Một thế hệ thối nát ......

Discussion in 'Thị trường chứng khoán' started by lovestock32, Sep 15, 2017.

8433 người đang online, trong đó có 437 thành viên. 22:44 (UTC+07:00) Bangkok, Hanoi, Jakarta
  1. 1 người đang xem box này(Thành viên: 0, Khách: 1)
thread_has_x_view_and_y_reply
  1. Butchep01

    Butchep01 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Joined:
    Nov 14, 2014
    Likes Received:
    99,052
    Đã trình đề xuất tăng thuế môi trường với xăng lên 8.000 đồng một lít
    • 08:16 05/04/2017
    • 48
    Trong nội dung tờ trình Bộ Tài chính gửi Chính phủ về xây dựng dự án Luật Thuế bảo vệ môi trường sửa đổi có nhắc tới việc nâng khung thuế với xăng dầu lên tối đa 8.000 đồng/lít.

    Thông tin từ Bộ Tài chính cho biết bộ đã có tờ trình gửi Chính phủ đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế bảo vệ môi trường sửa đổi, trong đó đề cập tới việc nâng khung thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu lên tối đa 8.000 đồng/lít.

    Ngày 10/3, Bộ Tư pháp đã thay mặt Chính phủ ký tờ trình gửi tới Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đề nghị bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017 của Quốc hội.

    Theo đó, lãnh đạo Bộ Tài chính đã giao Tổng cục Thuế thực hiện rà soát, hoàn thiện báo cáo tổng kết tình hình thực hiện chính sách thuế bảo vệ môi trường trước ngày 15/4.

    Bộ đồng thời, giao Viện Chiến lược và Chính sách tài chính chủ trì thực hiện việc rà soát, hoàn thiện Báo cáo và bổ sung đánh giá tác động của chính sách được đề nghị sửa đổi thêm so với tờ trình số 22/TTr-BTC trước đó.

    [​IMG]
    Nếu theo đúng lộ trình, đến tháng 10, thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu có thể lên tới 8.000 đồng/lít. Ảnh minh họa: Lê Quân.
    Dự kiến, lộ trình của dự án Luật sửa đổi sẽ là trong tháng 4, Bộ Tài chính tiến hành lấy ý kiến các đơn vị, tổ chức, cá nhân về dự án Luật. Trong tháng 5 sẽ xin ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp và trình Chính phủ dự án luật, để Chính phủ trình Quốc hội vào tháng 6.

    Tới tháng 7, dự án Luật sẽ được gửi tới Ủy ban Tài chính, ngân sách Quốc hội để thẩm tra, đến tháng 8 trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tháng 9, dự án Luật sẽ được gửi đến đại biểu Quốc hội sau khi Ủy ban Thường vụ Quộc hội đã đưa ra ý kiến. Tới tháng 10, dự án Luật sẽ được trình Quốc hội xem xét thông qua.

    Nếu theo đúng lộ trình, có thể giữa tháng 10, mức thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu sẽ có khung mới, và mức tối đa có thể lên tới 8.000 đồng/lít, cao hơn nhiều so với mức 4.000 đồng/lít như hiện nay.

    Trước đó, Bộ Tài chính có dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung đề cập tới việc nâng khung thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, gồm mức thuế tối thiểu bằng mức thuế đang áp dụng, và mức tối đa bằng 2 lần khung thuế hiện hành. Riêng khung thuế dầu hỏa sẽ được giữ nguyên.

    Cụ thể, khung thuế đối với xăng dầu sẽ tăng từ mức tối thiểu 1.000 đồng và tối đa 4.000/lít lên mức tối thiểu 3.000 đồng và tối đa 8.000 đồng/lít.

    [​IMG]
    Biểu khung thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu trong nội dung dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung. Đồ họa: Quang Thắng.
    Sau khi dự thảo về việc nâng khung thuế bảo vệ môi trường được Bộ Tài chính phát đi, nhiều bộ ngành và tổ chức đã có ý kiến phản hồi.

    Bộ Ngoại giao đưa ra ý kiến đề nghị Bộ Tài chính nên cân nhắc sự cần thiết và lộ trình thực hiện việc nâng khung thuế với xăng dầu. Đặc biệt trong bối cảnh các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, mặt hàng thiết yếu này đã gánh nhiều loại thuế và phí. Bộ này cũng kiến nghị bổ sung đánh giá tác động về kinh tế, xã hội đối với phương án nâng khung thuế của xăng trong dự thảo.

    Bộ Tư pháp cho rằng Bộ Tài chính cần đánh giá tác động một cách cẩn trọng đối với các chính sách, đặc biệt là việc điều chỉnh khung thuế suất đối với nhóm hàng hóa xăng, dầu,... cao gấp đôi quy định hiện hành, tạo khoảng cách lớn giữa mức thuế tối thiểu và mức thuế tối đa.

    Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng lo ngại việc tăng thuế đối với xăng dầu sẽ tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.

    Trước những phản hồi từ các bộ ngành, Bộ Tài chính đã đưa ra lý do và đề nghị giữ nguyên phương án điều chỉnh khung thuế đối với xăng dầu ở mức tối thiểu là 3.000 đồng/lít và tối đa là 8.000 đồng/lít.
    lovestock32 likes this.
  2. streetwalker

    streetwalker Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    Nov 29, 2013
    Likes Received:
    2,351

    há há .... chuyện thường ở chợ Mù Canh Chải ..... tớ phải đóng thuế nầy suốt .... Ở đây thì "...No Table"
    "... tớ làm vì tớ thích ... há há ..." :((:((:((
    Butchep01 likes this.
  3. 65patience

    65patience Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    Nov 24, 2015
    Likes Received:
    3,826
  4. Butchep01

    Butchep01 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Joined:
    Nov 14, 2014
    Likes Received:
    99,052
    Thứ hai, 13/2/2017 | 10:16 GMT+7
    Thuế bảo vệ môi trường: Thu 4 đồng, chi 1 đồng
    Trong khi mức trần thu thuế bảo vệ môi trường đang được đề xuất tăng mạnh thì tỷ lệ chi thực tế cho mục đích này ngày càng giảm trong 5 năm qua.
    Mỗi lít xăng có thể gánh 8.000 đồng thuế bảo vệ môi trường

    Theo số liệu của Bộ Tài chính về tình hình thực hiện Luật thuế bảo vệ môi trường 5 năm qua, trong khi khoản thu từ nguồn thuế này tăng 4 lần thì chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường tăng chưa tới 1,4 lần.

