi con người đi đến xem Dục Vọng và Tư Duy như là Tự Ngã của mình, Thực Ngã của mình. Hiện tượng nầy phát sinh sự Chấp Thủ Dục Vọng, Chấp Thủ sự thấy biết và Chấp Thủ các lý thuyết Hữu Ngã và làm tăng trưởng Vô Minh và Khổ Đau. Mặt khác Tư Duy Hữu Ngã của con người cũng sản sinh Lòng Tham Ái và Chấp Thủ.
    10) Hữu:
    Thế nào là Hữu? Đức Phật dạy:
    “Có ba Hữu: Dục hữu, Sắc hữu và Vô sắc hữu”.
    Hữu nghĩa là cảnh giới Hiện Hữu. Hữu chỉ các cảnh giới mà chúng sinh có mặt. Thế giới của Cõi Dục (Dục Hữu) là các thế giới mà chúng sinh tham đắm Sắc, Thinh, Hương, Vị và Xúc. Thế giới của Cõi Sắc (Sắc Hữu) là các cảnh giới mà chúng sanh tham đắm các Sắc Tế Nhị, tham đắm sự Hiện Hữu và Tồn Tại. Thế giới của Cõi Vô sắc (Vô Sắc Hữu) là cảnh giới mà các chúng sinh ấy có khuynh hướng mong muốn không hiện hữu. Hữu như thế biểu hiện của Lòng Khát Ái.
    11) Sanh:
    Sanh là gì? Đức Phật dạy:
    “Cái thuộc chúng sinh, thuộc nhóm chúng sinh hay chúng sinh khác, là Sanh, Xuất sanh, Giáng sanh, Đản sanh, sự xuất hiện các Uẩn, sự hình thành các Xứ. Đây gọi là Sanh”.
    Đối với con người, sự xuất hiện của Danh sắc hay Năm Uẩn thì gọi làSanh. Sanh như thế là sự xuất hiện của Vô Minh và Khổ Đau.
    12) Già Chết:
    Già Chết là gì? Đức Phật dạy:
    “Cái thuộc chúng sinh, thuộc nhóm chúng sinh này hay nhóm chúng sinh khác, là Già, Yếu, Suy Nhược, Răng Rụng, Tóc Bạc, Da Nhăn, Tuổi Thọ Lụn Bại, Các Căn Suy Hoại. Đây gọi là Già.
    Cái thuộc chúng sinh bộ loại này hay chúng sinh bộ loại khác là Già Chết, là sự Tách Rời, là sự Tiêu Mất, là Tử Vong: các Uẩn Tan Rã, Vứt Bỏ. Đây gọi là Chết. Như vậy đó là Già, là Chết, và đó gọi là Già chết”.
    Với con người, Già Chết tự nó đã là Khổ Đau. Chính hình ảnh Hủy Diệt của mọi Hiện Hữu Duyên Sinh là trái với Lòng Ham Muốn của con người, rất Kinh Khiếp đối với mọi người.
    Trên đây là ý nghĩa của Mười Hai Chi Phần Duyên Khởi đã được Đức Phật giải thích. Sự vận hành của Mười Hai Chi Phần ấy sẽ tạo nên cái gọi là Toàn Bộ Sự Hiện Hữu Của Con Người.
    4. SỰ VẬN HÀNH CỦA MƯỜI HAI CHI PHẦN DUYÊN KHỞI:
    Dưới cội Bồ Đề, Đức Phật khởi lên ý nghĩ:
    - Không có Sinh thì Khổ đau không có mặt;
    - Không có Hữu thì Sinh không có mặt;
    - Không có Thủ thì Hữu không thể có mặt;
    - Không có Ái thì Thủ không thể có mặt;
    - Không có Thọ thì Ái không thể có mặt;
    - Không có Xúc thì Thọ không thể có mặt;
    - Không có Lục Nhập thì Xúc không thể có mặt;
    - Không có Danh Sắc thì Lục Nhập không thể có mặt;
    - Không có Thức thì Danh Sắc không thể có mặt;
    - Không có Hành thì Thức không thể có mặt;
    - Không có Vô Minh thì Hành không thể có mặt;
    Như vậy, Vô Minh là suối nguồn của dòng đời Khổ Đau. Nhưng nó là do Duyên mà Sinh, chứ không phải là nguyên nhân đầu tiên như Đức Phật đã giảng:
    “Này các Tỳ Kheo, điểm khởi đầu của Vô Minh là không thể biết được, để nói rằng: (trước đó Vô Minh không có mặt; hay Vô Minh có mặt từ đó). Này các Tỳ Kheo, lời nói này được tuyên bố. Tuy nhiên điều này là biết được: Vô Minh là do Duyên này kết hợp với Duyên kia mà sinh khởi”.
    Không biết rằng mọi hiện hữu là do Duyên mà sinh là Vô Minh. Từ sự Vô Minh này, con người đi đến Chấp Thủ cái Tự Ngã Tưởng Tượng kia rồi lại sinh khởi Vô Minh và nuôi dưỡng Vô Minh. Do Tà Kiến và Tà Tư Duy này con người đi tìm kiếm sự thật của Tự Ngã của mình và tìm kiếm nguyên nhân đầu tiên của thế giới. Cái Tư Duy Hữu Ngã đó làm dấy lên Lòng Tham Ai, Sân Hận và Si Mê vốn là động cơ của các hành động Thân, Miệng, Ý của con người. Sự kiện này gây ra cho con người lắm Phiền Não.
    Một khi Tư Duy Hữu Ngã vận hành, thì Thức có mặt và vận hành; sự vận hành của Thức đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức (Thức) đối tượng nhận thức (Danh Sắc hay Lục Nhập hoặc thế giới bên ngoài) và sự gặp gỡ của chủ thể và đối tượng nhận thức (Xúc), bấy giờ Cảm Thọ tức thì xuất hiện. Như thế, các chi phần Duyên Khởi: Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc và Thọ cũng có mặt trong mọi quá trình vận hành của Tâm Lý.
    Cảm Thọ bao gồm phản ứng của Tâm Lý, đó là Ái hay Sân, hay Si, hoặc hai trong ba thứ ấy. Ái tự nó bao hàm Chấp Thủ. Chúng là vô cùng biểu hiện dưới vô vàn hình thức bất tận. Điều này Tam Hữu một khi tư duy hữu ngã vận hành thì Mười Hai Chi Phần Duyên Khởi vận hành. Các chi phần ấy đều Vô Ngã, Vô Thường và dẫn đến Khổ Đau.
    Thế nên, con người chẳng là gì khác hơn Sự Vận Hành Của Mười Hai Chi Phần Duyên Khởi dẫn đến Khổ Đau, nếu tâm con người bị Tư Duy Hữu Ngã chế ngự. Nếu Tư Duy Vô Ngã, hay Sự Giác Tĩnh Duyên Khởi vận hành, thì sự vận hành này sẽ dẫn đến sự đoạn diệt của Mười Hai Chi Phần ấy, hay sự đoạn diệt Khổ Đau. Bấy giờ con người xuất hiện là con người của cái nhìn Vô Ngã về sự vật và của hạnh phúc trong hiện tại và tại đây.
    Thầy đã giải thích “SỰ VẬN HÀNH CỦA MƯỜI HAI CHI PHẦN DUYÊN KHỞI”. Thầy hy vọng Phật tử TulacoiPhuc PT, các Phật tử cũng như Facebook’s Friends hiểu một cách sâu sắc. Thầy chúc tất cả những ai đã xem bài này luôn an lạc, hạnh phúc, vạn sự kiết tường! Nam Mô A Di Đà Phật!
    --- Gộp bài viết, 31/08/2014, Bài cũ: 31/08/2014 ---
    Tứ Vô Lượng Tâm Và Nhân Qủa -
    TT. THÍCH TRUNG ĐẠO

    Last edited: 31/08/2014
    CatBuiTinhXa, Hoa_Sim, Binh Yen1 người khác thích bài này.
  7. phongthuyBDS

    phongthuyBDS Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/02/2008
    Đã được thích:
    4.036
  8. tulacoiphuc

    tulacoiphuc Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    06/11/2013
    Đã được thích:
    2.618
    Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
    Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
    Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
    Phật đạo vô lượng thệ nguyện thành...
    Tu con xin kính chúc tất cả mọi người những ngày làm việc sau Lễ đều hoan hỉ ,thành công ...

    [​IMG]
    --- Gộp bài viết, 03/09/2014, Bài cũ: 03/09/2014 ---
    Xin Khẩn Cầu cho me con họ được gặp lại nhau !
    Đi ngang up share dùm
    k cần like
    [​IMG]
    phongthuyBDS đã loan bài này
  9. tulacoiphuc

    tulacoiphuc Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    06/11/2013
    Đã được thích:
    2.618
    --- Có Ma Hay Không ? Ý Nghĩa Và Quan Niệm Về Ma Trong Phật Giáo- ---
    [​IMG]
    Người ta nghĩ rằng ma chỉ có thể hiện ra trong kẹt cửa hay trong những nơi đầy bóng tối, nhưng thật ra thì chúng đang ẩn nấp trong các ngõ ngách u tối phía sau tấm màn vô minh trong tâm thức của mỗi người trong chúng ta.