    Cụ thể năm 2012, số thu từ thuế bảo vệ môi trường là 11.160 tỷ đồng, đã tăng lên mức 42.393 tỷ đồng vào năm 2016, tương đương tăng 4 lần trong vòng 5 năm. Con số này có được là nhờ tăng thuế môi trường với xăng từ 1.000 đồng lên 3.000 đồng một lít hồi giữa năm 2015.

    Ngược lại, số chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường lại tăng không đáng kể, từ 9.000 tỷ đồng năm 2012 lên 12.290 tỷ đồng sau 5 năm và chỉ chiếm khoảng 1% ngân sách. Như vậy, trong lúc thuế môi trường thu 4 đồng thì khoản chi ra cho việc bảo vệ môi trường chỉ khoảng 1 đồng. Điều này khiến dư luận đặt nhiều dấu hỏi về hiệu quả sử dụng số thu thuế trên có thực sự để phục vụ mục đích bảo vệ môi trường?

    [​IMG]
    Xem chi tiết


    Tiến sĩ Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Thị trường giá cả (Bộ Tài chính) nhìn nhận bất kỳ người dân nào cũng đòi hỏi sự minh bạch, hiệu quả trong sử dụng các khoản thu thuế. Đơn cử Hà Nội có hàng chục triệu xe máy, ôtô chạy bằng xăng, dầu, nên khoản thu thuế từ số này cũng không nhỏ, song môi trường Thủ đô ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. “Sắc thuế đưa ra với mục tiêu là để bảo vệ môi trường, nhưng chi ra cho mục đích này quá thấp thì không hợp lý”, ông đặt vấn đề.

    Trong khi hiệu quả việc chi cho bảo vệ môi trường chưa được đo lường thì tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế bảo vệ môi trường đang được lấy ý kiến, cơ quan soạn thảo là Bộ Tài chính lại đề xuất khung thu mới theo hướng tăng mạnh ở nhiều mặt hàng. Các mức tối đa và tối thiểu trong khung này sẽ là cơ sở để cơ quan quản lý điều chỉnh thuế trong từng thời kỳ.

    Cụ thể, khung thuế mới với mặt hàng xăng là 3.000 - 8.000 đồng (tối thiểu - tối đa) một lít, thay vì 1.000 - 4.000 đồng hiện nay. Nhiên liệu bay cũng được nới trần lên 6.000 đồng còn dầu diesel, dầu madut, dầu nhờn có mức kịch khung là 4.000 đồng mỗi lít. Bộ Tài chính cũng đề xuất tính thuế bảo vệ môi trường với cả xăng E5, xăng E10. Hiện xăng dầu đang là nguồn thu chính của thuế bảo vệ môi trường.

    Lý giải về đề xuất tăng khung, Bộ Tài chính cho rằng mức thu thực tế hiện nay với xăng (3.000 đồng một lít) và các mặt hàng khác đã bằng hoặc gần bằng mức trần theo quy định (4.000 đồng một lít). Việc này dẫn đến khó điều chỉnh khi cần bởi dư địa còn lại “quá nhỏ hoặc đã hết”.

    Cơ quan này cũng giải thích, việc nới mức tối đa khung thuế lên 8.000 đồng mỗi lít xăng ngoài nâng cao hơn nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường, còn đảm bảo tính ổn định của chính sách và phù hợp với lộ trình thay thế thuế nhập khẩu phải cắt giảm dần theo cam kết quốc tế. Việc làm này cũng phù hợp với mức thu của các nước xung quanh, tránh nạn buôn lậu xăng dầu.

    “Sau 5 năm thực hiện thuế bảo vệ môi trường với xăng, dầu mới được điều chỉnh một lần (năm 2015) đồng thời với giảm thuế suất thuế nhập khẩu xăng từ 35% xuống 20% cho phù hợp với cam kết trong Hiệp định thương mại tự do nội khối ASEAN năm 2015”, Bộ Tài chính lý giải.

    [​IMG]
    Xăng dầu vẫn là nguồn thu thuế bảo vệ môi trường chính hiện nay. Ảnh: Q.Đ

    Tuy nhiên trong các văn bản góp ý về dự thảo Luật thuế bảo vệ môi trường, các bộ, ngành đều đề nghị Bộ Tài chính cân nhắc với mức khung thuế mới.

    Bộ Tư pháp băn khoăn việc tăng mức thuế tối thiểu lên 3.000 đồng và tối đa 8.000 đồng một lít trong biểu khung thuế môi trường với xăng sẽ dẫn tới tăng mức thuế suất cụ thể, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người dân, doanh nghiệp.

    Chưa kể, báo cáo đánh giá tác động của Bộ Tài chính được cơ quan ngành tư pháp nhận xét là “còn sơ sài, không có đánh giá tác động định lượng mà chỉ sử dụng phương pháp định tính trong khi mức thuế bảo vệ môi trường lại tăng 2,5 lần so với mức hiện hành”.

    Thống kê từ Bộ Tài chính cho thấy, thu từ thuế bảo vệ môi trường liên tục tăng 5 năm qua. Như năm 2016, số thu từ loại thuế này chiếm tỷ trọng 4,1% trong tổng thu ngân sách nhà nước và 0,9% trên GDP năm 2016. 99% trong số khoản thu thuế môi trường đến từ xăng dầu. Tuy nhiên, nếu cộng cả thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, và thuế VAT thì mức đóng góp của ngành xăng dầu vào khoảng 9,8% tổng thu ngân sách. Và tỷ lệ này sẽ tăng lên 15% tổng thu ngân sách nếu mức thuế mới kịch khung được áp dụng và loại bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình.