    Có Ma hay không có Ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Phải trừ Ma như thế nào ?... Đó là những câu hỏi có thể nêu lên cho mỗi người trong chúng ta, vì có thể có người chưa hề « gặp ma » bao giờ, nên tò mò cũng muốn biết xem Ma ra thế nào, hoặc có người đã từng « thấy ma » nên vẫn còn bị Ma ám ảnh và muốn biết xem cái thấy của mình, hay là cái con Ma họ thấy có thật hay không. Vậy ta hãy xem quan điểm của Phật giáo về Ma như thế nào.

    Tìm hiểu định nghĩa của Ma trong kinh sách

    Ma là gì ? Chữ Ma do chữ Phạn Mâra mà ra. Tiếng Tây tạng là bDud, người Nhật cũng gọi là Ma hay Hajun, tiếng Hán là Mo hay Mó, nhưng người Trung quốc thường âm từ tiếng Phạn và gọi là Ma-la, vần r không có trong tiếng Trung hoa nên người Trung hoa thường gọi là Ma-la thay vì là Ma-ra. Kể dài dòng ra như thế để thấy rằng không phải chỉ có người Việt Nam ta mới « thấy » Ma.

    Kinh sách định nghĩa chữ Ma (Mâra) là « Quỷ sứ cám dỗ », một thứ « Quỷ tinh ranh » tượng trưng cho những xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả.

    Phổ diệu Kinh (Latitavistara), là bộ kinh kể lại cuộc đời của Đức Phật, cho biết Ma đã từng dùng mọi xảo thuật ma quái để quấy nhiễu và cản trở không cho Vị Phật tương lai là Đức Thích-Ca Mâu-Ni đạt được Giác ngộ. Trong đêm trước khi Ngài thành Phật,Ma dẫn ba con ma nữ đến quyến rũ Ngài, lại đưa ma quân đến để ném đá như mưa vào Đức Phật. Tên cầm đầu đòi Đức Phật phải nhường ngai lại cho hắn, vì hắn nhất định bảo rằng không có gì chứng thực Phật đã đạt được Giác ngộ. Phật liền dùng tay phải chạm xuống mặt đất, mặt đất liền bị chấn động và rung chuyển ầm ầm, chứng minh cho sự Giác ngộ đích thực của Ngài. Cả đànMa liền biến mất như bị phù phép vậy.

    Như vừa kể trên đây, nếu ta có ma quân…thì ta cũng phải có tên cầm đầu tức là Ma vương. Ma vương cũng là cách dịch khác của chữ Mâra. Ma vương là Vua các loài Thiên ma, ngụ ở cảnh trời gọi là Tha-hoá Tự-tại thiên (Paranirmitavasavartin), tức là cảnh trời thứ sáu trong cõi Dục giới, một cảnh giới thấp nhất trong Tam giới. Ma vương có phép thần thông, chuyên dùng ma thuật để phá rối, ngăn cản sự tu tập của những vị Bồ-tát. Ma vương còn có tên là Ma vương Ba-tuần, tức là tên của Tha-hoá Tự-tại thiên vương.

    Vậy theo Kinh sách, có bao nhiêu thứ Ma tất cả ? Thật ra Ma nhiều lắm, nhưng tựu trung được phân loại ra làm bốn thứ. Có vài khác biệt trong cách định nghĩa của bốn loại Ma giữa Thừa Kinh điển (Sutrayana) và Kim cương thừa (Vajrayana). Vì thế nếu đem cộng lại sẽ có đến tám thứ Ma (Bát ma).

    Theo Thừa Kinh điển (Sutrayana) có bốn loại Ma (Tứ ma) là :

    1. Ma cấu hợp (Skandhamara) : đó là thứ ma quái làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân hồi. Con ma đó gọi là « con ma gánh chịu cái chết ». Kinh sách tiếng Hán gọi là Ấm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma.

    2. Ma dục vọng (Klesamara) : bao gồm những dục vọng, ham muốn, thèm khát, xui khiến ta phạm vào những hành vi tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào vòng khổ đau của cõi luân hồi. Đó là « con ma đưa đến cái chết », kinh sách gốc Hán gọi là Phiền não ma.

    3. Ma thần chết (Mrtyumara) : đó là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp của mọi hiện tượng, tức là quy luật Vô thường. Con ma này có tên là « con ma vô thường », kinh sách tiếng Hán gọi là Tử ma.