    Nhấn mạnh đây là tỷ lệ rất lớn, không có lợi cho kết cấu ngân sách quốc gia, Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trong một văn bản góp ý gửi Bộ Tài chính gần đây đánh giá về lâu dài, việc nới khung thuế bảo vệ môi trường với xăng nhằm đảm bảo thu ngân sách sẽ là giải pháp “lợi bất cập hại”.

    Ngoài tăng tỷ lệ trong kết cấu ngân sách, theo tính toán, việc tăng thuế môi trường lên 8.000 đồng sẽ làm cơ cấu thuế, phí trong mỗi lít xăng, dầu tăng khoảng 13% so với hiện tại. Với mức thu thuế môi trường với xăng là 3.000 đồng một lít, cơ cấu giá mỗi lít xăng đang phải "cõng" khoảng 46% thuế, phí. Tỷ lệ này có thể tăng lên tới 59% trong trường hợp tăng thuế môi trường lên “kịch” khung đề xuất là 8.000 đồng một lít.

    Đồng tình với quan điểm Nhà nước dùng các công cụ kinh tế như thuế, phí để bảo vệ môi trường, song ông Nguyễn Minh Đức - Ban pháp chế (VCCI) đặt vấn đề "không thể lấy cớ bù hụt thu ngân sách bằng cách nâng khung thuế với xăng, dầu". Bởi theo vị này, ngoài xăng dầu còn nhiều mặt hàng mà việc sử dụng nó cũng gây ô nhiễm môi trường không kém, chẳng hạn than, song lại không bị đánh thuế cao như xăng dầu. Hiện thuế với than chỉ bằng khoảng 1/400 của xăng (quy đổi theo tấn), là chưa hợp lý.
    daututrondoi and lovestock32 like this.
    Butchep01 đã loan bài này
  5. thatnhudem

    thatnhudem Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    Mar 6, 2010
    Likes Received:
    36,436
  6. Waddell

    Waddell Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    May 15, 2010
    Likes Received:
    7,781
    Buôn Cơ chế bán cơ chế
    Khổ con dân người dân.
    TV2008, ScudB and Butchep01 like this.
  7. Butchep01

    Butchep01 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Joined:
    Nov 14, 2014
    Likes Received:
    99,052
    Đánh thuế tiêu thụ đặc biệt nước ngọt vì gây béo phì liệu có ‘oan'?
    14/09/2017 17:28 GMT+7
    TTO - Bộ Tài Chính muốn đánh thuế tiêu thụ đặc biệt với nước ngọt vì cho rằng gây nên béo phì, tiểu đường, các doanh nghiệp lại phản đối đòi "chứng cứ khoa học". Bạn đứng về phía nào?
    Lý giải của Bộ Tài chính
    3 mục tiêu bổ sung nước ngọt vào đối tượng chịu thuế Tiêu thụ đặc biệt": (1) Để hướng dẫn điều tiết tiêu dùng đối với đồ uống có đường nhằm bảo vệ sức khỏe người dân, (2) Phù hợp với thông lệ quốc tế và (3) Thực hiện Chiến lược Cải cách thuế giai đoạn 2011 – 2020.

    Bộ Tài chính

    Bộ Tài chính cho rằng các đồ uống có đường, ở đây là nước ngọt, người dùng sẽ "tăng cân và béo phì và nhiều ảnh hưởng xấu khác đến sức khoẻ bao gồm tim mạch và tiểu đường".

    Ở Việt Nam, tỉ lệ người trưởng thành bị thừa cân, béo phì chiếm khoảng 25% dân số. Đối với trẻ em dưới 5 tuổi tỷ lệ béo phì tăng nhanh từ mức 0,6% năm 2000 lên 5,3% năm 2015, tại TP.HCM mức tỷ lệ này lên tới 10,8% (đặc biệt tại khu vực trung tâm tỉ lệ này lên đến 12%).

    Đây là mức cao hơn trung bình của Châu Á và các nước đang phát triển (mức béo phì trẻ dưới 5 tuổi trung bình toàn cầu là 6,9%).

    Theo số liệu thống kê năm 2010, tỷ lệ béo phì đối với trẻ em từ 5 đến 19 tuổi cũng khá cao: Tỷ lệ chung ở nhóm này là 8,5%; 18,2% ở thành phố; 7,9% ở nông thôn, tuy nhiên, ở thành phố lớn như TP.HCM rất cao: 34,5%.

    Thừa cân và béo phì là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh không lây nhiễm từ tim mạch, huyết áp đến ung thư... và tiểu đường.

    Bộ dẫn một số liệu khác: Tổ chức Y tế Thế giới cho rằng "việc lạm dụng nước ngọt sẽ dẫn đến béo phì và tiểu đường".

    Theo Quỹ Nâng cao sức khỏe Victoria, Úc, nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng sử dụng nước ngọt gắn liền với tăng cân và béo phì, và nhiều ảnh hưởng xấu khác đến sức khoẻ bao gồm tim mạch và tiểu đường.

    Chính vì thế, nhiều quốc gia trong khu vực đã đánh thuế tiêu thụ đặc biệt với nước ngọt như Thái Lan, Lào, Campuchia.

    Ba quốc gia khác đang dự kiến sẽ áp dụng là Myanmar, Philippines và Indonesia. Mức thuế tiêu thụ đặc biệt với nước ngọt được các quốc gia châu Âu đánh thuế cao hơn các nước trong khu vực.

    Chính vì thế, Bộ Tài chính muốn đánh thuế vào các loại nước ngọt bao gồm loại có ga, không ga, tăng lực, thể thao, trà, cà phê uống liền được đóng gói theo dây chuyền sản xuất công nghiệp với mức 10%.

    Sao không đánh thuế luôn muối ăn?

    Ông Nguyễn Tiến Vỵ, Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội Bia - rượu - nước giải khát Việt Nam, tính toán nếu áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt thì tổng cộng giá sẽ tăng mặt hàng này sẽ tăng thêm 12%.

    Ông Vỵ cho rằng cần chứng minh một cách khoa học rằng nước ngọt có phải là nguyên nhân chính gây ra bệnh béo phì và tiểu đường

    Hiệp hội Mía đường cũng cho rằng không phải cứ nước uống có đường là ảnh hưởng đến sức khỏe mà thành phần tạo ngọt của nước ngọt mới quan trọng.

    Ông Phạm Ngọc Hưng, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM, cho rằng lý do của Bộ Tài chính nêu nước ngọt gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng "hoàn toàn không hợp lý chút nào".

    Theo ông Hưng, bất kỳ thức uống, thức ăn, hoặc thậm chí cả gia vị, nếu dùng nhiều, dùng quá mức thì đều không tốt cho sức khỏe.

    "Ví dụ muối ăn. Ăn mặn, hoặc ăn nhiều muối quá cũng đâu tốt cho sức khỏe. Chẳng lẽ cũng tăng thuế với muối ăn? Nói điều này để thấy khi cơ quan Nhà nước muốn ra bất kỳ lý do gì để giải thích cho hành động, hoặc kế hoạch điều chỉnh bất kỳ chính sách gì, cần được nghiên cứu, khảo sát một cách khoa học để có được thông tin chính xác nhất", ông Hưng nói.

    Ông Hưng cho rằng nếu không cẩn trọng thì sẽ có tác dụng ngược, hoặc có thể dẫn đến làn sóng phản đối, chỉ trích với cơ quan thuế khi đưa ra những ý kiến không có cơ sở khoa học để biện minh cho lý do tăng thuế của mình, là điều rất dễ hiểu.

    Và càng không thể không ủng hộ doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực này khi họ cũng có lý do cho rằng họ đang bị ép buộc, thậm chí bị Bộ Tài chính "tận diệt" truy thu thuế dưới nhiều hình thức, cũng không hề "oan" tí nào

    Ông Phạm Ngọc Hưng

    Cần có đánh giá độc lập về tác hại của nước ngọt

    [​IMG]
    Ông Phan Đức Hiếu Ảnh: QUANG ĐỊNH

    Việc Bộ Tài chính cho rằng nước ngọt là thức uống gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng, để rồi đề xuất tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, tăng thuế VAT, tôi cho rằng, cần phải được đánh giá khách quan trên cả hai khía cạnh tích cực lẫn tiêu cực.

    Còn nếu chỉ nhìn một phía, có tính chất ép buộc theo cách nói của Bộ Tài chính là chưa thể thuyết phục, đặc biệt đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất thức uống này.

    Ông Phan Đức Hiếu, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)
    lovestock32 likes this.
    Butchep01lovestock32 đã loan bài này
  8. Butchep01

    Butchep01 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Joined:
    Nov 14, 2014
    Likes Received:
    99,052
    Tăng thuế có chống được… béo phì không?
    • 07:47 15/09/2017
    Gánh nặng dồn hết lên vai những người đóng thuế của đất nước này là không công bằng.

    Những lý do không phù hợp, nhất là đối với thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), đã nhận được những phản ứng khá gay gắt của doanh nghiệp (DN) tại hội thảo góp ý đề xuất sửa đổi, bổ sung năm luật thuế do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức ngày 14/9.

    'Chứng tỏ chưa hiểu gì'
    Ông Trần Quang Chung, đại diện Hiệp hội Sữa Việt Nam, nói rằng một trong những lý do để Bộ Tài chính thuyết minh cho việc tăng thuế TTĐB đối với nước ngọt bao gồm trà, cà phê uống liền được đóng gói là để phòng, chống các loại bệnh béo phì và tiểu đường.

    “Nhưng béo phì có nhiều nguyên nhân như do lười tập thể dục, ăn quá nhiều tinh bột, thậm chí có cả việc ngồi họp cả ngày… chứ không phải do nước ngọt”, ông Chung phản biện.

    [​IMG]
    Hơn nữa, ông Chung dẫn số liệu của Bộ Y tế và cho biết khoảng 25% nam giới uống rượu bia ở mức độ gây hại, ăn không đủ hoa quả và rau xanh, điều này cũng dẫn tới béo phì. Trong khi đó Việt Nam lại chưa có chương trình hướng dẫn nhân dân chống béo phì.

    Bởi vậy, ông Chung cho rằng: “Mục tiêu đánh thuế TTĐB đối với nước ngọt để điều tiết hành vi tiêu dùng, chống béo phì là không ổn. Những người đề xuất đánh thuế nước ngọt để chống béo phì chứng tỏ không hiểu gì về thực phẩm, đồ uống”.

    Từ đó, ông Chung đề nghị làm chính sách gì thì làm nhưng phải nghĩ tới 65% người dân và trẻ em ở nông thôn. Bởi trẻ em cần phải được thụ hưởng những sản phẩm đầy đủ dinh dưỡng. Đừng đánh đồng nước ngọt là những sản phẩm có đường khi mà trẻ em nông thôn vẫn rất thiếu dinh dưỡng.

    Đồng quan điểm, ông Nguyễn Tiến Vị, Phó chủ tịch Hiệp hội Bia Rượu Nước giải khát Việt Nam (VBA), rất lo lắng vì nếu căn cứ vào dự luật sửa năm luật thuế này, các DN nói chung và DN nước giải khát sẽ gặp nhiều khó khăn.

    “Liệu nước ngọt có phải là nguyên nhân chính gây ra bệnh tiểu đường và béo phì không? Nếu áp thuế TTĐB đối với nước ngọt thì liệu có giảm được tỷ lệ béo phì và tiểu đường hay không? Đề nghị tăng thuế TTĐB với nước ngọt là thiếu thuyết phục”, ông Vị đặt câu hỏi.