    4. Ma con trời (Devaputramara) : bao gồm những thứ ma làm cho ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám víu vào ảo giác bên ngoài làm cản trở sự tu học. Đó là « con ma bấn loạn », kinh sách tiếng Hán gọi là Tha-hoá Tự-tại Thiên tử ma, gọi tắt là Thiên ma, tức thần thánh tay sai của Thiên-hóa Tự tại vương.

    Theo Kim cương thừa (Vajrayana) tứ Ma lại được định nghĩa khác hơn :

    1. Ma xiềng xích (tiếng Tây tạng : thogs-bcas-kyi bdud) : con Ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, binh tật và chướng ngại bên ngoài. Đây là con Ma của sự bám víu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Con ma này luôn luôn tìm cách trói buộc ta vào những thứ ấy. Kinh sách tiếng Hán gọi con ma xiềng xích là Phiền não ma.

    2. Ma thả lỏng (tiếng Tây tạng : thogs-med-kyi bdud) : đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức ta và gây ra khổ đau cho ta. Kinh sách gốc tiếng Hán gọi con ma này là Tâm ma.

    3. Ma khánh hỷ (tiếng Tây tạng : dga’-brod-kyi bdud) : đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, thỏa mãn với chính mình, xem ta hơn cả mọi người, xúi dục ta bám víu vào những « kết quả » và « kinh nghiệm » thiền định đã thực hiện được và cho đấy là cao siêu, rồi trở nên hãnh diện, không chịu cố gắng tu tập thêm. Kinh gốc tiếng Hán gọi là Thiện căn ma.

    4. Ma kiêu căng (tiếng Tây tạng : snyems-byed-kyi bdud) : đó là con ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu, tự đại. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái « ta », cái « tôi », cái « ngã ». Kinh sách gốc tiếng Hán gọi là Tam muội ma.

    Có sách (kinh Hoa nghiêm sớ sao) còn phân chia Ma ra làm mười thứ gọi là Thập ma, trong số mười loại ma này nhiều thứ đã được liệt kê trên đây, tuy nhiên cũng xin kể ra hết theo thứ tự như sau :

    1. Uẩn ma

    2. Phiền não ma

    3. Nghiệp ma : tức các nghiệp tiêu cực ngăn trở việc tu tập.

    4. Tâm ma

    5. Tử ma

    6. Thiên ma

    7. Thiện căn ma

    8. Tam muội ma

    9. Thiện trí thức ma : tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng vì ích kỷ tham tiếc đạo lý ấy mà giữ riêng cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác. Những kẻ như thế cũng được xem là một loại ma.

    10. Bồ-đề Pháp-trí ma : là những kẻ tuy đã phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước không quán thấy được chính đạo.

    Đã nói đến danh từ và định nghĩa thì cũng mạn phép kể ra thêm :

    Ma cảnh : khung cảnh do ma quái tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở người tu hành.

    Ma chướng : những chướng ngại, ngăn chận việc tu hành và sự thăng tiến của trí tuệ.

    Ma duyên : còn gọi là ác duyên, tức là những xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại.

    Ma đàn : là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố thí của những kẻ mang lòng tà, lòng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tại nạn mà bố thí. Loại ma này nhan nhãn chung quanh ta, rất dễ thấy, không cần đến « kính chiếu yêu ». Chữ Ma đàn nghịch nghĩa với chữ Phật đàn, tức là bố thí mà không biết là đã bố thí, không biết bố thí cái gì và bố thí cho ai, bố thí chỉ vì lòng từ bi vô biên mà thôi. Bố thí như thế còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.

    Ma đạo : đường đi của ma, chốn lui tới của ma, còn gọi là ma giới, tức cảnh giới của ma.

    Ma lực : sức mạnh tiêu cực, kích động những hành vị xấu hay hung ác.

    Ma ngoại : là những kẻ phỉ báng, chê bai Đạo pháp.

    Ma Phạm : (Mâra hay Brâma) tức là Ma vương ở cõi Phạm vương, gọi tắt là Ma Phạm. Chữ Ma vương đã được giải thích trên đây, đó là Thiên-hoá Tự tại vương, còn Ma Phạm hay Phạm vương hay Phạm thiên vương (Mahabrahma) là vị Chúa tể của cõi Ta-bà, quyền lực của Ma Phạm hay Phạm thiên vương vượt lên vị thế cao nhất trong cõi Dục giới, cai quản và điều hành cả thế giới này. Kinh điển gốc Hán gọi « Ngài » là Ngọc Hoàng Thượng đế.

    Ma thiền : phép thiền định tà mị, sai lầm, liên hệ với ma quỷ, đi ngược với chánh đạo. Ma thuật : nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan, phản khoa học.