    Đại diện VBA cũng cho rằng nước ngọt không phải là mặt hàng xa xỉ để đánh thuế đặc biệt. “Đi đám cưới bây giờ, trên bàn bao giờ cũng có nước ngọt bên cạnh mấy chai bia. Chị em dùng nước ngọt nhiều. Nước ngọt đã trở thành một mặt hàng thiết yếu”, ông Vị dẫn chứng.

    Không khách quan đánh giá tác động
    Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI, trong phần phát biểu của mình đã lưu ý: “Sửa đổi các luật thuế lần này không chỉ là tăng thuế VAT mà có tới hơn 30 nhóm chính sách thuế liên quan đến các DN trong các lĩnh vực khác nhau như bất động sản, ôtô, nước giải khát, thuốc lá, ngân hàng… Việc sửa các luật thuế lần này sẽ tác động đến toàn bộ người dân”.

    [​IMG]
    Nếu đánh thuế VAT lên quyền sử dụng đất, vô hình trung giá sẽ tăng thêm 12%. Ảnh: Hoàng Giang.
    Thế nhưng Bộ Tài chính không cử các quan chức đến tham dự như thông lệ mà lại cử ông Trương Bá Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Chính sách thuế, người cũng nằm trong ban soạn thảo dự luật sửa đổi năm luật thuế này, đến tham dự hội thảo. Sau khi ông Trương Bá Tuấn trình bày khá dài về các điều trong năm luật thuế sẽ được dự kiến sửa đổi, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan là người phát biểu đầu tiên.

    “Bộ Tài chính đã làm đánh giá tác động, vậy kết quả tác động đó thế nào? Vì giải trình như Bộ đã đưa ra trong các văn bản thì chưa biết sau khi điều chỉnh năm luật thuế thì tăng thu ngân sách bao nhiêu”, bà Lan mở đầu cho phần phát biểu của mình.

    Theo bà Lan, có rất nhiều vấn đề mà Bộ Tài chính chưa làm rõ. Chẳng hạn như việc tăng thu có bền vững không hay năm 2019 lại điều chỉnh tiếp. Tác động của việc sửa năm luật thuế này sẽ như thế nào đối với DN, người dân và nền kinh tế. Ngành nào bị ảnh hưởng nhiều nhất? Sửa năm luật thuế này có phù hợp chính sách phát triển các ngành không?...

    Đặc biệt, bà Phạm Chi Lan nói việc đánh giá tác động của việc sửa năm luật thuế này nếu do Bộ Tài chính thực hiện thì khó đảm bảo tính khách quan. “Đánh giá tác động phải do những đơn vị độc lập. Chứ hiện nay anh chỉ nhằm tăng thu mà nói tác động thì không thể nào khách quan được”, bà Phạm Chi Lan nói thẳng.

    Vả lại, theo bà Phạm Chi Lan, việc sửa năm luật thuế này cần phải đi đôi với chiến lược điều chỉnh bội chi ngân sách. Bởi bội chi là do chi tiêu, đầu tư, phân bổ ngân sách bất hợp lý.

    Bà Lan cũng cho rằng sửa năm luật thuế này phải đảm bảo tính thống nhất. Nếu đã nói thống nhất mà cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan nắm túi tiền quốc gia là Bộ Tài chính cứ bóc riêng ra để tính thì không được.

    “Tách riêng thu chi ra để tính rồi rốt cục gánh nặng thuế, phí dồn hết lên người nộp thuế trên đất nước này là không công bằng”.

    TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách, thì cho rằng: “Việt Nam đang tăng trưởng và cần phải có sự ổn định chính sách để phát triển. Bởi vậy, cần phải có nguyên tắc trong việc định ra các mức thuế đơn giản hơn”.
    Butchep01 đã loan bài này
  9. lovestock32

    lovestock32 Thành viên gắn bó với f319.com

    Joined:
    Feb 28, 2011
    Likes Received:
    2,754
    Thua lỗ cũng phải nộp thuế: Chống thất thu hay tận thu?
    24/08/2017 10:43 GMT+7
    TTO - Trong đề xuất sửa các luật thuế, Bộ Tài chính đưa ra nhiều quy định khắt khe như phải thanh toán qua ngân hàng với hóa đơn 10 triệu đồng, các tổ chức nước ngoài phải chịu thuế chuyển nhượng vốn 1% dù lãi hay lỗ...
    Trong ảnh: công nhân làm việc tại một công ty sản xuất giày dép - Ảnh: T.V.N." target="_blank" class="detail-img-lightbox" style="margin-right: 0px; margin-left: 0px; padding-right: 0px; padding-left: 0px; border: 0px; outline: 0px; vertical-align: baseline; cursor: zoom-in; display: block; color: rgb(237, 27, 47);">[​IMG]
    Quy định mua hàng hóa từ 10 triệu đồng trở lên phải thanh toán qua ngân hàng mới được đưa vào chi phí khiến việc thanh toán của doanh nghiệp rắc rối thêm. Trong ảnh: công nhân làm việc tại một công ty sản xuất giày dép - Ảnh: T.V.N.
    Cũng theo đề xuất của bộ này, nếu góp vốn từ 25% trong một doanh nghiệp (DN) cũng bị xem là có quan hệ mẹ - con! Theo các chuyên gia, những điều khoản siết này sẽ khiến hoạt động của DN thêm khó khăn, chưa kể gây ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư.

    Thêm rắc rối

    Theo Luật thuế thu nhập DN hiện hành, hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ từng lần có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt mới được khấu trừ thuế GTGT đầu vào và tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập DN.

    Tuy nhiên, trong lần sửa luật này, Bộ Tài chính kiến nghị quy định mức 10 triệu đồng bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng, tức là giảm một nửa so với trước.

    Giải thích lý do của đề xuất này, Bộ Tài chính cho rằng hệ thống thanh toán qua ngân hàng đã phát triển. Hầu hết các địa điểm cung cấp hàng hóa, dịch vụ đã có thiết bị chấp nhận thẻ và cho phép khách hàng thanh toán không dùng tiền mặt khi mua hàng.