    Ma sự : ý nghĩa của ma sự khá rắc rối, đại cương là những sự việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học trên con đường chánh Pháp. Những người thực thi ma sự có thể xem như những con ma chạy theo lục trần : yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống tiện nghi sang trọng. Ma sự cũng là những cám dỗ kích động người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc dục. Ma sự cũng có thể dùng để chỉ người ngồi thiền u mê và ngủ gục, hoặc trụ vào những cảnh hiện ra khi thiền, hoặc cảm thấy bấn loạn trong tâm thức, thấy cảnh dữ mà bỏ thiền... Ma sự cũng dùng để ám chỉ những người đã xuất gia tu hành nhưng còn ham thích luận bàn thế sự, chiến tranh, tình yêu nam nữ, hoặc xu nịnh bọn cư sĩ và bá tánh lui tới chùa có nhiều của cải, cúng dường nhiều, hoặc vướng vào phép bói toán, đoán số mệnh, ếm ma, trừ quỷ…

    Vậy Ma thực sự là gì ?

    Ma hay Mâra là một biểu tượng trong Phật giáo và cả Ấn độ giáo, dùng để chỉ một vị trời hay vị thần đứng vào hàng đầu, cao siêu và mạnh hơn hết, giống như định nghĩa của chữ Ma Phạm vừa nói trên đây. Tên của Ma có nghĩa là thần chết. Ma là chúa tể của mọi dục vọng, thèm khát, ham muốn, mọi thứ khoái lạc do thân xác. Đó là Chủ nhân ông của thế giới vật chất và hiện tượng. Trọng trách và bổn phận của người Chủ nhân ông này là phải điều khiển và canh chừng sự vận hành của thế giới đang diễn biến chung quanh ta.

    Ma không những tượng trưng cho dục vọng hiển hiện như vừa kể mà còn tượng trương cho những thèm khát tiềm ẩn bên trong ta, không bộc lộ ra ngoài, chúng thuộc về bản năng, có thể phát sinh từ tâm thức mặc dù rất tinh khiết, hoặc từ những nghiệp sâu kín và những cấu hợp của thân xác. Con Ma này nằm trong da thịt của ta, trong tâm thức ta, trong sự vận hành của cơ thể ta.

    Ma còn mang một cái tên nữa mà Kinh sách ít nói đến, đó là con ma Ái dục (Kâma, xin đừng lầm lộn với karma), đó là sự yêu mến, lòng yêu thương, nói nôm na là tình yêu. Con ma Ái dục ấy là một thứ bản năng, tinh anh của sự sống, luôn luôn « canh chừng » và « chăm lo » cho ta rất cẩn thận. Con Ma đó hiển hiện một cách tuyệt vời, thật đẹp, nó làm phát sinh ra mọi hình tướng, màu sắc và âm thanh đủ loại. Con ma đó hiến dâng cho ta những ảo giác biến động như vửa kể do chính nó tạo ra, kèm theo mọi thứ lạc thú và mọi cảnh giới tuyệt đẹp thuộc vào thế giới luân hồi, và tạo ra mọi thứ hạnh phúc của thế tục.

    Vấn đề mấu chốt và gay go là Ma không bao giờ chú ý đến hậu quả của những thứ mà nó đã tạo ra. Nó rất hào phóng, cho không tiếc tay, « tham » bao nhiêu nó cũng cho, « yêu » bao nhiêu nó cũng khuyến khích thêm, « bám víu » bao nhiêu nó cũng sẵn sàng tiếp tay. Nhưng hậu quả của những ảo giác ấy mà Ma đem tặng cho ta chỉ là khổ đau mà thôi : cướp giật, mưu mô, thất tình, tự tử, lường gạt, đâm chém… Những khổ đau ấy Ma không cần biết. Ma cho ta lạc thú, nhưng đồng thời cũng tập cho ta thèm khát lạc thú. Điều này có nghĩa là Ngũ uẩn quen dần với với những lạc thú, lệ thuộc vào lạc thú và bị kích động bởi lạc thú. Ma vừa là Kẻ sáng tạo và đồng thời cũng là Kẻ phá hoại là như thế đó.