    Việc đưa ra quy định này nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, ngăn chặn gian lận trong việc khấu trừ, hoàn thuế GTGT, phòng chống rửa tiền và góp phần minh bạch hóa các giao dịch mua bán của DN.

    Chứng từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản bên mua sang tài khoản bên bán (các tài khoản phải đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế) theo các hình thức thanh toán như: séc, ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi, ủy nhiệm thu, nhờ thu, thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng, sim điện thoại (ví điện tử) và các hình thức thanh toán khác theo quy định.
    Tuy nhiên, nhiều chuyên gia và DN cho rằng đề xuất này sẽ khiến việc thanh toán của DN rắc rối thêm.

    Ông V.T.H., giám đốc một công ty nhập khẩu thép tại TP.HCM, dẫn trường hợp DN này phải đặt cọc cho khách hàng khoảng 3 triệu đồng/container khi muốn lấy hàng. Chẳng hạn nếu hàng về 4 container, tiền đặt cọc cộng với tiền lấy lệnh khoảng mười mấy triệu đồng, công ty có thể cầm tiền mặt ra cảng làm thủ tục rồi lấy hàng.

    Nhưng khi áp dụng quy định mới, DN phải chuyển khoản, bên hãng tàu nhận được tiền mới làm thủ tục rất mất thời gian, chưa kể nếu hàng về cuối ngày mà chuyển khoản khác hệ thống ngân hàng, hãng tàu chưa cho làm thủ tục do tiền chưa về, DN lại tốn thêm tiền lưu bãi.

    “Ngay cả khách hàng mua số lượng hàng dưới 20 triệu đồng trước đây có thể trả tiền mặt trực tiếp và lấy hóa đơn, nhưng nay phải chuyển khoản trước, công ty nhận tiền rồi mới xuất hàng, rất bất tiện nếu khách hàng cần gấp” - ông H. nói.

    Giám đốc một công ty thương mại tại Q.1 cũng cho biết DN mua văn phòng phẩm gồm nhiều món, mỗi món trị giá 2-3 triệu đồng, nếu gom vô xuất một hóa đơn cũng trên 10 triệu đồng.

    Nếu quy định mua món hàng 10 triệu đồng phải thanh toán qua ngân hàng, DN phải chọn mua những mối quen vì có thể chuyển khoản thanh toán sau, thay vì chọn chỗ có giá rẻ hơn do không được thanh toán sau.

    “Mức 20 triệu đồng đã áp dụng nhiều năm, nếu tính thêm trượt giá đã rất thấp, chỉ nên nâng lên chứ không nên giảm” - ông này nói.

    Bán lỗ cũng phải nộp thuế?

    Trong đề xuất sửa đổi luật thuế, Bộ Tài chính cũng đề xuất bổ sung quy định áp dụng tỉ lệ thu thuế 1% đối với chuyển nhượng vốn của DN nước ngoài có hoặc không có cơ sở thường trú tại VN, bất kể lãi hay lỗ nhằm tránh thất thu ngân sách nhà nước.

    Theo Bộ Tài chính, đa số tổ chức nước ngoài khi chuyển nhượng vốn cho đối tác nước ngoài khác thường kê khai giá chuyển nhượng bằng giá vốn.

    Trong khi đó, VN chưa có cơ sở để kiểm chứng giá chuyển nhượng, nên mới chỉ thu được thuế đối với hoạt động chuyển nhượng vốn trên phần chênh lệch tỉ giá hối đoái giữa thời điểm chuyển nhượng và thời điểm góp vốn.

    Trao đổi với chúng tôi, một chuyên gia về thuế cho rằng quy định này chưa hợp lý, gây thiệt hại thêm cho nhà đầu tư trong trường hợp thua lỗ.

    Vị này dẫn chứng một DN góp vốn 10 triệu USD vào năm 1994 khi tỉ giá là 10.000 đồng/USD và chuyển nhượng vốn vào năm 2017 với giá 7,5 triệu USD. Dù DN này bị lỗ nhưng do quy định giá chuyển nhượng tính theo tỉ giá hiện hành, hiện xấp xỉ 22.760 đồng/USD, nên DN vẫn phải nộp thuế thu nhập DN với mức 20% trên phần lãi do chênh lệch tỉ giá, tương đương khoảng 19 tỉ đồng.

    “DN chuyển nhượng vốn lỗ 2,5 triệu USD nhưng vẫn nộp thuế thu nhập DN gần 1 triệu USD là quá vô lý. Trong khi hiện nay Bộ Tài chính còn đề xuất đánh thuế thêm mức 1% với chuyển nhượng vốn bất kể bán lãi hay lỗ, như cách áp thuế với chuyển nhượng chứng khoán hay bất động sản là không hợp lý. Nguyên tắc có lãi mới phải nộp thuế. Nếu áp dụng quy định này, về bản chất không còn là thuế thu nhập nữa mà chuyển thành thuế doanh thu như trước đây vì cứ có doanh thu là phải nộp thuế” - vị này phân tích.

    Phó tổng giám đốc một DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng cho rằng để kiểm soát thu và tránh thất thu thuế có nhiều cách, chứ nếu thu bằng cách này sẽ không khuyến khích được đầu tư nước ngoài, gây ảnh hưởng dây chuyền đến nhiều lĩnh vực khác.

    “Thực tế là bên cạnh những DN cố tình lách thuế bằng cách kê khai bằng giá vốn hoặc kê khai lỗ, có những DN kinh doanh không hiệu quả và thua lỗ thật, nếu “vơ đũa cả nắm” như trường hợp này là không ổn” - vị này khẳng định.

    Trái với Luật doanh nghiệp

    Theo Luật DN 2014, một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác nếu sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của công ty đó.

    Trong khi đó, tại đề xuất sửa đổi các luật thuế, Bộ Tài chính đề nghị nếu góp vốn vào công ty khác với mức từ 25% trở lên thì coi như quan hệ mẹ - con. Do vậy, nếu công ty được góp vốn là DN nhỏ và vừa cũng không được hưởng ưu đãi về thuế suất 17% đối với DN nhỏ và vừa. Đây là quy định trái với Luật DN 2014.
  10. Butchep01

    Butchep01 Thành viên này đang bị tạm khóa Đang bị khóa

    Joined:
    Nov 14, 2014
    Likes Received:
    99,052
    Vốn mỏng - Bộ Tài chính nói vậy mà không phải vậy!
    CHU ĐỨC TOÀN
    23, Tháng 08, 2017 | 17:49


    Nhàđầutư
    Báo cáo định hướng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế, trong đó có Luật Thuế TNDN, của Bộ Tài chính đang là tâm điểm tranh luận của giới chuyên gia tài chính và doanh nghiệp trong những ngày gần đây. Nhadautu.vn xin đăng tải bài viết của Ths Chu Đức Toàn về vấn đề này.


    [​IMG]
    Thuế phí hiện đang đè nặng lên vai người dân và doanh nghiệp
    Lý lẽ của Bộ Tài chính

    “Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước có quy định về vốn mỏng, theo đó lãi phải trả đối với phần vốn vay vượt quá tỷ lệ nhất định (tỷ lệ vốn vay trên vốn chủ sở hữu) không được coi là chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN).

    OECD khuyến nghị áp dụng tỷ lệ vốn vay trên vốn chủ sở hữu là 3:1. Trên thực tế, đa số các quốc gia và vùng lãnh thổ như: Đài Loan, New Zealand, Đức, Úc, Nhật Bản, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, Chile, Peru, Nam Phi, Bồ Đào Nha, Bra-xin quy định vốn vay của doanh nghiệp trên vốn chủ sở hữu vượt quá tỷ lệ 3:1 thì được coi là vốn mỏng. Một số nước phát triển quy định tỷ lệ thấp hơn, chẳng hạn như Canada là 2:1, Pháp, Mỹ là 1,5:1, thậm chí tỷ lệ này ở Venezuela là 1:1. Một số nước tỷ lệ này còn phân biệt theo đối tượng, ví dụ Trung Quốc quy định tỷ lệ 2:1 đối với doanh nghiệp thông thường, 5:1 đối với các tổ chức tài chính; Nga quy định tỷ lệ 3:1 đối với doanh nghiệp thông thường và tỷ lệ 12,5:1 đối với ngân hàng và các tổ chức tài chính; Hàn Quốc quy định tỷ lệ 3:1 nếu vay của các cổ đông nước ngoài và tỷ lệ 6:1 đối với các tổ chức tài chính. Theo đó, phần lãi vay phải trả vượt quá tỷ lệ được coi là vốn mỏng thì không được tính vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN.

    Để đảm bảo lành mạnh hóa tài chính của doanh nghiệp, của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy việc tái cơ cấu kinh tế, chống chuyển giá cần bổ sung quy định không tính vào chi phí được trừ đối với phần chi trả lãi vay của khoản vay vốn tương ứng với khoản vay vượt quá 5 lần vốn chủ sở hữu (5:1) đối với lĩnh vực sản xuất, vượt quá 4 lần vốn chủ sở hữu (4:1) đối với các lĩnh vực còn lại, đối với một số lĩnh vực đặc thù như tín dụng, ngân hàng được áp dụng tỷ lệ cao hơn: không quá 12 lần vốn chủ sở hữu. Nội dung sửa đổi, bổ sung được thể hiện tại khoản 3 Điều 3 dự thảo Luật".

    Có thể hiểu đề xuất áp dụng quy định về vốn mỏng của Bộ Tài chính nhằm hướng tới hai mục tiêu: Chống chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và lành mạnh hóa tài chính của doanh nghiệp.

    Kinh nghiệm quốc tế ra sao?

    Sau khi thực hiện khảo sát các quy định về vốn mỏng tại các nước mà Bộ Tài chính trích dẫn nêu trên, người viết bài này nhận thấy kinh nghiệm quốc tế không phù hợp với đề xuất của Bộ Tài chính.

    Cụ thể, các nước trên thế giới áp dụng quy định về vốn mỏng chỉ với mục đích chống chuyển giá, không nhằm các mục đích khác.

    Do đó, trong quy định của phần lớn các nước mà Bộ Tài chính đề cập ở trên, các tỷ lệ về vốn mỏng thường chỉ áp dụng cho một số loại hình doanh nghiệp cụ thể, với các khoản vay nợ xuyên biên giới, và/hoặc với các bên liên quan của doanh nghiệp, chỉ với mục đích chống việc chuyển chi phí lãi vay về quốc gia đó để giảm thu nhập chịu thuế với các nguồn thu nhập từ quốc gia này.

    [​IMG]
    Một số nước chỉ giới hạn áp dụng quy định vốn mỏng tại các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc các doanh nghiệp trong nước có hoạt động đầu tư ra nước ngoài, như: Úc, New Zealand, Đài Loan, Thái Lan.

    Định nghĩa về các khoản nợ vay trong công thức tính tỷ lệ vốn mỏng thường chỉ là các khoản vay từ cổ đông nước ngoài có quyền soát kiểm soát (bao gồm cả các khoản bảo lãnh, thu xếp vốn có sự can thiệp của các cổ đông) so với vốn chủ sở hữu. Các nước áp dụng bao gồm Brazil, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga...

    Tại một số nước, khái niệm nợ vay để tính tỷ lệ vốn mỏng được mở rộng để bao gồm các khoản vay từ các bên liên quan (bao gồm cả các khoản bảo lãnh, thu xếp vốn có sự can thiệp của các bên liên quan) so với vốn chủ sở hữu. Các nước áp dụng gồm có Peru, Venezuela, Mỹ, Trung Quốc, Pháp, Ba Lan… Đáng chú ý là định nghĩa của các nước về bên liên quan khá giống nhau, đó là bên có sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp không dưới 25% cổ phần có quyền biểu quyết của doanh nghiệp.