    Khi nhìn Ma dưới khía cạnh này, ta sẽ hiểu ngay là ma ở đâu. Ma ngự trị chính trong đầu của ta. Ma nằm sẵn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và tâm trí ta. Nói cách khác Ma không nằm bên ngoài ta, không có ta thì cũng không có Ma. Ma quân hay những đạo binh ma chính là sự thèm khát nhục dục, thất vọng, buồn bực, đói khát, bám víu, tham lam, chiếm giữ, lười biếng, đờ đẫn, sợ hãi, nghi ngờ, hận thù, tiện nghi, kiêu căng, tự phụ, yêu thương một cách ích kỷ, tự mãn với cái « tôi » của chính mình v.v. và v.v. Tất cả những thứ này được Kinh sách phân ra làm tám thứ hay mười thứ ma : Uẩn ma, Phiền não ma, Tử ma, Thiên ma, Tâm ma, Thiện căn ma, Tam muội ma…như đã đề cập trong phầntrên đây. Nhưng nếu suy nghĩ sâu sa thì ta sẽ thấy Ma nhiều hơn, đông đảo hơn như thế nữa, Ma hiển hiện cùng khắp trong thế giới luân hồi này.

    Trên đây là những gì Kinh sách nói về Ma, định nghĩa về Ma. Dựa theo đó ta có thể phân loại và tổng kết thành ba loại như sau :

    - ma tượng trưng những cấu hợp do nghiệp của mỗi cá nhân hay những cảnh huống bất lợi xảy ra bên ngoài : chẳng hạn như ma nghiệp, ma duyên, uẫn ma, ấm ma, ngũ chúng ma, ma chướng, ma cảnh, ma đạo, ma duyên…

    - ma tượng trưng cho những hành vi sai lầm hay bất chính : ma phiền não, ma khánh hỷ, ma kiêu căng, thiện ma, tâm ma, tam muội ma…

    - ma tượng trưng cho những chúng sinh thực thi những hành vi sai lầm, tai hại : chẳng hạn như ma phạm, ma vương, những người thực thi ma sự, ma thuật…

    Điều lạ là kinh sách nhiều vô kể nhưng ít thấy nói đến những con ma có thể làm cho ta dựng tóc gáy, hét lên và phóng chạy, hoặc làm cho người ngủ mê kêu ú ớ, tay chân lạnh ngắt và toát mồ hôi đầm đìa. Ta thử tìm hiểu loại ma này xem sao.

    Một thí dụ cụ thể về Ma

    Để tránh cách nói tổng quát, siêu hình như trên đây, ta thử đưa ra một vài thí dụ thực tiễn hơn, đơn giản hơn vể những con ma thường hiện ra dọa nạt những con người bình dị như chúng ta đây, kể cả trẻ con cho đến người lớn. Chẳng hạn khi ta bước vào một căn phòng tối, ta thấy trong một góc phòng có một con Ma, tóc xõa, mặt xanh mét, đang nhe răng trợn mắt,… và cười với ta một cách thật rùng rợn. Nếu ta bình thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con Ma, ta sẽ không thấy nó khi ta đến gần. Vì đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu hay do bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn « không dám » tiến đến gần, ta cứ bật đèn lên, thì con Ma cũng biến mất. Nhưng nếu ngược lại, ta hét lên một tiếng, « vắt giò lên cổ » mà chạy, thì nhất định con Ma sẽ đuổi theo, và nhất định ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn nó được, vì chính ta cõng nó mà chạy. Nó ở trong đầu của ta, trong thân xác đang « nổi da gà » của ta.

    Tệ hơn nữa, có thể sau đó ta lại đem chuyện « thấy ma » ấy mà vừa thở hổn hển, vừa kể như thật với người khác, tức là ta giới thiệu con Ma mà ta thấy cho một người thứ hai. Người này có thể vừa thích thú vừa sợ sệt mà đón rước nó, đem cất giữ nó vào trong đầu. Người này lại kể cho người thứ ba, người thứ ba lại kể cho người thứ tư. Mỗi lần như vậy thì con ma mà ta thấy trước đây lại trở nên hung tợn hơn và khiếp đảm hơn một chút, mắt nó trợn to hơn, răng nó dài hơn, và nó cười rùng rợn hơn. Biết đâu sau một vòng, người nghe sau cùng lại vô tình kể lại cho ta nghe về con ma ấy, có thể ta còn sợ nó hơn cả con ma mà chính ta đã từng thấy « thật » trước đây.

    Phật có đưa ra một thí dụ dễ hiểu. Khi bước ngang ngưỡng cửa lúc nhá nhem tối, ta thấy một con rắn. Ta hoảng hốt và giật lùi lại. Nhưng nhìn kỹ thì đấy chỉ là một cuộn dây thừng. Con rắn ở trong đầu ta. Con Ma cũng ở trong đầu ta là như vậy.

    Khi ta ngủ mê, ta thường chiêm bao « thấy ma ». Ta hét lên hay la ú ớ…Giật mình thức dậy, ta không thấy con ma nào cả. Khi ngủ, ta nhắm mắt, nằm trên giường và trong gian phòng tối om, làm gì ta có thế dùng mắt mà thấy được. Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, hình ảnh con ma hiện lên từ tiềm thức ta, từ nơi a-lại-da-thức (âlayavijnâna) của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn và tiềm ẩn trong ta, từ những nghiệp sâu kín của ta, từ những ám ảnh bịnh hoạn của ta, từ những đam mê, tham dục của ta, từ những bám víu vào ảo giác, sân hận của ta…Những người tu tập cao, nhất là tu tập theo các phép thiền định của Phật giáo Tây tạng, họ ít chiêm bao hay hoàn toàn không còn chiêm bao nữa, hoặc nếu có chiêm bao thì họ chỉ « thấy » những phản ứng và hành vi của họ thấm đượm lòng tư bi, yêu thương, khoan dung và độ lương trước những cảnh đau thương trước mặt họ, nhưng tuyệt đối họ không còn thấy ma nữa.

    Tóm lại, Ma nằm trong tâm trí ta và tâm thức ta. Tại sao ? Vì Ma chính là Chủ nhân ông của mọi tư duy và hành vi duy ý của ta. Vị Chủ nhân ông ấy tượng trưng cho sự vận hành của nghiệp, cơ sở của sự vận hành ấy là ngũ uẩn (skanha), ngũ uẫn tác động với ngoại cảnh tức là cơ duyên để giúp cho nghiệp biến thành quả. Vậy con Ma, hay Vị Chủ nhân ông của ta chính là cái ta, cái ngã,cái tôi đang ẩn nấp trong ta, đang điểu khiển ta. Con Ma đó chính là vô minh, tức những bản năng thú tính, dục vọng, thèm khát, bám víu, sân si, ảo giác…, chúng kích động ta, đẩy ta vào những hành vi với mục đích làm thoả mãn những thèm khát và dục vọng trong ta. Hậu quả đưa đến là khổ đau. Trong đầu ta, Ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ cái tôi, cái ngã của ta, nó rất khôn ngoan và khéo léo, tùy theo từng người, từng hoàn cảnh và trường hợp, nó sẽ dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng những tiếng êm ái, dễ thương, hoặc hét lên the thé…, mục đích để in đậm trong tâm trí ta sự hiện diện của cái ngã.

    Ma là cái ngã đang thống trị ta, làm cho ta tham lam, ích kỷ, nó xúi dục ta, nịnh hót ta, biến ta thành đốn mạt, nói dối và quỷ quyệt.Ma không phải chỉ biết doạ nạt suông mà thôi, nhưng chính những hành vi do Ma xúi dục đã làm phát sinh ra Thế giới luân hồi. Thế giới luân hồi nằm trong sự kiềm tỏa của Ma, đồng thời Ma lại nằm trong tâm thức ta. Đánh đuổi con Ma ấy ra khỏi tâm thức có nghĩa là xoá bỏ cả thế giới luân hồi này. Vì thế có thể nói Ma chính là biểu hiện của luân hồi, của sợ hãi, đọa đày và khổ đau. Mahay Vô minh tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u mê, lầm lẫn và đau khổ, kích động ta tạo nghiệp, trói buộc ta vào thế giới luân hồi.

    Chu kỳ của sự sống là sự vận hành của bánh xe luân hồi mà động cơ là con Ma trong đầu ta. « Tỉnh thức » hay « Giác ngộ » tức là nhận thức được quá trình đó, sự vận chuyển đó không thật, chúng chỉ là ảo giác, chỉ là Ma. Tóm lại, ta không thể đuổi con Ma ra khỏi phòng, ta cũng không thể chạy trốn nó được, mà ta phải đuổi con Ma ra khỏi đầu. Ta không thể dùng bùa chú, phù phép hay nghi lễ để đuổi Ma. Ta chỉ có thể đuổi Ma bằng tu tập, bằng cách khắc phục Vô minh, mang lại cho ta một tâm linh minh mẫn, an bình, trong sáng và rạng rỡ, không còn bóng dáng một con Ma nào nữa.