    Một số nước như Trung Quốc không áp dụng qui định về vốn mỏng với khoản nợ của bên cho vay là bên liên quan là doanh nghiệp trong nước, nếu doanh nghiệp cho vay không chịu thuế suất thu nhập doanh nghiệp thấp hơn doanh nghiệp đi vay.

    Một lý do khiến các nước đều không áp dụng tỷ lệ vốn mỏng với các khoản vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp trong nước là nhằm tránh đánh thuế hai lần khi chi phí lãi vay của doanh nghiệp A chính là thu nhập lãi vay của doanh nghiệp B và đã được doanh nghiệp B đóng thuế trên phần thu nhập này. Đồng thời, điều này cũng tránh cho thuế suất thực phải nộp doanh nghiệp trong nước cao hơn đối thủ cạnh tranh nước ngoài.

    Để rõ hơn xin xem ví dụ dưới đây:

    [​IMG]
    Một số nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Úc… áp dụng đồng thời tỷ lệ vốn mỏng cổ định (nợ/vốn chủ sở hữu) cùng với tỷ lệ trung bình ngành trong nước theo nguyên lý cánh tay nối dài. Nghĩa là nếu doanh nghiệp chứng minh được tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu của mình tương đương với các doanh nghiệp trong nước hoạt động cùng ngành thì sẽ được miễn áp dụng tỷ lệ vốn mỏng.

    Một số nước trên thế giới áp dụng tỷ lệ vốn mỏng khác, là tỷ lệ “chi phí tài chính ròng/ EBITDA” như Đức, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Với cách tính này, chi phí tài chính ròng được tính trên tất cả các khoản nợ vay không phân biệt bên cho vay.

    Tại Việt Nam hiện nay, khoản 3, Điều 8, Nghị định 20/2017/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết, đã có quy định về vốn mỏng với các giao dịch với các bên liên kết tương tự thông lệ quốc tế. Cụ thể, Nghị định 20 đã quy định tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 20% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng với chi phí lãi vay, chi phí khấu hao trong kỳ của người nộp thuế.

    Như vậy, có thể thấy đề xuất của Bộ Tài chính áp dụng tỷ lệ vốn mỏng (nợ/vốn chủ sở hữu) với toàn bộ các khoản vay của doanh nghiệp là hoàn toàn khác biệt so với thông lệ quốc tế, vốn chỉ áp dụng cho các khoản vay với bên liên quan, hoặc cổ đông kiểm soát nước ngoài nhằm mục đích chống chuyển giá. Đồng thời, việc áp dụng thêm một tỷ lệ vốn mỏng nữa (nợ/vốn chủ sở hữu) bên cạnh tỷ lệ quy định tại Nghị định 20 nói trên (chi phí lãi vay/EBITDA) cho mục đích chống chuyển giá là không cần thiết.

    Bộ Tài chính cần nêu rõ Bộ đã căn cứ vào kinh nghiệm quốc tế nào để đưa ra đề xuất áp dụng tỷ lệ vốn mỏng nợ/vốn chủ sở hữu, đồng thời đưa ra kết quả nghiên cứu thực nghiệm chứng minh được việc áp dụng tỷ lệ vốn mỏng nợ/vốn chủ sở hữu với các doanh nghiệp trong nước sẽ giúp cho cộng đồng doanh nghiệp phát triển bền vững hơn.

    Cũng cần lưu ý rằng, hầu hết các nước ASEAN – đối thủ cạnh tranh trực tiếp về mặt kinh tế của Việt Nam - và phần lớn các quốc gia châu Á chưa áp dụng qui định này.

    Vốn mỏng là gì?

    Một công ty thông thường được tài trợ vốn thông qua vốn chủ sở hữu và vay nợ. “Vốn mỏng” đề cập đến tình huống mà công ty huy động vốn với tỷ lệ nợ tương đối cao so với vốn chủ sở hữu. Các công ty vốn mỏng đôi khi còn được gọi là công ty có tỷ lệ đòn bẩy vốn cao.

    Vì sao vốn mỏng lại quan trọng?

    Tỷ lệ nợ của công ty càng cao, tương đương chi phí lãi phải trả càng cao, thì lá chắn thuế càng lớn, lợi nhuận chịu thuế sẽ càng thấp. Do đó, vay nợ thường là cách huy động vốn mang lại hiệu quả về thuế cao hơn so với huy động vốn chủ sở hữu.

    Các quy định về “vốn mỏng”

    Cơ quan thuế của các quốc gia thường đưa ra quy định về hạn mức chi phí lãi vay được khấu trừ khi tính toán lợi nhuận chịu thuế.

    Những quy định này được đưa ra để ngăn chặn việc chuyển giao lợi nhuận xuyên biên giới thông qua vay nợ quá mức, do đó nhằm mục đích bảo vệ thu nhập từ thuế của một quốc gia, đồng thời đảm bảo môi trường đầu tư công bằng cho các doanh nghiệp trong nước so với các doanh nghiệp nước ngoài.

    Các quy định về vốn mỏng thường được xem xét kỹ lưỡng để tránh đánh thuế hai lần với các doanh nghiệp trong nước và tránh không ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước so với các đối thủ nước ngoài cùng ngành.

    Vốn mỏng thường được quy định bằng một trong hai phương pháp: (i) Xác định mức nợ tối đa mà khoản lãi phải trả được khấu trừ (theo ước tính hoặc giả định độc lập khách quan theo nguyên lý cánh tay nối dài hoặc theo tỷ lệ cố định nợ/vốn tối đa); (ii) Xác định khoản lãi tối đa được khấu trừ bằng cách tham khảo tỷ lệ giữa chi phí lãi (đã trả hoặc phải trả) với một biến số khác (ví dụ tỷ lệ chi phí tài chính ròng/EBITDA).
    Butchep01 đã loan bài này

Share This Page