    Trừ Ma theo Phật giáo Tây tạng

    Theo sự trình bày trên đây, Ma ẩn nấp trong đầu ta, tu tập tức là tìm cách đánh đuổi con Ma ra khỏi đầu. Lý thuyết là như thế, nhưng đánh đuổi bằng khí giới gì, bằng cách nào ? Xin trích ra đây câu chuyện trừ Ma hay trị Ma của Mật-lặc-Nhật-ba (Milarepa) do Kalou Rinpoché thuật lại trong một quyển sách của ông. Kalou Rinpoché (1904-1989) là một Đại sư Tây tạng rất uy tín đã thuyết giảng trong hai mươi năm liền tại các nước Tây phương trước khi ông qua đời. Mật-lặc-Nhật-ba (1052-1135) là một thánh nhân Tây tạng, đệ tử của Mã-nhĩ-ba (Marpa). Câu chuyện như sau :

    Mật-lặc-Nhật-ba ẩn cư trong một hang động trên Hy-mã Lạp-sơn. Một hôm, khi ông quay vào hang thì bắt gặp một đàn quỷ rất hung tợn đang chờ đợi ông, chúng nhe răng và trợn hai mắt to như hai cái dĩa. Chúng dọa nạt ông, dậm chân làm mặt đất rung chuyển, hò hét thật khiếp đảm. Mật-lặc-Nhật-ba tìm mọi cách để xua đuổi chúng : ông kêu gọi đến sức mạnh của thầy ông là lạt-ma Mã-nhĩ-ba và quán tưởng đến các thần linh phù trợ, nhưng đều không hiệu quả ; ông quay ra hăm dọa lại đàn ma quỷ, tìm mọi cách đánh đuổi chúng. Chẳng những chúng không sợ mà còn chế nhạo ông nữa :

    « Nhìn thấy mi như thế, chúng ta thừa biết mi hoảng sợ lắm rồi. Mi mất hết trầm tĩnh và sự an bình rồi. Ha ! ha ! »

    Mật-lặc Nhật-ba liền tự nhủ :

    « Mã-nhĩ-ba thầy ta có dạy rằng những biểu hiện bên ngoài chỉ là những phóng ảnh của tâm thức, bản chất của tâm thức thật ra là trống không và trong sáng. Nếu xem ma quỷ thuộc bên ngoài tâm thức để mà đánh đuổi chúng ra xa thì cũng giống như là những hành động ảo giác mà thôi ».

    Mật-lặc-Nhật-ba liền hiểu rằng ông không được phép để cho tâm thức bị ám ảnh bởi những biểu hiện như thế, phải giữ tâm thức vững vàng trước những đàn ma quỷ dù cho chúng hung tợn đến đâu cũng thế. Ông cũng quán nhận được rằng ma quỷ chỉ là những bám víu, và những tư duy nhị nguyên phát sinh từ trong tâm thức. Ông bèn hết sợ, chấp nhận sự đối diện với ma quỷ, đồng thời ông phát lộ lòng Từ bi vô biên đối với chúng.

    Ông tự nhủ như sau :

    « Nếu chúng nó muốn ăn thịt ta, ta sẽ hiến dâng thân xác này của ta cho chúng ; sự sống là tạm bợ, đấy chính là một dịp tốt để ta đem thân xác này làm một việc thiện ».

    Thật bất ngờ, thái độ Từ bi và sự quán nhận Tánh không của Mật-lặc-Nhật-ba đã làm nguôi cơn thịnh nộ của đám ma quỷ và tên cầm đầu liền nói với Mật-lặc-Nhật-ba như sau :

    « Chúng ta cứ tưởng là mi khiếp sợ chúng ta ; nào ngờ các ý nghĩ đen tối về ma quỷ không thể nào hiển hiện ra được trong đầu mi, vậy thì mi chẳng có gì để sợ hãi cả ».

    Dứt lời, toàn thể đám ma quỷ đều biến mất.

    Người ta nghĩ rằng ma chỉ có thể hiện ra trong kẹt cửa hay trong những nơi đầy bóng tối, nhưng thật ra thì chúng đang ẩn nấp trong các ngõ ngách u tối phía sau tấm màn vô minh trong tâm thức của mỗi người trong chúng ta. Khi nào chúng ta vun xới tâm thức mình để biến cải nó thành một ngôi vườn đầy hoa thơm và cỏ lạ, tràn đầy lòng Từ bi và rộng lượng, chan hòa ánh hào quang của Phật tính, thì khi ấy trong tâm thức ta tức là ngôi vườn chan hoà ánh sáng đó sẽ không còn có bóng dáng của một con ma nào ẩn nấp.

    Nguồn: Thư Viện Hoa Sen
    Chúng con nguyện niệm phật cho tâm thanh tịnh
    Chướng ngoài không thấy ma trong không khởi
    nguyện niệm phật cho tới nhất tâm bất loạn
    A DI ĐÀ PHẬT
  10. tulacoiphuc

    tulacoiphuc Thành viên gắn bó với f319.com

    Tham gia ngày:
    06/11/2013
    Đã được thích:
    2.618
    Trai Đàn Chẩn Tế Cầu Siêu Bạt Độ Hương Linh Thai Nhi-ĐĐ Thích Trí Huệ

Chia sẻ trang này